Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái của
người gây thiệt hại (về tài sản, sức khỏe… ) cho bản thân mình là một quyền
được áp dụng có tần suất lớn nhất trong các quyền về yêu cầu bồi thường thiệt
hại quy định bởi luật dân sự tại xã hội hiện đại. Tại Nhật, số vụ yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại do hành vi sai trái (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
(BTTHNHĐ)) chiếm 61% trong tổng số vụ việc tranh chấp dân sự. Con số này
nói lên mức độ quan trọng của quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai
trái trong đời sống dân sự.
Khi nghiên cứu về hệ thống pháp luật Dân sự Việt Nam Ông John
Gillespie giáo sư thỉnh giảng của Trường Đại học Luật Deakin - một trong
những trường Đại học Luật danh tiếng của Úc đã nhận định rằng: “Người dân
Việt Nam không biết đến quyền yêu cầu nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ bồi
thường thiệt hại cho mình do hành vi sai trái của nhà sản xuất nói riêng và quyền
yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái của người đó nói
chung”
(1)
.
Ở Việt Nam quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái tuy đã
được luật hóa tại Bộ luật dân sự, tại chương “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng” (từ Điều 604 đến 630 BLDS năm 2005) và một số văn bản
pháp luật dưới BLDS khác. Tuy nhiên, vấn đề xác định năng lực chủ thể trong
trách nhiệm BTTHNHĐ luôn luôn đặt ra cho các nhà làm luật, những người
thừa hành pháp luật cũng như các nhà nghiên cứu luật pháp những vấn đề nan
giải khi tiếp cận.
.Xuất phát từ đó tôi chọn đề tài: “Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam” để làm khoá luận tốt
nghiệp.
(1) Theo bài: Quyền của cá nhân trong thương mại (dân sự) ở Việt Nam: Phân tích dưới phương pháp so sánh)
đăng trên tạp chí Pháp luật quốc tế Đại học Stanford (Stanford Journal of International Law) số 30 năm 1994 (30 Stan. J Int’l
L. 325) tại các trang 347, 348 và 349
1
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay trên các diễn đàn nghiên cứu luật pháp ở nước ta đã xuất hiện
khá nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu về Trách nhiệm BTTHNHĐ,
như “những vấn đề cơ bản về trách nhiệm BTTHNHĐ trong Bộ luật dân sự” của
Tiến sỹ Lê Mai Anh… Tuy nhiên, đối với vấn đề về “Năng lực chủ thể của cá
nhân trong BTTHNHĐ” theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam thì còn
khá khiêm tốn trong vấn đề nghiên cứu chuyên sâu và có tính khoa học thực
tiễn.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu quy định về trách nhiệm BTTHNHĐ mà cụ
thể là “năng lực BTTHNHĐ của cá nhân” mà không đi vào nghiên cứu trách
nhiệm bồi thường theo hợp đồng và năng lực BTTHNHĐ của các chủ thể khác.
Đề tài hướng tới làm rõ các quy định của pháp luật về năng lực bồi
thường thiệt hại của cá nhân trong từng trường hợp cụ thể. Trên cơ sở đó đưa ra
những kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Kết hợp giữa quan điểm
của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quá trình
nghiên cứu đề tài tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp chứng
minh.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm hai chương:
Chương 1: Khái quát về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Chương 2: Năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân theo Bộ luật dân sự
Việt Nam 2005
2
Khúa lun tt nghip Lờ Th Huyn
CHNG I
KHI QUT V TRCH NHIM DN S NGOI HP NG
1.1.Khỏi nim v cỏc iu kin phỏt sinh trỏch nhim dõn s ngoi hp
ng
1.1.1.Khỏi nim trỏch nhim dõn s ngoi hp ng
Xó hi luụn luụn l tng ho ca cỏc mi quan h a dng v phc tp v
cn n s iu chnh ca phỏp lut. Chớnh t s a dng v phc tp ca cỏc
quan h xó hi nờn yờu cu phỏp lut cng cn cú mt c ch iu chnh a dng
v phự hp, xut phỏt t õy m nhiu quan h phỏp lut ó ra i trong ú cú
quan h v ngha v dõn s. Trong quan h ny khi ch th tham gia khụng thc
hin hoc thc hin khụng ỳng ngha v ó cam kt k c thc hin khụng
ỳng ngha v do phỏp lut quy nh thỡ phi gỏnh chu v mỡnh nhng hu qu
bt li. Hu qu bt li ny th hin thụng qua vic gii quyt trỏch nhim dõn
s gia ngi cú quyn vi ngi cú ngha v v c thc hin theo nguyờn
tc bờn cú hnh vi vi phm v gõy ra thit hi s phi bi thng. Theo Tạp chí
dân chủ và pháp luật của Bộ T pháp, số chuyên đề về Bộ luật dân sự Việt Nam
2005, tại phần thuật ngữ pháp luật dân sự có đa ra khái niệm về trách nhiệm dân
sự nh sau: Trỏch nhim dõn s (theo ngha rng) l cỏc bin phỏp cú tớnh cng
ch c ỏp dng nhm khụi phc li tỡnh trng ban u ca mt quyn dõn s
b vi phm. Trách nhiệm dân sự (theo ngha hp) l cỏc bin phỏp cng ch ỏp
dng i vi ngi cú hnh vi vi phm phỏp lut gõy ra thit hi cho ngi
khỏc, ngi gõy ra thit hi phi chu trỏch nhim khc phc nhng hu qu xu
xy ra bng ti sn ca mỡnh.[tr. 249]
Cỏc ch th khi tham gia vo quan h phỏp lut phi gỏnh chu nhng hu
qu bt li, h phi chu trỏch nhim dõn s l do chớnh nhng hnh vi sai trỏi
ca mỡnh. Hnh vi ca cỏc ch th cú th l vi phm hp ng (khụng thc hin,
thc hin khụng ỳng, khụng y ngha v ó cam kt) hoc do hnh vi vi
phm phỏp lut. Nh vy, trỏch nhim dõn s cú th chia thnh hai loi ú l
trỏch nhim dõn s theo hp ng v trỏch nhim dõn s ngoi hp ng.
