Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

bài thu hoạch lớp đảng viên mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.1 KB, 17 trang )

BÀI THU HOẠCH LỚP ĐẢNG VIÊN MỚI
Họ và tên:
Năm tháng năm sinh:
Quê quán:
Hộ khẩu thường trú:
Ngày vào Đảng:
Nơi vào Đảng:
BÀI LÀM
Sau quá trình tham gia lớp bồi dưỡng Đảng viên mới, bản thân tôi rút
ra những thu hoạch như sau:
I. Về chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã
chỉ rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”

Đại hội IX khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
1
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dung và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh


đã chỉ rõ: Trong thời đại ngày nay có lắm chủ nghĩa nhưng chủ nghĩa Mác –
Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận thực sự cách mạng và khoa học. Dưới ánh sáng
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tổng kết kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực tiễn
tình hình đất nước, Người đã chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, soạn thảo Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, xác định đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng nhuần nhuyễn chủ
nghĩa Mác – Lênin, giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, qua
đó, phát triển sáng tạo, làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác – Lênin.
Thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập dân
tộc và đưa đất nước phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng là một minh chứng
sống động về sự vận dụng thành công chủ nghĩa Mác – Lênin ở nước ta.
Việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện thực tiễn nước ta hiện nay đang là vấn đề được Đảng ta hết sức quan tâm,
coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Vận dụng chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải đi liền với bổ sung và phát triển dựa trên
những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Phải chăm chú phát hiện, tổng kết thực tiễn để
tìm ra cái mới của lý luận, bổ sung cho kho tàng lý luận mác xít, dùng nó như
một kim chỉ nam dẫn đường chứ không phải kinh thánh để rơi vào giáo điều.
Kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ
nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
2
Để đấu tranh có hiệu quả, cần nắm có hệ thống từng luận điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn với hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu
cụ thể cần giải quyết. Đồng thời, phải tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới; đưa những tư tưởng, quan điểm đó
vào thực tế cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm hiện thực hoá thắng lợi

những đặc trưng cơ bản của cách mạng xã hội, hiện thực hoá thắng lợi mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là cách tốt
nhất để bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, xét lại và bảo thủ, giáo
điều.
Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có
tính nguyên tắc số một đối với Đảng ta. Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí MInh có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng, khoa học
và nhân đạo, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp vào điều kiện nước ta, góp
phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng
tạo, kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ nhận,
xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ phía những thế lực
thù địch và những kẻ cơ hội.
Trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu, học tập để nắm vững, vận
dụng sáng tạo, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân.
2. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo đã
khẳng định: độc lâp dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy
nhất đúng đắn
Hơn bảy mươi năm qua, Đảng ta luôn luôn kiên định, nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhờ vậy Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành
được những thắng lợi vĩ đại.
3
Bài học chủ yếu, quan trọng hàng đầu của 15 năm tiến hành công cuộc đổi
mới và Đại hội IX xác định cũng chính là phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm trước đó, Đại hội VI
rút ra những bài học quý giá có tầm chỉ đạo trong việc xác định hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta:

Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng
“lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách
quan là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một
Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Từ đó, Đảng ta nhấn mạnh rằng, để xác định đúng đắn phương hướng đi
lên chủ nghĩa xã hội, phải vận dụng đúng quy luật khách quan. Tiêu chuẩn đánh
giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật là đời sống vật chất và văn hoá của nhân
dân từng bước ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày càng
hình thành rõ rệt, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được
củng cố.
Đại hội VI đã đặt vấn đề chính sách xã hội một cách cơ bản. Lần đầu tiên
chính sách xã hội được xem xét một cách tổng thế và toàn diện gắn liền với
chính sách kinh tế, giải quyết phù hợp với từng chặng đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, trên cơ sở những quan điểm cơ bản và lâu dài về chính sách xã hội. Điều
này thể hiện được bản chất của chủ nghĩa xã hội, là cơ sở để đi đến mô hình chủ
nghĩa xã hội của nước ta ngày càng toàn diện hơn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) với chủ
trương: tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì
4
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội, đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời thông qua Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000 (1991-2000).
Đại hội VIII với việc xác định rõ hơn mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở

nước ta.
Đại hội IX với việc bổ sung, phát triển quan niệm mục tiêu và phương
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tóm lại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng ta, dân tộc ta. Con đường này phù hợp với chủ nghĩa Mác –
Lênin và đã được thực tiễn kiểm nghiệm hơn bảy mươi năm qua là hoàn toàn
đúng đắn. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc của đổi mới
mà thực chất là sự kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, kiên định con đường
“độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà dân tộc Việt Nam đã lựa
chọn.
II. Về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
1. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng
Việt Nam là một tất yếu lịch sử và là tất yếu khách quan. Đảng ta luôn là lực
lượng chính trị duy nhất lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước và là nhân tố
bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng nước ta trong mọi giai đoạn lịch sử. Sự
lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và mọi mặt của đời sống xã hội
được nhìn nhận như một quy luật có tính tất yếu.
Vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương
luôn giữ tính chất quyết định và bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một chủ trương lớn có tính chất quyết
định thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện trên những nội
dung trọng yếu sau đây:
- Lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng thành pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước và tổ
chức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, đảm bảo cho đường lối, chủ

trương, chính sách của Đảng trở thành hiện thực sinh động trong đời sống toàn
xã hội.
- Đảng lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Đảng phải lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước.
Nhìn tổng quát, nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là rất toàn diện và bao quát toàn bộ
những vấn đề then chốt về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
2. Một số giải pháp chủ yếu xây dựng Đảng
Chủ trương của Đảng ta là phải xây dựng một chiến lược bảo vệ Tổ quốc
đồng bộ, trên tất cả các mặt trân, có sự tham gia của tất cả các lực lượng xã hội,
mà một số giải pháp chủ yếu cụ thể là:
Một là, về xây dựng, chỉnh đốn Đảng:
- Tiếp tục đi sâu, thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII và Kết luận Hội nghị
Trung ương 10 khoá IX, nhất là đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu;
củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Đưa tự phê bình và phê bình vào nền nếp sinh hoạt Đảng.
- Tăng cường công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ
- Đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ gắn với quy
hoạch đào tạo để chuẩn bị tốt nhân sự cho Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội
lần thứ X của Đảng.
6
- Tiếp tục củng cố, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong
Đảng và giữa tổ chức Đảng với tổ chức Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân, góp phần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Hai là, về tư tưởng - văn hoá:

- Thực hiện tốt chủ trương tổng kết hoạt động lý luận - thực tiễn của Đảng
trong thời kỳ đổi mới; đẩy mạnh tổng kết thực tiễn sự nghiệp bảo về Tổ quốc
trong tình hình mới.
- Đổi mới công tác chính trị - tư tưởng sát hợp với từng tầng lợp nhân
dân, hướng mạnh về cơ sở, đặc biệt quan tâm đến thanh niên, sinh viên, học
sinh; chú trọng giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào, tinh thần tự cường
dân tộc, truyền thống dựng nước, giữ nước.
- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chống sự xâm
nhập của văn hoá phẩm độc hại từ bên ngoài vào.
- Tăng cường tính chủ động, tinh thần đấu tranh chống các luận điệu
chống phá nước ta dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc.
- Tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác thông tin, báo chí, xuất bản, văn
hoá, văn nghệ; kịp thời ngăn chăn những quan điểm lệch lạc, thương mại hoá, xa
rời tôn chỉ mục đích, lộ bí mật quốc gia, gây rối nội bộ, gây khó khăn cho sản
xuất kinh doanh và quan hệ đối ngoại
Ba là, về kinh tế - xã hội:
- Gắn tăng trưởng kinh tế với xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng
xã hội chủ nghĩa; bảo đảm vai trò chủ đạo thực sự của kinh tế nhà nước.
- Duy trì cho được sự ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh về tài chính
- tiền tệ, năng lượng, lương thực, thông tin; không để xảy ra những rối loạn; xáo
động lớn.
- Thực hiện tốt các chủ trương, giải pháp về hội nhập kinh tế quốc tế trong
Nghị quyết số 07, ngày 27-11-2001 của Bộ Chính trị (khoá IX), phấn đấu sớm
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), bảo đảm quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế không gây xáo trộn kinh tế - xã hội.
7
- Xây dựng có chọn lọc một số công trình, một số ngành, lĩnh vực kinh tế
quan trọng, có hiệu quả bảo đảm cho nền kinh tế giữ được độc lập tự chủ trong
mọi tình huống.
- Giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, nhất là việc làm, xoá đói giảm

