Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

thực trạng cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.7 KB, 9 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Mọi hoạt động của bộ máy nhà nước đều thể hiện ý chí, nguyện vọng
của nhân dân. Trong đó, Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Kể từ năm 1946, Quốc hội đầu tiên nước ta ra đời cho
đến nay, trước những thay đổi của đất nước, Quốc hội các khóa luôn hoạt động
đạt hiệu quả cao nhất với một cơ cấu tổ chức phù hợp theo từng giai đoạn.
Hiện nay, trước tình hình đổi mới và hội nhập của đất nước, vai trò của
Quốc hội càng quan trọng hơn bao giờ. Chính vì vậy, việc hoàn thiện cơ cấu và
hoạt động của Quốc hội là vô cùng bức thiết. Vấn đề này đã và đang được Nhà
nước ta quan tâm và thực hiện các biện pháp đổi mới, hoàn thiện.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, cá nhân em xin được đưa ra một số
những ý kiến về thực trạng cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong
giai đoạn hiện nay. Đồng thời sẽ chỉ ra một số phương hướng hoàn thiện về cơ
cấu tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Vì đây là bài tiểu luận cá nhân đầu tiên
nên chắc chắn em không tránh khỏi những thiếu sót trong kiến thức và cách
trình bày. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
NỘI DUNG
I. Khái quát về Quốc hội.
1. Sự ra đời của Quốc hội.
Ngày 16 và 17 tháng 8 năm 1945 tại Tân Trào, Quốc dân đại hội đã triệu
tập gồm có 60 đại biểu của các tổ chức đoàn thể cách mạng đã quyết định
nhiều vấn đề quan trọng, lập ra Uỷ ban dân tộc giải phóng trung ương tức
Chính phủ lâm thời. Vì vậy Quốc dân đại hội được coi là tiền thân của Quốc
hội nước ta. Ngày 8 tháng 9 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số
14 mở cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước để bầu Quốc dân đại hội. Trong
hoàn cảnh hiểm nghèo, trước nguy cơ mất nước nhưng ngày 06 tháng 01 năm


1946 nhân dân ta trong cả nước đã tiến hành cuộc Tổng tuyển cử tự do thắng
lợi, bầu ra Quốc hội nước ta - Quốc hội đầu tiên nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
2. Vị trí, tính chất, chức năng của Quốc hội.
a. Vị trí, tính chất.
Vị trí tối cao của Quốc hội được Hiến pháp 1992 quy định rõ tại điều 83
(điều đầu tiên) của chương VI: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam...”
Việc Hiến pháp quy định như vậy là nhằm mục đích thể hiện rõ bản chất
của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân theo quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về
một nhà nước kiểu mới, khác với các nhà nước tư sản. Quôc hội nước ta thực
sự đaiị diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là cơ quan đại biểu của nhân dân theo kiểu công
xã Pari mà Các Mác coi là tập thể làm việc “vừa lập pháp, vừa hành pháp.”
Quốc hội là một tổ chức chính quyền thể hiện rõ tính chất đại diện và tính chất
quần chúng. Các đại biểu Quốc hội là những công nhân, nông dân, trí thức và
những người lao động ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước được nhân dân
tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có mối
liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm vững tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng. Dó đó quyết định mọi vấn đề được sát và hợp với quần chúng đồng thời
có điều kiên thuận lợi để vận động quần chúng thi hành tốt các quy định của
Nhà nước. Nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm, việc tuyển cử các đại biểu Quốc
hội mới bảo đảm cho nhân dân có thể lựa chọn và bổ sung những đại diện mới
vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của mình.
Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất
nước và của nhân dân như thông qua Hiến pháp, các đạo luật, quyết định
những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; bầu, miễn nhiệm,