3
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
Thực tiễn đời sống hàng ngày của chúng ta xảy ra rất nhiều các thiệt hại
về tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, tài sản, danh
dự, uy tín của tổ chức. Nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại này rất đa dạng, có
thể là do tác động của các yếu tự nhiên bên ngoài, tác động bởi hoàn cảnh khách
quan hay hành vi của con người…trong đó phần lớn là do các hành vi trái pháp
luật của con người mang lại. Trước những hành vi xâm phạm tới các quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ cho nên nhà nước
cần đề ra những biện pháp để ngăn chặn và khắc phục hậu quả. Điều 71 Hiến
pháp 1992 của nước ta ghi nhận: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm…”. Thể
chế hoá các quy định về vấn đề này của Hiến pháp BLDS Việt Nam 2005 tại
Điều 604 đã quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ
thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Điều này có nghĩa là một người
nào đó gây thiệt hại cho người khác thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Khi một người gây thiệt hại cho người khác sẽ làm phát sinh mối quan hệ bồi
thường thiệt hại giữa họ và người bị thiệt hại. Quan hệ bồi thường thiệt hại này
phát sinh từ hành vi trái pháp luật của một bên chủ thể nhưng giữa các bên
không có mối quan hệ hợp đồng hoặc nếu có, thì vi phạm này không phải là vi
phạm nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng, do đó phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là trách nhiệm phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ
hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi vi phạm của người gây
thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ chấp hành hợp đồng đã ký kết.
Như vậy, về cơ bản thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
phát sinh không phải từ quan hệ hợp đồng nhưng cũng không thể khẳng định
một cách cứng nhắc rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ
4
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
phát sinh không phải từ hợp đồng. Nếu khẳng định như vậy thì sai lầm, phiến
diện và thiếu căn cứ, bởi lẽ ta không thể loại bỏ được khả năng nghĩa vụ dân sự
ngoài hợp đồng phát sinh xuất phát từ quan hệ hợp đồng giữa các bên chủ thể.
Ngoài ra, quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn xuất hiện trong rất
nhiều trường hợp khác nhau. Ví dụ như quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, việc thực hiện công việc không có uỷ quyền, ngay cả hợp đồng dân
sự vô hiệu hay hành vi pháp lý đơn phương cũng có thể trở thành nguyên nhân
của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và còn rất nhiều các trường
hợp khác nữa.
Qua những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó
không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi của
người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký kết giữa
các bên.
1.1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Pháp luật nghiêm cấm các hành vi gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng,
sức khoẻ… cho công dân một cách bất hợp pháp. Các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân luôn được Nhà nước bảo hộ. Điều 74 Hiến pháp1992 của Nhà
nước CHXHCN Việt Nam quy định: “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời
xử lý nghiêm minh…”. Pháp luật quy định những biện pháp buộc người có hành
vi vi phạm pháp luật và gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm trước những hậu quả
mà mình gây ra cho người khác, đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều
604 BLDS 2005 quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp
khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ
thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Như vậy, trách nhiệm bồi
5
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
thường chính là hậu quả bất lợi về tài sản mà người có hành vi xâm phạm đến
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm…của người khác phải gánh chịu.
Tuy nhiên, để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thì việc quy định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do gây thiệt hại cho người khác không thể xác định một cách tuỳ tiện và
thiếu căc cứ. Pháp luật dân sự quy định việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt
hại căn cứ vào các điều kiện nhất định. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng chính là những yếu tố tạo nên cơ sở cho việc
xác định trách nhiệm bồi thường. Các điều kiện này phải được xem xét trong
mối quan hệ biện chứng, thống nhất và đầy đủ.
Trong Bộ luật dân sự 2005 của nước ta không có một quy định nào quy
định cụ thể về các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, theo Nghị Quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao số 01/2004 NQ/- HĐTP ngày 28 tháng 4 năm 2004 hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng thì có bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng: (1) có thiệt hại xảy ra, (2) hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp
luật, (3) có lỗi của người gây thiệt hại, (4) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt
hại và hành vi trái pháp luật.
*Có thiệt hại xảy ra
Mục đích của việc bồi thường thiệt hại là khôi phục lại, bù đắp lại những
tổn thất cho người bị thiệt hại cho nên nếu không có thiệt hại thì vấn đề bồi
thường sẽ không được đặt ra kể cả trong trường hợp các điều kiện khác đã đáp
ứng đầy đủ. Từ đây có thể thấy thiệt hại là điều kiện tiên quyết, bắt buộc phải có
của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để quyết định xem có phát
sinh trách nhiệm bồi thường hay không.
“Thiệt hại” theo luật dân sự Việt Nam là những tổn thất thực tế được tính
thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản
của tổ chức, cá nhân, tổn thất thực tế ở đây chính là sự giảm sút, mất mát về lợi
6
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
ích vật chất, tinh thần hay những chi phí bỏ ra để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục
thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Như vậy, xét từ bất kỳ góc độ nào
thì hành vi trái pháp luật và gây ra thiệt hại cũng đều xâm phạm đến các quan hệ
xã hội được pháp luật bảo vệ, cho nên, những quy định về bồi thường thiệt hại
của pháp luật dân sự đưa ra là hợp lý để kịp thời ngăn chặn những hành vi gây
thiệt hại và buộc những người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại phải có trách
nhiệm bồi thường. Người đã gây ra thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi thường
những tổn thất mà mình gây ra là hoàn toàn đích đáng nhưng để có một quyết
định giải quyết về mức bồi thường thiệt hại thật chính xác và hợp tình, hợp lý thì
người có trách nhiệm giải quyết cần quan tâm đến tính chất của những thiệt hại
đã xảy ra. Bởi lẽ, khi có thiệt hại xảy ra thì thiệt hại này có thể dễ dàng tính toán,
quy đổi thành tiền nếu đó đơn thuần là những thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên
thiệt hại xảy ra có thể là về tinh thần, tính mạng, sức khỏe của con người. Bản
chất của hai loại thiệt hại nay mang những đặc điểm riêng biệt, do vậy việc phân
chia và nghiên cứu rõ hai loại thiệt hại này sẽ giúp cho việc xác định bồi thường
thiệt hại tiến hành được chính xác hơn, thuận tiện hơn.
- Thứ nhất là thiệt hại về vật chất
Điều đầu tiên phải khẳng định rằng thiệt hại về vật chất là thiệt hại có thể
tính toán, định lượng ra tiền được. Theo thông tư 173 UBTP/TANDTC ngày
23/3/1997 thì thiệt hại về vật chất (tài sản) là sự mất mát, giảm sút về một lợi ích
vật chất có thể tính toán được bằng tiền, bao gồm các khoản: Những hư hỏng,
mất mát về tài sản, những chi phí bỏ ra để sửa chữa và những thu nhập bị mất do
bị thiệt hại.
Ghi nhận sự thiệt hại về vật chất (tài sản) BLDS 2005 đã quy định rõ
thiệt được bồi thường do tài sản bị xâm phạm. Theo lôgic thì thiệt được bồi
thường cũng chính là thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu, bao gồm:
1. Tài sản bị mất;
2. Tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng;
3. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản;
7
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
4. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại
Và các thiệt hại trên muốn được bồi thường thì phải thoả mãn một số điều kiện:
sự thiệt hại phải chắc chắn, thực tế và chưa được bồi thường.
