Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Tội cướp giật tài sản - những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.46 KB, 50 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Với vai trò là nền tảng kinh tế - xã hội của quốc gia, chế độ sở hữu là
một trong những vấn đề trọng yếu được Nhà nước bảo vệ bằng mọi biện pháp
trong đó có biện pháp hình sự. Điều này được thể hiện trong việc xử lý các
hành vi xâm phạm tới chế độ sở hữu. Hiện nay, các tội phạm xâm phạm sở
hữu xảy ra rất phổ biến trong đó tội cướp giật tài sản chiếm tỷ lệ khá lớn. Chỉ
trong vòng 9 năm tính từ năm 1998 đến năm 2007, toàn quốc đã có17655 vụ
phạm tội cướp giật tài sản được xét xử sơ thẩm trong tổng số 465945 vụ phạm
tội được tòa án xét xử, chiếm tỷ lệ 3,78 %
1
. Nhiều vụ cướp giật tài sản đã gây
thương tích thậm chí gây chết người.
Bộ luật hình sự năm 1999 (BLHS) được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) khóa X thông qua và có hiệu lực kể
từ ngày 01/7/2000 đã trở thành là căn cứ pháp lý quan trọng để các cơ quan
pháp luật áp dụng trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, để
áp dụng đúng các qui định của pháp luật trong thực tiễn rất cần được nhận
thức và hướng dẫn áp dụng thống nhất.
Tội cướp giật tài sản - những vấn đề lí luận và thực tiễn là một trong
những đề tài được nhiều nhà khoa học, tác giả quan tâm. Có rất nhiều bài viết
trên các tạp chí chuyên ngành pháp luật như: Tạp chí Luật học có bài: “Trách
nhiệm hình sự đối với những người xâm phạm sở hữu”. Bài “Đối tượng của
các tội xâm phạm sở hữu” của Nguyễn Ngọc Chí đăng trên Tạp chí Nhà nước
- Pháp luật số 2/1998 .v.v.
Nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận án cũng đề cập đến đề tài này
như: “Các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam” luận văn của
thạc sĩ Lương Văn Thức...Các công trình, tài liệu trên đã góp phần tạo nên sự
phong phú cho nền tảng lí luận cũng như thực tiễn áp dụng tội cướp giật tài
1
Theo bảng số liệu thống kê xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Văn phòng Tổng hợp – Toà án nhân dân tối cao.


sản. Tuy nhiên, các công trình mới chỉ nghiên cứu tội cướp giật tài sản ở khía
cạnh tổng quát, đặt tội cướp giật tài sản trong tổng thể các tội xâm phạm sở
hữu của luật hình sự Việt Nam, những vấn đề thực tiễn cùng những giải pháp,
kiến nghị vẫn còn khá chung chung. Vì vậy, nghiên cứu đề tài “Tội cướp giật
tài sản - những vấn đề lý luận và thực tiễn” một cách toàn diện và có hệ
thống là đòi hỏi bức xúc trong điều kiện hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu.
Đề tài thực hiện nhằm nghiên cứu sâu sắc vấn đề lý luận cũng như
thực tiễn tội cướp giật tài sản trong giai đoạn những năm hiện nay để từ đó
tìm ra những biện pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về tội cướp
giật tài sản.
Nhiệm vụ nghiên cứu bao gồm: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của
tội cướp giật tài sản, đường lối xử lý, một số biện pháp, kiến nghị hoàn thiện
các quy định tội cướp giật tài sản.
3. Cơ cấu
Khóa luận gồm có 3 chương ngoài Lời mở đầu và Kết luận. Trong đó:
Chương I : Khái niệm và các dấu hiệu pháp lí tội cướp giật tài sản.
Chương II : Đường lối xử lý tội cướp giật tài sản.
Chương III : Thực tiễn áp dụng tội cướp giật tài sản và một số kiến nghị
hoàn thiện.
Trên đây là toàn bộ nội dung kết quả nghiên cứu của em, do trình độ
hiểu biết còn hạn chế, tài liệu tham khảo còn chưa phong phú.... nên khóa
luận không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Vì vậy, em rất mong
được sự góp ý của thầy (cô) giáo để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
CHƯƠNG I
KHÁI NIỆM VÀ CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ VỀ
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
I- Khái niệm về tội cướp giật tài sản
1. Tội cướp giật tài sản trong pháp luật hình sự từ thời kỳ trước khi ban