nghèo; hạn chế bằng được các tệ nạn xã hội nghiêm trọng.
- Xây dựng cơ chế để thực hiện có hiệu quả việc kết hợp chặt chẽ giữa
kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế; gắn việc
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, kinh tế với hoạt động đối ngoại.
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện và chỉ đạo có hiệu quả việc thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng trọng điểm.
- Chú trọng phát triển khoa học - công nghệ gắn với nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc.
Bốn là, quản lý nhà nước về an ninh - quốc phòng - đối ngoại:
- Thể chế hoá kịp thời các chủ trương, chính sách về xây dựng nền quốc
phòng toàn dân; từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc,
trước hết tập trung hoàn chỉnh pháp luật về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây
dựng quy chế thống nhất quản lý đối ngoại và quy chế phối hợp quốc phòng, an
ninh, đối ngoại.
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh của các cấp, các ngành, các điạ phương, các đơn vị lực lượng vũ
trang.
- Tăng cường công tác bảo vệ bí mật quốc gia, bảo đảm an ninh thông tin.
- Mở rộng dân chủ trong Đảng và nhân dân trên cơ sở Cương lĩnh, đường
lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời chủ động đấu tranh bằng nhiều
hình thức chống các luận điểm sai trái của các thế lực thù địch về dân chủ, nhân
quyền, dân tộc, tôn giáo.
- Tăng cường mức đầu tư ngân sách hợp lý cho các nhiệm vụ bảo đảm
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kể cả cho các hoạt động an ninh trên lĩnh vực tư
tưởng, thông tin, đối ngoại nhân dân.
Năm là, về quốc phòng, an ninh:
8
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc
phòng, an ninh và lực lượng vũ trang nhân dân ở các cấp, các ngành.
+ Tăng cường chức năng tham mưu của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và

Đảng uỷ Công an Trung ương trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh
+ Kiện toàn Ban Nghiên cứu của Bộ Chính trị về an ninh quốc gia ngang
tầm với nhiệm vụ. Chú trọng đào tạo, bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược.
+ Tập trung xây dựng các tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
- Củng cố và hoàn nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận
quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn tỉnh,
thành phố, đặc biệt là trên các địa bàn chiến lược; xây dựng các khu vực phòng
thủ vững chắc.
- Tập trung xậy dựng lực lược Quân đội và Công an có bản lĩnh chính trị
vững vàng, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, với tổ
chức, biên chế, mức tăng đầu tư ngân sách hợp lý, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ
trực tiếp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Sáu là, về đối ngoại:
- Tiếp tục ưu tiên hàng đầu cho việc củng cố quan hệ với các nước láng
giềng.
- Thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn trên nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, tạo thế đan xen
lợi ích giữa các nước với nước ta; tránh bị rơi vào thế đan xen lợi ích giữa các
nước với nước ta; tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc.
- Mở rộng quan hệ với các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển,
phong trào không liên kết, các tổ chức quốc tế và khu vực, các Đảng Cộng sản,
công nhân, cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, các phong trào
cạch mạng, tiến bộ ; tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
9
- Dành ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng
và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo lập lợi ích đan xen với các đối tác.