Thiệt hại phải chắc chắn nghĩa là người bị thiệt hại phải đưa ra được
những thiệt mà mình phải gánh chịu và những thiệt hại đó có thể tính toán được.
Thiệt hại đó phải thực tế tuy nhiên tính thực tế của thiệt hại được biểu hiện
không nhất thiết phải là thiệt hại đã xảy ra bởi lẽ một thiệt hại trong tương lai
(thiệt hại gián tiếp) cũng được coi là có tính thực tế nếu chắc chắn rằng nó sẽ
xảy ra và có thể ước lượng trước được. Do vậy mà hậu quả tương lai của một
thiệt hại thực tế cũng có thể được xem xét để định ra mức bồi thường. Đương
nhiên một thiệt hại không chắc chắn và chỉ mang tính giả định thì không thể
được xem xét để bồi thường.
Qua những phân tích trên cho thấy khi tính toán đến thiệt hại nhà làm luật
không chỉ tính đến những thiệt hại trực tiếp xảy ra mà còn tính đến cả những
thiệt hại gián tiếp. Nhưng khi tính đến những thiệt hại gián tiếp cần phải xem xét
thật kỹ mối quan hệ giữa thiệt hại gián tiếp với những thiệt hại trực tiếp đã xảy
ra.
Liên quan đến việc xác định bồi thường thiệt hại thì việc thiệt hại đã được
đền bù chưa cũng là một vấn đề phức tạp để. Hiển nhiên nếu một thiệt hại đã
được bồi thường rồi thì người bị thiệt hại không thể khởi kiện để đòi bồi thường
một lần nữa. Song trên thực tế để xác định xem một thiệt hại đã được bồi thường
chưa không đơn giản chút nào. Vấn đề được đặt ra trong trường hợp bảo hiểm.
BLDS Việt Nam quy định về quan hệ bảo hiểm gồm có ba loại gồm có
bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm tính mạng và bảo hiểm tài sản.
Đối với quan hệ bảo hiểm trách nhiệm dân sự nếu nạn nhân - người bị
thiệt hại đã được công ty bảo hiểm bồi thường thì không thể kiện người gây ra
thiệt hại để đòi bồi thường thêm một lần nữa vì khi công ty bảo hiểm bồi thường
cho nạn nhân là họ đã đại diện cho người gây ra thiệt hại. Vấn đề sẽ trở nên
phức tạp hơn trong trường hợp bảo hiểm tính mạng và bảo hiểm tài sản.
8
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
Khi có thiệt hại xảy ra người đựơc bảo hiểm đã được công ty bảo hiềm
bồi thường rồi thì có được tiếp tục yêu cầu người gây ra thiệt hại bồi thường nữa
không? Và số tiền mà công ty bảo hiểm đã chi trả cho người được bảo hiểm có
phải là một khoản bồi thường thiệt hại hay không?
Số tiền mà công ty đã chi ra cho người bị thiệt hại thì công ty có quyền
đòi người gây ra thiệt hại phải thanh toán cho mình số tiền đó không? Điều này
đã được giải quyết theo Điều 577 của BLDS 2005 về chuyển yêu cầu hoàn trả:
“Trường hợp người thứ ba có lỗi mà gây thiệt hại cho bên được bảo hiểm và
bên bảo hiểm đã trả tiền bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ
ba hoàn trả khoản tiền mình đã trả”. Cũng theo quy định của điều luật này thì
người được bảo hiểm có quyền yêu cầu bồi thường thêm khoản chênh lệch mà
người bảo hiểm hoặc người gây thiệt hại bồi thường.
- Thứ hai là thiệt hại về tinh thần
Không có một khái niệm nào đựơc đưa ra giải thích thế nào là “thiệt hại về
tinh thần” chúng ta chỉ có thể hiểu một cách khái quát thiệt hại tinh thần là sự
xâm phạm vào các giá trị tinh thần, tình cảm như là sự mất danh dự, tạo nên
những đau thương…Pháp luật dân sự không có một quy định nào cụ thể về vấn
đề này, khoản 3 Điều 307 quy định một cách khái quát: “Người gây thiệt hại
tính thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi,
cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về
tinh thần cho người bị hại”.
Bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm là vấn đề
nhạy cảm và phức tạp, bởi vì những thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại phi
vật chất không thể cân, đo, đong, đếm được, cũng không có một công thức
chung để quy ra tiền áp dụng cho các trường hợp. Suy cho đến cùng những bù
đắp về tình thần chỉ mang tính chất an ủi, động viên đến người bị thiệt hại mà
thôi. Có thể nói đây là một vấn đề khó, cho đến nay về cơ bản các nhà làm luật
vẫn chưa ban hành được văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Nói về thiệt
9
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
hại tính thần có hai quan điểm khác nhau về vấn đề bồi thường: quan điểm thứ
nhất cho rằng thiệt hại về tinh thần là thiệt hại không thể bù đắp được vì thiệt hại
về tinh thần như mất đi người thân, tình cảm bị xúc phạm… những tổn thất này
đều vô giá không thể quy đổi ra thành tiền được, quan điểm thứ hai lại cho rằng
thiệt hại dù là vật chất hay tinh thần đều phải bồi thường vì những thiệt hại tính
cho đến cùng thì cũng chỉ mang tính tương đối mà thôi. Ngay cả thiệt hại về vật
chất nói là có thể tính ra thành tiền được nhưng mọi sự đền bù cũng chỉ mang
tính khắc phục, sửa chữa làm sao có thể để nó trở lại nguyên gốc của trạng thái
ban đầu như trước khi chưa bị thiệt hại. Mỗi một quan điểm đều có cách luận
giải riêng của mình nhưng giả sử ta cho rằng quan điểm thứ nhất là hợp lý thì
chẳng lẽ người bị gây hại phải đương nhiên gánh chịu những tổn thất do người
khác gây ra cho mình hay sao? Như vậy phải chăng là quá thiệt thòi cho người
bị gây hại, mà người có lỗi thì lại không phải gánh vác một trách nhiệm gì cả.