hành Bộ luật hình sự năm 1985
Cuộc cách mạng tháng Tám 1945 đã giành lại chủ quyền cho đất nước,
tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa. Sau thắng lợi đó, Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự để bảo vệ thành quả
cách mạng. Một trong những nội dung được đặc biệt coi trọng là chế độ sở
hữu - nền tảng kinh tế xã hội của đất nước. Các qui định của pháp luật đã
phản ánh tương đối rõ nét các đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
cũng như kỹ thuật lập pháp của nước ta trong một giai đoạn lịch sử, đặc biệt
thể hiện rõ chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với các hành vi xâm phạm
sở hữu.
Tại Điều 12 - Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận: “Quyền tư hữu tài sản
của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Việc qui định như vậy, đã tạo nên cơ
sở pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân, là điều kiện ổn định
sinh hoạt vật chất của mỗi con người. Bên cạnh đó, Nhà nước còn ban hành
hàng loạt các Sắc lệnh như: Sắc lệnh số 26/SL ngày 25 tháng 2 năm 1946
1


qui
định các hành vi phá hoại công sản, Thông tư 442/TTg ngày 19/01/1955
hướng dẫn các Tòa án trừng trị một số tội xâm phạm sở hữu như trộm cắp,
cướp của, lừa đảo, bội tín...Tuy nhiên, ở đó, tội cướp giật tài sản chưa được
quy định thành một điều luật cụ thể.
Đến năm 1959, sau khi nước ta cơ bản hoàn thành công cuộc cải tạo
XHCN thì việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH là nhiệm vụ
trọng tâm hàng đầu. Bởi vậy, việc bảo vệ sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể là
vấn đề cấp bách, được đặc biệt coi trọng. Điều 40 - Hiến pháp 1959 ghi nhận:
“Tài sản công cộng của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là thiêng liêng
1
Tập hợp hoá Luật về Hình sự - Toà án nhân dân tối cao, Hà Nội, 1975, tr 201

không thể xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công
cộng”. Ngày 21 tháng 10 năm 1970, Nhà nước ta đã thông qua hai văn bản
pháp luật mới là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp
lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Cụ thể, tại Điều 5
của Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN, tội cướp giật tài sản
XHCN được qui định: “Kẻ nào cướp giật tài sản XHCN thì bị phạt tù từ 1
năm đến 7 năm”. Tại Điều 4 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
riêng của công dân có ghi: “Kẻ nào cướp giật tài sản riêng của công dân thì bị
phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm”. Nội dung của hai pháp lệnh đã thể hiện đầy đủ
và toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với các tội
phạm về sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Điều đó còn thể
hiện trình độ kỹ thuật lập pháp của Nhà nước ta nhằm đảm bảo nguyên tắc
pháp chế đáp ứng việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong tình hình mới.
Thời kỳ này, tội cướp giật tài sản XHCN và tội cướp giật tài sản riêng của
công dân đã được cụ thể hóa thành hai điều luật riêng nằm trong hai pháp
lệnh khác nhau.
Ngoài hai pháp lệnh trên, Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số
185 ngày 09 tháng 12 năm 1970 về tăng cường bảo vệ tài sản XHCN nhằm
chỉ đạo thi hành nội dung hai pháp lệnh trong thực tế. Ngày 16/03/1973,
Thông tư liên bộ của TANDTC - VKSNDTC - BCA hướng dẫn trong đó, tội
cướp giật tài sản được hiểu là: “Trường hợp kẻ phạm tội lợi dụng sơ hở
vướng mắc của người giữ tài sản, bất thần giằng lấy tài sản trên tay người giữ
tài sản”. Với hướng dẫn lợi dụng sự “vướng mắc” còn có thể hiểu bao gồm cả
hành vi mà sau này được coi là tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Hướng dẫn
này đã khái quát tội cướp giật tài sản với hành vi khách quan của tội phạm là
hành vi chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng và công khai.
Sau ngày 30/04/1975, Sắc Luật số 03/SL ngày 15/03/1976 qui định tội
phạm và hình phạt. Trong văn bản này, tội cướp giật tài sản mặc dù không
được qui định cụ thể, chi tiết trong một điều luật riêng nhưng cũng đã được
qui định trong một điều luật cùng với các tội xâm phạm sở hữu khác nhau