- Gắn kết chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng với hoạt động ngoại giao
của Nhà nước và nhân dân. Tăng cường công tác vận động cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài góp phần xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của họ.
Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các Đảng Cộng
sản và công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lập
dân tộc, với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
III. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế độc
lập dân tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Để đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế thắng lợi, thực sự đáp ứng yêu
cầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần
thấu suốt và quán triệt các nguyên tắc và phương châm sau:
- Nguyên tắc cơ bản và bao trùm là chủ động hội nhập trên cơ sở bảo đảm
giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an
ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững độc lập tự chủ trong
quá trình hội nhập được thể hiện trước hết trong quyết sách hội nhập nhằm khai
thác tối đa các lợi thế, đồng thời đối phó thắng lợi với các thách thức trong quá
trình hội nhập. Sự chủ động cần được thể hiện trong việc chọn lựa các tổ chức
tham gia, các đối tác ta có quan hệ và thời điểm tham gia. Tính chủ động còn
được thể hiện qua việc chủ động xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuôn
khổ quy định chung; chủ động điều chỉnh pháp luật, chính sách cho phù hợp;
chủ động tổ chức sản xuất và điều hành kinh tế trong nước nhằm nâng cao
không ngừng khả năng cạnh tranh không chỉ trong thị trường nội địa và trên thị
trường quốc tế, chủ động phương thức thực hiện các cam kết.
- Phương châm cơ bản để thực hiện hội nhập là bảo đảm nguyên tắc cùng
có lợi trong quan hệ song phương và đa phương mà ta tham gia. Theo nguyên
10
tắc này một mặt không thể để thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta được
hưởng; Mặt khác, phải chấp nhận một sự chia sẻ lợi ích cho các đối tác thì theo
mức đóng góp của các bên hợp tác. Trong hợp tác liên kết, cần giữ vững nguyên

tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo, để đạt tới mục tiêu
bảo vệ lợi ích chính đáng của ta.
IV. Tổ chức cơ sở Đảng và công tác xây dựng Đảng ở cơ sở
1. Tổ chức cơ sở Đảng
a) Quy định về Điều lệ Đảng về thành lập các tổ chức cơ sở đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của gia cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng phải được tổ
chức theo một hệ thống chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Tổ chức
cơ sở Đảng bao gồm chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở là nền tảng của Đảng, là hạt
nhân chính trị ở cơ sở.
Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua Đại hội X quy
định:
- Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ
chức cơ sở đảng trực thuộc.
- Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở,
có các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
b) Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ
sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời cũng là nơi góp phần
phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
c) Chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
11
- Tổ chức cơ sở đảng có hai chức năng quan trọng:
Một là, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước ở cơ sở.

Hai là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phát triển sản
xuất, kinh doanh, nâng cao hiệu quả công tác của cơ sở; chăm lo cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân; động viên quần chúng hoàn thành đầy đủ
nghĩa vụ của cơ sở, đơn vị đối với Nhà nước.
d) Chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở
Hoạt động của tổ chưc sơ sở đảng chủ yếu diễn ra ở chi bộ. Đảng viên
thực hiện các nhiệm vụ của mình cũng chủ yếu thể hiện ở chi bộ được đánh giá
từ chi bộ.
- Chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi
cư trú của đảng viên
Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có rất nhiều loại hình khác nhau va có
các nhiệm vụ như sau:
- Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
- Giáo dục, quản lý và phân công công tác cho đảng viên
- Thường xuyên làm công tác vận động quần chúng thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của chi
bộ, nhiệm vụ chính trị của đơn vị
- Làm tốt công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật đảng viên
- Thu, nộp đảng phí của đảng viên theo quy định.
- Thực hiện chế độ sinh hoạt chi bộ thường lệ mỗi tháng một lần.
V. Công tác xây dựng Đảng ở cơ sở và trách nhiệm của Đảng viên
1. Công tác xây dựng Đảng ở cơ sở
- Đảng ta luôn coi trọng vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở đảng,
thường xuyên chăm lo củng cố, kiện toàn, phát huy năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng tại các cơ sở. Quan điểm đó được thể hiện
cả trong nhận thức,lý luận vafcar trong hoạt động thực tiễn của Đảng.
12
Hệ thống tổ chức cơ sở đảng không ngừng được củng cố, phát triển, phát
huy tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị tại cơ sở, trực tiếp góp phần biến các
chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng thành thắng lợi.