Theo quan điểm hai sẽ hợp lý hơn, dù rằng những thiệt hại về tinh thần tuy là
khó có thể tính toán được nhưng xét trên một phương diện nào đó thì việc được
đền bù phần nào sẽ an ủi người bị hại và cũng là cơ hội cho người gây ra thiệt
hại chuộc lỗi. Mặt khác nếu xem xét một cách khoa học thì bên cạnh sự biểu
hiện vô hình của những thiệt hại về tinh thần làm cho mọi tính toán thiệt hại trở
nên khó khăn vẫn còn một số căn cứ có thể tính toán được để buộc người gây ra
thiệt hại phải bồi thường cho người bị hại. Đây là những thiệt hại phát sinh từ
những tổn thất về tinh thần (ví dụ như thu nhập bị mất vì phải nghỉ việc, chi phí
để thay đổi môi trường sống và sinh hoạt). BLDS 2005 cũng đã quy định việc
bồi thường thiệt hại tinh thần tại các điều: Điều 609, Điều 610, Điều 611 nhằm
đảm bảo quyền lợi chính đáng của công dân. Đó là những thiệt hại phần nào còn
tính toán được còn những thiệt hại thuần tuý về tính thần không thể tính toán
được thì sự bù đắp chỉ là tượng trưng, vì vậy cơ quan có thẩm quyền khi giải
quyết vụ việc cần phải thận trọng để có thể đưa ra một quyết định thật sự thoả
đáng. Một điểm cần lưu ý về thiệt hại tinh thần, đây là những thiệt hại gắn liền
nhân thân của người bị hại và không thể chuyển giao quyền yêu cầu bồi thường
10
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
thiệt hại do đó chỉ có người bị thiệt hại mới có quyền hưởng bồi thường. Tuy
nhiên đối với người gây ra thiệt hại thì khác, nếu người gây ra thiệt hại chết mà
không thực hiện được nghĩa vụ về tài sản của mình thì theo quy định của khoản
1 Điều 173 “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về
tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác”.
*Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là quyền
tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền
đó của chủ thể khác và không được thực hiện bất cứ một hành vi nào xâm phạm
đến các quyền đó. Theo đó Điều 604 của BLDS 2005 có thể được hiểu là: hành
vi trái pháp luật là hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín , tài sản của cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác. Việc xâm
phạm và gây thiệt hại có thể là hành vi trái pháp luật hình sự, hành chính, dân
sự, kể cả đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, các quy tắc sinh hoạt trong
từng cộng đồng dân cư. Có nghĩa là để coi là hành vi trái pháp luật thì bắt buộc
là hành vi đó phải vi phạm một quy định pháp luật cụ thể. Đối với trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hành vi vi phạm bất cứ quy định của luật
nào mà xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì
hành vi đó là trái pháp luật.
Hành vi trái pháp luật có thể là hành vi xâm phạm đến các quyền tài sản
hoặc các quyền nhân thân. Khi xâm phạm đến các quyền về tài sản có nghĩa là
xâm phạm đến các quyền về sở hữu, các quyền khác về vật còn xâm phạm đến
các quyền nhân thân có nhiều biểu hiện khác nhau như xâm phạm đến đời tư,
gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín… Là một
trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, hành vi gây thiệt hại phải trái pháp luật, như vậy nếu hành vi có gây ra
thiệt hại nhưng không trái pháp luật thì trách nhiệm bồi thường sẽ không đặt ra.
Trên thực tế có nhiều trường hợp chủ thể đã gây ra thiệt hại nhưng hành vi gây
11
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
ra thiệt hại không phải là vi phạm pháp luật mà là hành vi hợp pháp nếu hành vi
đó được thực hiện theo nghĩa vụ mà pháp luật quy định hoặc nghề nghiệp buộc
họ phải làm như vậy. Trong các trường hợp này, trách nhiệm bồi thường không
được đặt ra đối với người gây thiệt hại. Ngoài ra, người gây thiệt hại không phải
bồi thường trong trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết hoặc theo
yêu cầu của người bị hại. Tuy nhiên, nếu vượt quá giới hạn nêu trên thì người
gây ra thiệt hại vẫn phải bồi thường.
* Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi thiệt hại
xảy ra là do chính kết quả trực tiếp, tất yếu của hành vi trái pháp luật. Đây chính
là mối quan hệ của sự vận động nội tại, trực tiếp và về nguyên tắc nguyên nhân
phải xảy ra trước kết quả trong khoảng thời gian xác định. Theo Điều 604 của
BLDS thì có thể thấy hành vi “xâm phạm” đến tính mạng, tài sản, sức khoẻ…là
nguyên nhân và “thiệt hại” là hậu quả của hành vi đó.
Hành vi trái pháp luật là nguyên nhân làm phát sinh thiệt hại cho nên hành
vi đó bao giờ cũng xuất hiện trước thiệt hại. Mối quan hệ nhân quả là một vấn
đề phức tạp bởi lẽ một thiệt hại xảy ra có thể là do tác động của một hoặc của
nhiều hành vi trái pháp luật và một hành vi trái pháp luật cũng có thể gây ra
nhiều thiệt hại.
Trong trường hợp thiệt hại do nhiều nguyên nhân gây ra thì xác định đâu
là nguyên nhân chính hay tất cả đều là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại quả thật là
phức tạp. Ở đây phải xác định xem hành vi nào là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
thiệt hại. Cũng có nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra lại là do một hành vi trái
pháp luật khác xen vào chứ không phải do hành vi có chứa đựng khả năng thực
tế làm phát sinh gây thiệt hại. (Ví dụ A dùng dao đâm B bị thương, trên đường
đi cấp cứu B lại bị xe của C đâm phải gây trấn thương sọ não dẫn đến tử vong.
Kết quả giám định pháp y cho thấy B chết không phải là do A đâm vì vết thương
của A đâm vẫn có thể cứu chữa được nếu B được cấp cứu kịp thời ( không bị xe
của C đâm) ). Như vậy, tuy hành vi của A có chứa đựng khả năng gây thiệt hại
12
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
đến tính mạng của B nhưng khả năng này chưa kịp phát huy thì hành vi trái pháp
luật của C lại xen vào phá vỡ đi khả năng đó và tạo ra một quan hệ mới và trong
quan hệ này thì hành vi trái pháp luật của C trực tiếp gây ra thiệt hại về tính
mạng cho B.
Trường hợp một nguyên nhân có thể gây ra nhiều thiệt hại thì cần phải
xác định rõ xem kết qủa nào là hậu quả trực tiếp do nguyên nhân là hành vi trái
pháp luật gây ra. Trong trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng chúng ta biết
rằng trái hộ chỉ phải bồi thường về những khoản được coi là hậu quả trực tiếp
của sự vi phạm. Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng, tuy nhiên, thiệt hại trực tiếp ở đây không nhất thiết phải là hậu
quả ngay lập tức của nguyên nhân gây thiệt hại mà chỉ cần là hậu quả tất nhiên
của hành vi gây thiệt hại.