bãi nhiệm những viên chức cao cấp nhất của bộ máy nhà nước; giám sát tối
2
cao hoạt động của các cơ quan nhà nước; Quốc hội biểu hiện tập trung ý chí và
quyền lực của nhân dân trong phạm vi cả nước.
b. Chức năng của Quốc hội.
Với vị trí và tính chất như trên, Quốc hội mang chủ quyền Nhà nước và
chủ quyền nhân dân. Mọi quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc
hội. Mọi công việc quan trọng của đất nước và của nhân dân có ý nghĩa toàn
quốc đều do Quốc hội quyết định.
Với tinh thần nói trên, Điều 83 Hiến pháp năm 1992 đã quy định chức
năng của Quốc hội bao gồm những phương diện lớn sau đây:
Ở nước ta, quyền lập hiến cũng như quyền lập pháp đều thuộc về Quốc
hội. Quốc hội giữ quyền làm hiến pháp thì cũng có quyền sửa đổi hiến pháp;
Quốc hội có quyền làm luật thì cũng có quyền sửa đổi luật. Để đảm bảo cho
hoạt động này của Quốc hội được tiến hành được tiến hành thuận lợi và có
hiệu quả, pháp lệnh đã quy định cụ thể trong hiến pháp 1992 và Luật tổ chức
Quốc hội: Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Thứ hai, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội có
quyền quyết định những mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; những vấn đề quốc
kế dân sinh; những vấn đề đối nội, đối ngoại và quốc phòng, an ninh của đất
nước: Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc
chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ mấy Nhà nước, về quan hệ xã hội và
hoạt động của công dân. Quốc hội còn có nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng là
quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước
quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp kí; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc
tế khác đã được kí kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước.
Thứ ba, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của nhà nước. Sự giám sát của Quốc hội là sự giám sát cao nhất. Quốc
hội thực hiện quyền giám sát nhằm đảm bảo cho những quy định của Hiến

pháp, pháp luật được thi hành triệt để, nghiêm minh và thống nhất. Quốc hội
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo cho các cơ quan
này hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy định, làm cho bộ máy nhà
nước ta hoạt động nhịp nhàng, có hiệu lực, không chồng chéo, chống các biểu
hiện tham nhũng, quan lieu, hách dịch và cửa quyền.
II. Thực trạng cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc
hội theo pháp luật hiện hành.
1.Quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quốc
hội.
a. Cơ cấu tổ chức.
Ở Việt Nam, Quốc hội được tổ chức theo cơ cấu một viện. Việc lựa
chọn này nhằm mục đích bảo đảm để Quốc hội là nơi tập trung, thống nhất ý
chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, đảm bảo tính thực quyền. Quốc
hội nước ta được xác định là mô hình Quốc hội tập quyền. Về cơ cấu đại biểu
3
Quốc hội thì số đại biểu Quốc hội được tính trên cơ sở dân số của cả nước và
được chia theo các đơn vị hành chính.
Về ban lãnh đạo, theo Hiến pháp 1992 thì Ủy ban thường vụ Quốc hội là
ban lãnh đạo của Quốc hội.
Về các cơ quan khác của Quốc hội cũng như các nước, Quốc hội nước ta
thành lập ra các Ủy ban để giúp Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trên
các lĩnh vực hoạt động cụ thể.
b. Về phương thức hoạt động.
Quốc hội nước ta hoạt động chủ yếu thông qua các hình thức sau:
- Kỳ họp và các phiên họp Quốc hội.
- Hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.
- Hoạt động của đoàn đại biểu Quốc hội.
- Hoạt động của văn phòng Quốc hội.
- Hoạt động của các đại biểu Quốc hội.
2. Thực trạng cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc

hội theo Hiến pháp 1992 cho tới nay- Những đổi mới và tồn tại của Quốc
hội trong hiến pháp 1992 so với các hiến pháp trước.
a. Những đổi mới và tồn tại về cơ cấu tổ chức của Quốc hội.
• Những đổi mới.
Hiến pháp 1992 quy định rõ ràng hơn về nhiệm vụ, quyền hạn, đề cao
vai trò của đại biểu Quốc hội nhằm nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu
Quốc hội nói riêng và Quốc hội nói chung. Đối với các cơ quan khác của Quốc
hội, Hiến pháp 1992 cơ bản vẫn giữ nguyên quy định về việc thành lập Hội
đồng dân tộc và các Ủy ban Quốc hội và các cơ quan. Nhìn chung không có gì
thay đổi lớn so với Hiến pháp 1980.
- Hiến pháp 1992 đã phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thường
trực với chế định chủ tịch nước.
- Hiến pháp 1992 chú ý tăng cường các chuyên gia pháp luật, kinh tế phù hợp
với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong cơ cấu
đại biểu Quốc hội.
- Số thành viên của đoàn Đại biểu Quốc hội được nâng lên rõ rệt về cả mặt số
lượng và chất lượng.
• Những hạn chế và tồn tại.
- Tuy đã có cố gắng trong công tác tăng cường chất lượng Đại biểu Quốc hội
nhưng thực tiễn những khóa gần đây cho thấy, công tác chuẩn bị nhân sự,
người ra ứng cử vẫn còn nặng về cơ cấu, tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội của một
số đại biểu còn chưa cao.
- Qua hoạt động thực tiễn của Quốc hội các khóa gần đây, cũng có ý kiến cho
rằng số lượng thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội còn ít. Một số Phó chủ
tịch và đa số các thành viên Thường vụ Quốc hội phải kiêm nhiệm nhiều chức
vụ và nhiệm khác nhau nên hiệu quả hoạt động chưa cao.
- Bộ máy giúp việc của Quốc hội được chuyên môn hóa cao. Về mặt tổ chức,
quan hệ tổ chức của các bộ phận phục vụ Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của
4
Quốc hội chưa được làm rõ, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Quốc

hội.
• Nguyên nhân có những hạn chế trên .
- Quá trình bầu cử chưa đạt được hiệu quả cao. Các bước tiến hành đề cử, ứng
cử chưa bảo đảm dân chủ, khách quan, tạo điều kiện và cơ hội cho cử tri lựa
chọn.
- Nhiệm vụ và quyền hạn của ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội chưa được
phân định rõ ràng. Trong khi số ủy viên còn ít nên việc kiêm nhiệm nhiều
nhiều vụ, chức vụ tạo nên việc hoạt động không hiệu quả.
- Bộ máy giúp việc của Quốc hội chưa đủ sức gánh vác trách nhiệm tham mưu
về những vấn đề chuyên sâu và còn lệ thuộc về mặt tổ chức trong quan hệ với
văn phòng Quốc hội.
b. Những đổi mới và tồn tại về phương thức hoạt động của Quốc hội.
• Những đổi mới.
- Hoạt động lập pháp của Quốc hội sôi nổi và chất lượng hơn. Quốc hội ban
hành kịp thời các đạo luật tạo hành lang pháp lý để thực hiện chủ trương xây
dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường.
- Quy trình xây dựng pháp luật được quan tâm, cải tiến. Việc tổ chức lấy ý kiến
nhân dân và các ngành, các cấp được coi trọng và từng bước đổi mới. Kịp thời
phát hiện những vấn đề bức xúc của đời sống nhân dân để giải quyết kịp thời.
- Về hoạt động giám sát tối cao đã tích cực cải tiến. Tại các kì họp Quốc hội thì
báo cáo của Chính phủ, Chủ tịch nước… được báo cáo thường xuyên.
• Những tồn tại.
- Nhiều văn bản luật, pháp lệnh chưa mang tính khả thi, chưa đi vào thực tiễn.
- Quá trình thảo luận và thông qua luật, pháp lệnh còn chưa kịp thời, tốn nhều
thời gian. Kĩ thuật lập pháp còn nặng về sự đảm bảo quản lí của nhà nước.
Việc ban hành pháp luật đôi khi còn bị động do phía các bộ ngành trình luật…
- Hoạt động giám sát của Quốc hội còn chưa hiệu quả và đôi khi chưa nghiêm
túc.
• Nguyên nhân của những tồn tại.
- Nhu cầu ban hành pháp luật lớn, khẩn trương, bức xúc, trong khi mỗi năm

Quốc hội chỉ họp có hai kì.
- Công sức, thời gian, tài chính cho hoạt động xây dựng pháp luật còn chưa
nhiều.
- Sự phối hợp giữa các bộ, ngành với Quốc hội trong nhiều hoạt động còn chưa
chặt chẽ.
- Các chuyên gia thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, thẩm định, rà soát văn bản quy
phạm pháp luật hiện nay còn mỏng; kinh nghiệm, trình độ còn có phần hạn
chế.
III. Phương hướng và giải pháp đổi mới cơ cấu tổ chức và phương
thức hoạt động của Quốc hội.
1. Phương hướng và giải pháp đổi mới cơ cấu tổ chức.
5

×