- Tuy nhiên, trong thời kỳ phát triển mới, thực hiện nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống tổ chức cơ sở đãng đã và đang bộc
lộ những hạn thế, yếu kém ở mức độ khác nhau. Đại hội lần thứ IX chỉ rõ “Tổ
chức cơ sở đảng ở nhiều nơi quá yếu kém, kém sức chiến đấu”. Hậu qủa của tình
hình trên là nghiêm trọng. Bởi vì “nền móng” yếu thì không thể vững , “gốc rễ”
có phần bị “tê liệt” thì cây không thể khỏe mạnh, phát triển tốt tươi. Vì vậy, Đại
hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định trong những năm tới, một trong bốn
công tác quan trọng cần tập trung làm tốt là xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở
đảng.
Việc xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng cần phải thực hiện các
yêu cầu sau đây:
+ Tất cả các đảng bộ, chi bộ cơ sở đều phải nâng cao nhận thức và thực
hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với các tổ chức trong hệ
thống chính trị, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp
nhân dân ở cơ sở. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp để đánh giá đúng
chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
+ Đổi mới phương thức lãnh đạo, từ việc ra nghị quyết, xây dựng và thực
hiện quy chế làm việc, xây dựng đội ngũ cán bộ… đến việc lãnh đạo các cuộc
bầu cử, bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc, tiêu chuẩn.
+ Thực hiện tốt nguyên tắc dựa vào dân để xây dựng Đảng từ cơ sở. Có
cơ chế để nhân dân tham gia ý kiến vào việc xây dựng các nghị quyết, quyết
định của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở trực tiếp liên quan đến quyền lợi và
nghĩa vụ của nhân dân; bố trí cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cơ sở, để
nhân dân tham gia giám sát tổ chức đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên.
+ Nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông
lỏng vai trò lãnh đạo.
13
- Để xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng cần thực hiện tốt các chủ
trương và biện pháp sau:

+ Cấp ủy cấp trên tập trung chỉ đạo củng cố các đảng bộ, chi bộ yếu kém,
kịp thời kiện toàn cấp ủy và tăng cường cán bộ ở những nơi có nhiều khó khăn,
nội bộ mất đoàn kết.
+ Đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ.
+ Phân công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát
huy vai trò tiên phong gương mẫu; giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng nơi
công tác, với chi bộ và nhân dân nơi cư trú.
+ Phát triển đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, coi trọng chát
lượng, không chạy theo số lượng, không chạy theo số lượng. Chú ý những người
ưu tú trong công nhân, trí thức, lao động thuộc các thành phần kinh tế, đoàn viên
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; những nơi còn ít hoặc chưa có đảng viên,
những địa bàn quan trọng…
+ Đổi mới việc phân tích, đánh giá chất lượng các tổ chức cơ sở đảng và
đảng viên. Có những tiêu chí cụ thể để đánh giá đúng thực chất; khắc phục tình
trạng nể nang, dễ dãi, chạy theo thành tích.
2. Trách nhiệm của đảng viên đối với tổ chức cơ sở đảng và chi bộ
Mỗi đảng viên phải sinh hoạt trong một tổ chức cơ sở đảng nhất định.
a. Mỗi đảng viên phải đóng góp tích cực với đảng bộ, chi bộ trong việc
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ sở, đơn vị.
b.Mỗi Đảng viên phải góp phần tích cực vào việc xây dựng tổ chức cơ sở
đảng có sự thống nhất cao về chính trị và tư tưởng của đảng bộ, chi bộ;nâng cao
bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
c. Đảng viên phải đóng góp tích cực xây dựng đảng bộ, chi bộ vững mạnh
về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ.
14
VI. Phương hướng và nhiệm vụ trong công tác xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng trong thời gian tới
Toàn Đảng tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, tạo sự
chuyển biến rõ rệt, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng, gắn xây dựng tổ chức đảng và xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ

sở; nhất là đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Thực hiện những giải pháp đồng bộ, nhất là xây dựng cơ chế đế phát huy
quyền làm chủ, quyền giám sát của quần chúng đối với tổ chức đảng, đảng viên.
Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong Đảng.
- Sớm xây dựng và đưa vào thực hiện các quy định mới về vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng đảm bảo vai trò hạt nhân
lãnh đạo chính trị ở cơ sở.
- Tổ chức thực hiện các chính sách và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cơ sở, đặc biệt là ở những khu vực có vị trí quan trọng và nhạy cảm về kinh tế,
chính trị, vùng sâu, vùng xa. Cán bộ lãnh đạo chủ trì và cấp ủy cấp trên trực tiếp
phải chịu trách nhiệm liên đới nếu để tổ chức cơ sở đảng yếu kém.
VII. Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu
người Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam
1. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người Đảng viên
a) Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
b) Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức
thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
c) Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
phục vụ quần chúng.
Trong Điều lệ Đảng được các Đại hội của Đảng ban hành, qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung, nhưng chưa bao giờ Chương I luôn là chương Đảng viên và là
một trong những Chương quan trọng nhất. Điều lệ đã chỉ rõ những tiêu chuẩ
đảng viên, điều kiện những người vào Đảng, nhiệm vụ của đảng viên.
15
d) Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ
trương của Đảng.
2. Rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu Đảng viên
Để xứng đáng với danh hiệu đảng viên cần thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên

quy định trong Điều lệ Đảng.
a) Tiêu chuẩn đảng viên
Tiêu chuẩn đảng viên là những chuẩn mực quy định chất lượng của người
đảng viên, là tiêu chí phân ra giữa đảng viên và quần chúng; là cơ sở để đánh giá
chất lượng đảng viên; là căn cứ để tiến hành mọi mặt công tác đảng viên. Mọi
đảng viên phải dựa vào tiêu chuẩn đảng viên để rèn luyện, phấn đấu.
Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định lập
trường cách mạng của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý
tưởng của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vững
vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào.
Những chuẩn mực đạo đức mà người đảng viên cần có, đáp ứng những
đòi hỏi của công cuộc đổi mới lúc này bao gồm cả động cơ, tình cảm, ý chí và
những hành động đạo đức.
Có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng trên
cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân
chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình
Có quan hệ mật thiết với quần chúng.
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
b) Mỗi đảng viên tự phấn đấu, rèn luyện xứng đáng với danh hiệu người
cộng sản trong hoàn cảnh mới
Khái niệm “đảng viên” bao hàm hai mặt: cá nhân một con người mang
danh hiệu đảng viên và một thành viên của Đảng (của một tổ chức đảng cụ thể
và của toàn Đảng nói chung). Người đảng viên chỉ xứng đáng với danh hiệu cao
quý của mình khi làm tròn bổn phận trên cả hai tư cách đó, nhờ sự phấn đấu của
bản thân và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ chức đảng.
Về mặt cá nhân, trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình theo
những đức tính của con người Việt Nam mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII
đã chỉ ra và Kết luận Trung ương 10 khóa IX một lần nữa khẳng định, như sau:
16
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu,
đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ
và cải thiện môi trường sinh thái.
+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực.
Được kết nạp vào Đảng, rồi trở thành đảng viên chính thức là khởi đầu
một quá trình phấn đấu, rèn luyện để giữ vững và nêu cao vai trò người đảng
viên. Là đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam, mỗi cán bộ đảng viên phải:
- Tích cực học tập và nâng cao trình độ kiến thức về mọi mặt, nhất là về
lý luận chính trị, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, về
văn hóa, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ.
- Luôn phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, đóng góp ý kiến có giá trị
tham gia vào sự lãnh đạo chung của tổ chức và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm
vụ được giao.
- Tự giác gương mẫu giữ gìn phẩm chất cộng sản, đạo đức của người cách
mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
- Giữ nghiêm kỷ luật đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh
hoạt đảng và chăm lo củng cố sự đoàn kết nhất trí của Đảng
- Liên hệ mật thiêt với quần chúng; tôn trọng tất cả mọi người; lắng nghe
tâm tư, nguyện vọng của quần chúng;
- Luôn trau dồi phẩm chất đạo đức của người đảng viên cộng sản, phấn
đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân giao phó.
17

×