Tóm lại việc xác định mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết qủa giữa
hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất phức tạp và
dễ dẫn đến những sai lầm vì vậy khi xem xét mối quan hệ này cần hết sức thận
trọng, phải thu thập đầy đủ các tài liệu và chứng cứ, đánh giá một cách toàn diện
đối với vấn đề đang giải quyết để có thể đưa ra một kết luận chính xác, xác định
đúng người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
* Người gây thiệt hại có lỗi
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Xét về bản chất
lỗi được các ngành luật xác định nhau. Đó là chính là quan hệ giữa chủ thể thực
hiện hành vi trái pháp luật với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định những
yêu cầu của xã hội đã được thể hiện thông qua các quy định của pháp luật. Khi
một người có đủ nhận thức và điều kiện để lựa chọn cách xử sự sao cho xử sự
đó phù hợp với pháp luật, tránh được thiệt hại cho chủ thể khác nhưng vẫn thực
hiện hành vi gây thiệt hại thì người đó bị coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là trạng thái
tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, phản ánh nhận thức của người đó đối
với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện.
13
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
Việc áp dụng lỗi làm căn cứ để xác định trách nhiệm được BLDS 2005
quy định tại Điều 308 trong đó nhấn mạnh lỗi là căn cứ phát sinh trách nhiệm
dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Điều 308 khoản 2 cũng chia lỗi thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý được quy
định như sau: “Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi
của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc
tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra”. Về mặt khách quan,
quy định này đã dự liệu trường hợp người gây thiệt hại nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện cho dù người thực hiện
hành vi có thái độ mong muốn hoặc không mong muốn nhưng đã có thái độ để
mặc cho thiệt hại xảy ra. Do vậy, người đó phải chịu trách nhiệm trước hành vi
có lỗi cố ý của mình. Xét về mặt chủ quan, người gây thiệt hại khi thực hiện
hành vi luôn nhằm mục đích có thiệt hại xảy ra cho người khác và được thể hiện
dưới hai mức độ là mong muốn có thiệt hại xảy ra, hai là không mong muốn
thiệt hại xảy ra nhưng lại để mặc cho thiệt hại xảy ra. Mức độ thể hiện ý chí -
hành vi của người cố ý gây thiệt hại trong trường hợp người đó nhận thức rõ
hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện thì phải chịu
trách nhiệm bồi thường. Tại khoản 2, Điều 308 quy định về khái niệm lỗi vô ý:
“Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình
có khả năng gây thiệt hại mặc dù phải biết hoặc có thể thấy trước thiệt hại sẽ xảy
ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng lại cho
rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”. Người gây thiệt hại
đã không mong muốn, không để mặc cho thiệt hại xảy ra nhưng đã họ không
kiểm soát được diễn biến của sự kiện do hành vi vô ý của mình tạo ra do đó dù
là vô ý thì họ cũng phải chịu trách nhiệm trước hậu quả xảy ra. Việc phân chia
thành lỗi vô ý và lỗi cố ý có ý nghĩa như thế nào trong trách nhiệm dân sự nói
chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng? Để hiểu rõ
vấn đề này ta sẽ đi vào so sánh lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong tương quan với lỗi trong trách nhiệm hình sự. Trong trách nhiệm
14
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
hình sự lỗi và mức độ lỗi có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định tội
danh và định khung hình phạt nên bắt buộc phải có sự phân biệt chi tiết các mức
độ khác nhau của hình thức lỗi. Nhưng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng thì không như vậy, ngay Điều 604 của BLDS cũng đã quy định
rằng: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích khác của cá nhân, xâm
phạm đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc của chủ thể khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường”. Theo điều luật này thì dù là lỗi cố ý hay lỗi vô ý
mà để thiệt hại xảy ra thì đều phải bồi thường và mức bồi thường cũng không
phụ thuộc vào hình thức lỗi. Như vậy, dù có sự phân chia thành lỗi cố ý và lỗi
vô ý nhưng ý nghĩa của sự phân chia này thì dường như không tồn tại. Điều này
thể hiện rõ trong các quy định của BLDS 2005 về phần bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, ngoại trừ khoản 2 Điều 615 có nhắc đến lỗi cố ý của người
dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất
khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của họ mà gây ra thiệt hại thì phải
bồi thường cho người bị thiệt hại. Và khoản 2 Điều 605 quy định về việc người
gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại
thì việc phân chia lỗi không được thể hiện trong các quy định khác của mục này.
Tóm lại vấn đề hình thức lỗi, mức độ lỗi trong trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm bồi
thường, thậm chí chủ thể còn phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi
(khoản 3 Điều 623).
Khi đi nghiên cứu “lỗi” trong mối quan hệ là một trong bốn điều kiện của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì một vấn đề quan trọng được
đặt ra là việc xác định đúng mức độ lỗi của các bên trong quan hệ này để đưa ra
một quyết định bồi thường chính xác và thỏa đáng. Bởi lẽ trong rất nhiều trường
hợp việc xác định lỗi là rất phức tạp và gây không ít khó khăn như trong các
trường hợp lỗi hỗn hợp hoặc lỗi lại là của người bị thiệt hại. Thứ nhất là trường
hợp lỗi hỗn hợp nghĩa là cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi
15
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
trong việc để thiệt hại xảy ra. Điều 617 có quy định về trường hợp bồi thường
thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi: “Khi người bị thiệt hại cũng
có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần
thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình”, trong điều luật này có nhắc đến
“mức độ” lỗi do vậy việc xác định trách nhiệm bồi thường trong trường cả hai
bên đều có lỗi thì mỗi bên phải chịu trách nhiệm tương ứng với mức độ lỗi của
mình. Tuy nhiên, trong BLDS 2005 của nước ta lại không có quy định về mức
độ lỗi, vậy đâu là căn cứ để xác định mức độ lỗi cho từng bên? Việc xác định
mức độ lỗi cũng được đặt ra trong trường hợp bồi thường thiệt hại do nhiều
người cùng gây ra, nhưng trong trường hợp này có phần đơn giản hơn vì theo
quy định của luật nếu không xác định được mức độ lỗi thì bồi thường thiệt hại
theo phần bằng nhau. Thứ hai là trường hợp lỗi hoàn toàn thuộc về người bị
thiệt hại. Điều 617 của BLDS quy định rất rõ ràng: “Nếu thiệt hại xảy ra hoàn
toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi
thường”. Nhưng hiểu thế nào về trường hợp người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi,
và lỗi ở đây là lỗi vô ý hay lỗi cố ý và việc phân chia ra hai hình thức lỗi có ý
nghĩa gì không? Có thể nêu ra một số vấn đề sau khi đi xác định lỗi của người bị
thiệt hại:
Nếu người bị thiệt hại có lỗi hoàn toàn trong việc để thiệt hại xảy thì dù
đó là lỗi cố ý hay là lỗi vô ý mà người gây thiệt hại không có lỗi thì người gây
thiệt hại không phải bồi thường.
Người gây thiệt hại có lỗi vô ý và người bị thiệt hại có lỗi cố ý trong việc
để thiệt hại xảy ra thì người gây thiệt hại cũng không phải bồi thường.
Như vậy, vấn đề hình thức lỗi và mức độ lỗi không có ý nghĩa trong việc
xác định trách nhiệm bồi thường nếu lỗi đó là hoàn toàn thuộc về người bị thiệt
hại và đương nhiên người gây thiệt hại không phải bồi thường.
Việc pháp luật quy định vấn đề lỗi thuộc về người bị thiệt hại đã loại trừ
trách nhiệm của người gây thiệt hại. Do đó, người gây thiệt hại muốn giải thoát
16
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
trách nhiệm thì phải chứng minh mình không có lỗi hoặc thiệt hại xảy ra hoàn
toàn là do lỗi của người bị thiệt hại (Điều 606 BLDS 2005).
Bàn về vấn đề lỗi ta thấy việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
không chỉ đặt ra với chủ thể có lỗi trực tiếp gây ra thiệt hại mà còn đặt ra việc
xác định trách nhiệm của người không trực tiếp gây ra thiệt hại để quy trách
nhiệm bồi thường cho chính họ. Đó là trường hợp lỗi của người giám hộ, người
đỡ đầu, người quản lý và lỗi của pháp nhân trước hành vi trái pháp luật do người
của pháp nhân gây ra.
1.1.3. Phân biệt trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng và trách nhiệm dân sự
theo hợp đồng
Theo quy định của pháp luật dân sự thì trách nhiệm dân sự được chia
thành hai loại là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng và trách nhiệm dân sự theo
hợp đồng. Trách nhiệm dân sự theo hợp đồng là trách nhiệm phát sinh do một
bên đã không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mà các
bên đã cam kết trong hợp đồng. Điều cơ bản nhất để hình thành nên loại trách
nhiệm này là giữa các bên phải có quan hệ hợp đồng, hợp đồng đó phải có hiệu
lực và thiệt hại xảy ra phải là do hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng,
không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng.
Tuy có những điểm giống nhau nhất định vì cùng là trách nhiệm dân sự
nhưng giữa hai loại trách nhiệm này cũng có những điểm khác nhau căn bản:
Về cơ sở phát sinh: trách nhiệm dân sự theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có
sự hiện diện của một hợp đồng, loại trách nhiệm này phát sinh do hành vi không
thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng. Trong
khi đó, trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phát sinh từ một hành vi cố ý hoặc
vô ý gây thiệt hại cho người khác và hành vi đó không liên quan đến bất kỳ một
hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại.
Khi thực hiện trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng người gây thiệt hại phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại cả thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp (nếu có),
17
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
còn trong trách nhiệm theo hợp đồng thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường
những thiệt hại trực tiếp và những thiệt hại có thể tiên liệu trước khi ký kết hợp
đồng.
Việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ làm chấm
dứt nghĩa vụ giữa các bên, trong khi đó việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại theo hợp đồng thì nghĩa vụ của người gây thiệt hại chưa chắc đã chấm dứt.
Trong trách nhiệm dân sự theo hợp đồng trách nhiệm chỉ phát sinh do lỗi
cố ý hoặc vô ý của người không thực hiện, thực hiện không đúng hợp đồng trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc giữa các bên có thỏa thuận khác,
còn trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng thì ngay cả trong trường hợp
không có lỗi thì vần phải bồi thường theo quy định của pháp luật (Khoản 2 Điều
604 BLDS 2005).
Một điểm khác nữa giữa hai loại trách nhiệm này là những người gây thiệt
hại ngoài hợp đồng đa phần phải chịu trách nhiệm liên đới nếu có đủ các điều
kiện mà luật định, còn trong trách nhiệm theo hợp đồng trách nhiệm liên đới chỉ
đặt ra nếu có thỏa thuận trước.
Khi ta đi so sánh hai loại trách nhiệm này có điểm cần phải lưu ý là không
phải giữa hai bên có quan hệ hợp đồng thì mọi thiệt hại gây ra đều đưa đến trách
nhiệm theo hợp đồng và ngược lại trách nhiệm ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi
giữa hai bên hoàn toàn không có quan hệ hợp đồng, đặc biệt cần phải phân biệt
rõ về thời điểm phát sinh trách nhiệm giữa hai loại trách nhiệm này để xác định
rõ đâu là trường hợp bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và đâu là bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng: trong bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì trách
nhiệm phát sinh kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực và có bên vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng, còn trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trách nhiệm
phát sinh kể từ thời điểm xảy ra hành vi gây thiệt hại. Mặt khác, phân định hai
loại trách nhiệm này còn có ý nghĩa để xác định chủ thể phải bồi thường. Thông
thường trách nhiệm dân sự theo hợp đồng thì người tham gia hợp đồng phải chịu
18
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
trách nhiệm còn trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng có thể do người đại diện,
giám hộ chịu trách nhiệm.
1.2. Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.2.1. Khái niệm cá thể hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Khi có thiệt hại xảy ra thì bên cạnh việc xác định mức độ thiệt hại, cùng
các điều kiện cấu thành trách nhiệm của người gây thiệt hại thì việc xác định rõ
ai là người phải đứng ra gánh vác trách nhiệm và thực hiện việc bồi thường để
đảm bảo quyền lợi cho người bị hại là một vấn đề rất quan trọng. Cơ quan tòa án
có thẩm quyền khi nhận được đơn kiện yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại cũng
phải hết sức thận trọng trong vấn đề này.
Theo cách hiểu một cách chung và khái quát nhất thì ai là người gây ra
thiệt hại thì người đó phải bồi thường. Tuy nhiên điều kiện để trở thành một chủ
thể tham gia vào một quan hệ pháp luật thì người đó phải có đầy đủ năng lực
chủ thể theo quy định của pháp luật. Trong thực tế có rất nhiều hành vi gây thiệt
hại cho người khác và hành vi gây thiệt hại này cũng có thể là của bất kỳ cá
nhân nào kể cả những người không đủ, không có hoặc bị hạn chế năng lực tham
gia vào các quan hệ pháp luật. Khi một người đã gây ra thiệt hại cho người khác
thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ phát sinh, nhưng nếu như người gây ra
thiệt hại lại không có năng lực để tham gia vào quan hệ pháp luật bồi thường
thiệt hại thì ai sẽ là người có trách nhiệm bồi thường để đảm bảo quyền lợi cho
người bị thiệt hại.
Như vậy, khi thiệt hại xảy ra cần phải xác định trách nhiệm bồi thường sẽ
thuộc về ai. Đây là một vấn đề rất quan trọng, bởi lẽ nếu không xác định được
người phải bồi thường thì quyền lợi của người bị thiệt hại không được đảm bảo.
Chính vì vậy mà vấn đề cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đặt ra.
Vậy, cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là việc
xác định người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại chính trong từng trường hợp
gây thiệt hại cụ thể bất luận người đó có phải là người trực tiếp gây ra thiệt hại
hay không.
19
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
Cá thể hóa trách nhiệm chính là việc quy trách nhiệm bồi thường cho một
chủ thể, việc này có một ý nghĩa rất quan trọng trong vấn đề bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng: Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ giúp cho việc
giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại diễn ra dễ dàng hơn, xác định đúng người
có trách nhiệm bồi thường sẽ tạo ra tính khả thi cho công tác thi hành án sau
này; cá thể hóa trách nhiệm để xác định trách nhiệm thuộc về ai giảm bớt nguy
cơ việc lạm dụng việc mất năng lực hay không đầy đủ khả năng nhận thức của
người khác mà kích động họ gây thiệt hại cho người khác và thu lợi bất chính,
đồng thời nâng cao tinh thần, trách nhiệm của những người có nghĩa vụ trông
nom, giáo dục những người không có năng lực hành vi hoặc có năng lực hành vi
một phần.
1.2.2. Điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Để trở thành chủ thể của một quan hệ pháp luật dân sự thì người tham gia
cần đáp ứng điều kiện về năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật. Quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng là một quan hệ pháp luật dân sự do
vậy để trở thành chủ thể của quan hệ này thì người tham gia cũng cần phải có
đầy đủ những điều kiện về năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật nói chung.
Bên cạnh đó, do đặc thù riêng của quan hệ pháp luật này mà cần có thêm một số
điều kiện nhất định.
Khi một chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường có nghĩa là chủ thể đó đang
tham gia vào một quan hệ pháp luật, do vậy người này cần phải có đầy đủ năng
lực chủ thể để tham gia vào một quan hệ pháp luật đó là độ tuổi và nhận thức
(năng lực hành vi). Trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhiều
khi người đứng ra thực hiện trách nhiệm bồi thường lại không phải là người đã
trực tiếp gây ra thiệt hại mà họ phải thực hiện trách nhiệm bồi thường là do lỗi
quản lý của mình trong việc để thiệt hại xảy ra. Do đó, một điều kiện cần để quy
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho một chủ thể đó là mối quan
hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường.
20
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
Như vậy để cá thể hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng cho một chủ
thể cần phải đáp ứng các điều kiện sau: (độ tuổi, nhận thức, mối quan hệ pháp lý
giữa người gây thiệt hại và người bồi thường.)
- Độ tuổi
Việc quy định độ tuổi là một trong những điều kiện để cá thể hóa trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là rất hợp lý. Bởi vì khi một chủ thể
tham gia vào quan hệ bồi thường thiệt hại có nghĩa là chủ thể đang tham gia vào
một quan hệ pháp luật dân sự. Để có thể tham gia vào quan hệ này thì trước hết
chủ thể này phải đáp ứng được yêu cầu về năng lực chủ thể theo quy định của
pháp luật. Theo quy định của pháp luật thì năng lực chủ thể được cấu thành bởi
hai yếu tố là năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Về năng lực pháp luật tại
khoản 3, Điều 14 BLDS 2005 đã quy định : “Năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết”. Theo quy định
này, mỗi cá nhân đang sống và tồn tại trong xã hội luôn luôn có năng lực pháp
luật dân sự có nghĩa là họ luôn có khả năng có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
Tuy nhiên, năng lực hành vi dân sự của cá nhân thì ngược lại. Năng lực hành vi
dân sự của cá nhân hình thành khi đáp ứng những điều kiện nhất định đó là về
độ tuổi và nhận thức. Mặt khác, năng lực hành vi dân sự lại được chia thành các
mức khác nhau, phụ thuộc vào độ tuổi của cá nhân. Theo quy định tại Điều 19
BLDS “Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp
quy định tại Điều 22 và Điều 23 của BLDS”. Người thành niên là người từ đủ
18 tuổi trở lên (Điều 18 BLDS 2005). Như vậy, người từ 18 tuổi trở lên là người
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được phép tham gia vào quan hệ pháp luật
dân sự và tự mình gánh chịu các nghĩa vụ dân sự.
Quy định độ tuổi là điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật dân sự
về việc xác định năng lực hành vi dân sự (một trong hai yếu tố tạo thành năng
lực chủ thể của cá nhân). Độ tuổi là yếu tố đáp ứng điều kiện có thể tự mình
21
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
gánh vác các nghĩa vụ dân sự trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng.
Sự phù hợp của việc quy định độ tuổi là yếu tố để cá thể trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng được thể hiện ngay trong BLDS 2005, đó chính
là sự tương thích giữa việc quy định độ tuổi để xác định năng lực hành vi dân sự
với việc căn cứ vào độ tuổi để quy định trách nhiệm bồi thường thiêt hại ngoài
hợp đồng.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng độ tuổi là điều kiện
không thể thiếu khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
cho bất cứ một chủ thể nào. Độ tuổi góp phần vào việc quyết định người có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong từng trường hợp cụ thể.
- Nhận thức
Cũng như độ tuổi khả năng nhận thức cũng là yếu tố tạo thành năng lực
hành vi dân sự của một chủ thể. Nếu một người tuy đã thành niên nhưng không
thể nhận thức, không làm chủ hành vi của mình, thì bị coi là người mất năng lực
hành vi dân sự và không có năng lực chủ thể để tham gia vào các quan hệ pháp
luật và cũng không thể nào trở thành chủ thể có thể đứng ra gánh vác trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được ngay cả khi thiệt hại đó là do
họ gây ra?
Khi phân tích về khả năng nhận thức của chủ thể ta thấy giữa khả năng
nhận thức và độ tuổi có mối quan hệ với nhau, chúng đều là hai yếu tố tạo thành
năng lực hành vi dân sự, nhưng khả năng nhận thức của con người lại phụ thuộc
vào chính độ tuổi. Con người chỉ có khả năng nhận thức đầy đủ khi đạt một độ
tuổi nhất định, khi chưa đạt độ tuổi này thì con người hoặc chưa có khả năng
nhận thức hoặc là khả năng nhận thức còn hạn chế. Có trường hợp người không
có khả năng nhận thức nhưng không phải do chưa đạt một độ tuổi nhât định mà
do bị mất khả năng nhận thức của mình. Khái niệm “mất” thông thường được
hiểu là đang tồn tại, đang có một hiện tượng, một sự vật nhưng sau đó không
còn hiện tượng, sự vật đó nữa. Nếu một người đang có khả năng nhận thức
22
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
nhưng lại bị mất đi thì nguyên nhân dẫn đến sự mất đi này có thể là do người đó
bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác dẫn đến hậu quả không thể nhận thức
và làm chủ được bản thân mình. Do vậy, họ mất đi năng lực hành vi, mất đi
năng lực chủ thể để tham gia vào các quan hệ xã hội.
Như vậy, để tham gia vào một quan hệ xã hội nhất định thì chủ thể phải
có đầy đủ ý chí cũng như lý trí để điều khiển hành vi của mình, phải nhận thức
được những gì mình đang làm cũng như hậu quả của hành vi đó. Không có nhận
thức có nghĩa họ không thể biết được mình đang làm gì và việc làm đó có hậu
quả ra sao. Việc quy định nhận thức là điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng là rất cần thiết. Người đứng ra chịu trách nhiệm
chính trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thể chính là người
gây ra thiệt hại và cũng có thể không phải là người gây ra thiệt hại. Việc thực
hiện bồi thường ảnh hưởng đến chính quyền lợi của họ do vậy họ phải nhận thức
được việc mình đang làm và trách nhiệm bồi thường sẽ không đặt ra với người
không có khả năng nhận thức.
- Mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường.
Thông thường chỉ cần đạt độ tuổi do luật định và có khả năng nhận thức
thì một chủ thể hoàn toàn có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật mà cụ thể ở
đây là tham gia vào quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Khi có đầy đủ
năng lực chủ thể thì người gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại hay nói cách khác là đã đủ điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng.
Mối quan hệ giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường được đặt
ra để cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại là để giải quyết các tình huống
người gây thiệt hại không có khả năng bồi thường. Việc xem xét mối quan hệ
pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường nhằm xác định đúng
người đại diện cho người gây thiệt hại để thực hiện nghĩa vụ. Họ phải thực hiện
việc bồi thường dù họ không gây ra thiệt hại nhưng họ lại có lỗi trong việc quản
lý người gây thiệt hại. Nếu họ thực hiện đúng trách nhiệm quản lý của mình thì
23
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
thiệt hại đã không xảy ra. Lỗi của người phải bồi thường ở đây là lỗi trong việc
quản lý người đã gây ra thiệt hại.
Mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường ở
đây có thể là mối quan hệ giữa người chưa thành niên dưới 15 tuổi với cha mẹ,
giữa người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự với người giám
hộ, với trường học, bệnh viện, tổ chức khác.
Việc xác định đúng mối quan hệ này để tránh việc xác định nhầm người
có trách nhiệm bồi thường, chỉ có những người có trách nhiệm quản lý nhưng
không thực hiện đúng trách nhiệm của mình để thiệt hại xảy ra mới phải bồi
thường.
1.3. Năng lực bồi thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam trước năm1995
1.3.1. Theo pháp luật phong kiến
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế
định có lịch sử phát triển sớm nhất ở Việt Nam. Pháp luật từ thời kỳ phong kiến
cũng có những những quy định về vấn đề này, ở đây người viết chỉ phân tích
năng lực bồi thường trong hai bộ luật tiêu biểu của thời kỳ phong kiến đó là Bộ
luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long. Phù hợp với quan điểm lập pháp thời đó,
các quan hệ xã hội đều được điều chỉnh bằng luật hình, đều nhằm thiết lập một
trật tự xã hội theo những chuẩn mực hà khắc có lợi cho sự thống trị của nhà
nước phong kiến, chưa có sự phân biệt rõ ràng với những đặc trưng rất khác
nhau giữa luật dân sự và luật hình sự. Do đó, không chỉ bao gồm các quy định
về các hành vi phạm tội và hình phạt mà còn bao gồm cả các quy định về dân
sự trong đó bao gồm cả những quy định về bồi thường do gây thiệt hại.
Trong Bộ luật Hồng Đức ghi nhận những quy định về bồi thường thiệt hại
cùng với chế tài hình sự, ví dụ Điều 435 đã dự liệu rằng: “Những kẻ thừa cơ lúc
có trộm, cướp, cháy, lụt mà lấy trộm của cải của người ta, hay là giữa ban ngày
mà đoạt lấy tiền tài của người, cũng là lấy của đánh rơi, mà lại đánh lại người
mất của, thì cũng đều phải tội như tội ăn trộm thường, mà giảm một bậc. Lột lấy
những quần áo và đồ vật của trẻ con, người điên, người say thì phải tội đồ và
24
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Huyền
bồi thường gấp đôi”. Và còn rất nhiều các quy định khác quy định về việc bồi
thường như các Điều 472 theo nội dung của Điều luật này quy định về trường
hợp kẻ dưới đánh quan lại, quan lại đánh lẫn nhau thì khi một người đánh quan
chức bị thương, ngoài việc phải chịu hình phạt, phải đền bù thường tổn còn phải
đền tiền tạ. Tương tự như vậy, Điều 473 dự liệu về khả năng kẻ dưới mắng
nhiếc quan lại, quan lại mắng nhiếc lẫn nhau đã không chỉ đưa ra hình phạt mà
còn quy định tiền tạ nếu phạm tội lăng mạ quan chức. Các quy định trên cũng đã
xác định trách nhiệm của một người về hành vi vi phạm của chính bản thân
mình. Ngoài ra trong luật Hồng Đức còn một số trường hợp xác định một người
phải chịu trách nhiệm về hành vi của người khác đó là trường hợp cha phải chịu
trách nhiệm thay cho con, chủ phải chịu trách nhiệm thay cho đày tớ.
Điều 457 đã bắt tội người cha phải chịu trách nhiệm về hành vi của con
cái còn ở chung với mình, bất kể đã trưởng thành hay chưa, mà phạm tội trộm
cướp. Điều này dựa trên quan điểm của đạo đức phong kiến thời kỳ đó chính là
quyền gia trưởng của người cha, người chồng. Theo đó, nếu người cha đã có
quyền gia trưởng trong nhà mà lại không giáo dục, răn dạy con cái, thì phải chịu
tội thay cho con cái: “Các con còn ở nhà với cha mẹ, mà đi ăn trộm, thì cha bị
xử tội biếm; ăn cướp thì cha bị xử tội đồ; nặng thì xử tăng thêm tội; và đều phải
bồi thường thay con những tang vật ăn trộm ăn cướp. Nếu con đã ở riêng, thì
cha bị xử phạt hay biếm; cha đã báo quan thì không phải tội; nhưng báo quan
rồi mà còn để con ở nhà thì cũng xử như là chưa báo”. Việc quy định người cha
phải bồi thường cho con ngay cả khi người con còn ở với cha mẹ ngay cả khi
người con đã trưởng thành là một điểm khác biệt hoàn toàn giữa luật Hồng Đức
với luật hiện đại cụ thể là luật dân sự 2005 quy định rõ người thành niên phải tự
chịu trách nhiệm trước những thiệt hại do mình gây ra. Một điều nữa là nếu cha
báo quan thì sẽ không phải chịu tội vậy không phải chịu tội thì có phải bồi
thường không? Nếu như không phải bồi thường thì ai sẽ là người đứng ra bồi
thường.
25