như: trộm cắp, tham ô, lừa đảo....Điều 4 Sắc Luật số 03 qui định:
Điều 4: Tội xâm phạm tài sản công cộng
....b. “Phạm các tội như : trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật
thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù
đến 15 năm”.
Như vậy, cùng với hai pháp lệnh trên, Sắc Luật số 03 đã được áp dụng
chung trong cả nước sau khi nước nhà thống nhất, để đấu tranh chống các tội
phạm về sở hữu. Các qui định bước đầu về tội cướp giật tài sản trong các văn
bản đó là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm
này.
2. Tội cướp giật tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật
hình sự năm 1999.
Sự hình thành và phát triển của pháp luật luôn dựa trên nền tảng chính
tri - kinh tế - xã hội. Vào những năm 1980, đất nước với nền kinh tế có nhiều
thay đổi, với nhiều thành phần kinh tế khác nhau, các quan hệ pháp luật mới
nảy sinh cũng như những qui định pháp luật cũ, trước đây không còn phù hợp
nữa. Vì vậy, sự ra đời của BLHS 1985 (27/06/1985) là một tất yếu khách
quan. Đây là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng
chống tội phạm, góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến
trình đổi mới và sự nghiệp phát triển của xã hội.
Trong BLHS 1985, tội cướp giật tài sản được qui định thành hai tội là:
tội cướp giật tài sản XHCN tại Điều 131 với nội dung: “Người nào cướp giật
hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, nếu không thuộc trường
hợp quy định tại Điều 129 thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm” và tội
cướp giật tài sản riêng của công dân được qui định tại Điều 154 với nội dung:
“Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác, nếu
không thuộc trường hợp quy định tại Điều 151 thì bị phạt tù từ ba tháng đến
ba năm”. Xét về nội dung, hai tội này có dấu hiệu pháp lí tương tự nhau: về
mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm; chỉ khác nhau về dấu
hiệu khách thể của tội phạm. Do tính chất quan hệ sở hữu được luật hình sự

bảo vệ khác nhau, do vị trí của hai loại quan hệ sở hữu có tầm quan trọng
khác nhau nên hành vi phạm tội cướp giật tài sản được qui định trong BLHS
1985 được qui định thành hai tội danh cụ thể tại hai chương khác nhau.
Trong thời kỳ mới, xuất phát từ đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước ta nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ luật hình sự 1999 đã
nhập 2 chương: Các tội xâm phạm sở hữu XHCN và các tội xâm phậm sở hữu
riêng của công dân vào thành một chương: Các tội phạm sở hữu. Việc nhập 2
chương là một việc làm cần thiết bởi: Thứ nhất, hai điều Điều 131 và Điều
154 trong BLHS 1985 về cơ bản là giống nhau trong dấu hiệu pháp lí (về mặt
khách quan, về mặt chủ quan, về chủ thể ) nên việc tách thành 2 chương riêng
biệt là không cần thiết. Hơn thế nữa, có nhiều trường hợp phạm tội khi thực
hiện hành vi cướp giật tài sản họ không quan tâm xem tài sản đó thuộc về
quyền sở hữu của ai, của Nhà nước, tập thể hay của công dân mà chỉ cốt sao
đạt được mục đích chiếm đoạt. Thứ hai, trong nền kinh tế hiện nay, Nhà nước
chủ trương đa dạng hóa thành phần kinh tế theo các hình thức sở hữu khác
nhau nhưng đều phải bình đẳng trước pháp luật, đều được Nhà nước bảo hộ
như nhau. Do đó, việc BLHS 1985 qui định tách thành hai chương là không
còn phù hợp nữa. Đồng thời, thực tiễn cho thấy, trong nền kinh tế nhiều thành
phần, các hình thức sở hữu đan xen nhau do có sự liên doanh, liên kết, góp
vốn cổ phần với tỷ lệ khác nhau nên khó có thể xác định, thậm chí không thể
xác định được đâu là tài sản xã hội chủ nghĩa và đâu là tài sản riêng của công
dân. Thứ ba, sự ra đời của Hiến pháp 1992 khẳng định: Nhà nước ta phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với hình thức sở hữu đa dạng dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Và Bộ luật dân sự
1995 có qui định 7 hình thức sở hữu khác nhau gồm: sở hữu toàn dân; sở hữu
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, sở hữu hỗn
hợp, sở hữu chung. Như vậy, trong trường hợp khi có hành vi xâm phạm đến
tài sản thuộc sở hữu hỗn hợp (tài sản của chủ sở hữu thuộc các thành phần

kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh) thì việc tiếp tục áp dụng
các qui định của BLHS 1985 để xử lý tội phạm sẽ gặp nhiều khó khăn và
vướng mắc, nhất là trong việc định tội danh. Ngoài ra, nếu đặt vấn đề là trong
BLHS cần qui định các tội xâm phạm sở hữu tương ứng với 7 hình thức sở
hữu theo qui định của BLDS là không cần thiết. Vì thế, hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử trở lên khó khăn khi mà BLHS 1985 không qui định hành vi
xâm hại tài sản đến các hình thức sở hữu khác, ngoại trừ hình thức sở hữu
XHCN và hình thức sở hữu công dân.
Với những lí do trên, Điều 136 BLHS 1999 quy định:
“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một
năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm:
a, Có tổ chức;
b, Có tính chất chuyên nghiệp;
c, Tái phạm nguy hiểm;
d, Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ, Hành hung để tẩu thoát;
e, Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ thương tật từ 11% đến 30%;
g, Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai
trăm triệu đồng;
h, Gây thiệt hại nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm:
a, Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ thương tật từ 31% đến 60%;
b, Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm
trăm triệu đồng;
c, Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a, Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;
b, Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
c, Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một
trăm triệu đồng.”
Nếu so với Điều 131, Điều 154 của BLHS 1985 thì Điều 136 của
BLHS 1999 có nhiều sửa đổi và bổ sung. Đó là các dấu hiệu định khung hình
phạt đã có sự qui định cụ thể hơn. Các dấu hiệu định khung mới như: “gây
thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác ”, “giá trị tài sản”,
“gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” được
qui định trong điều luật. Đặc biệt là hình phạt bổ sung cũng được qui định
ngay thành một phần cụ thể, rõ ràng. Về cơ cấu, tội cướp giật tài sản được qui
định trong BLHS có 4 khung hình phạt, trong khi đó, BLHS 1985, chỉ qui
định tội cướp giật tài sản với 3 khung hình phạt. Khoảng cách giữa mức hình
phạt tối đa và tối thiểu trong một khung hình phạt trong tội cướp giật tài sản
cũng ngắn hơn so với BLHS 1985. Điều này cho thấy, kỹ thuật lập pháp của
các nhà làm luật đã qui định cụ thể các trường hợp phạm tội có sự phân hóa
trách nhiệm hình sự và hình phạt. Từ đó, tạo điều kiện cho hoạt động áp dụng
luật được dễ dàng và chính xác hơn. Ngoài ra, BLHS 1985, tội cướp giật tài
sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được qui định chung trong một điều
luật, nhưng đến BLHS 1999, hai tội này được tách riêng và qui định thành hai
điều luật khác nhau. Đây là việc làm cần thiết bởi vì xét về tính chất và mức
độ nguy hiểm thì tội cướp giật có tính nguy hiểm cao hơn so với tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản, vì vậy khung hình phạt hoàn toàn khác nhau. Việc
tách ra thành hai tội riêng, giúp việc áp dụng được dễ dàng và phù hợp với
tính chất mức độ nguy hiểm của từng tội phạm.
Như vậy, nhìn vào lịch sử lập pháp của tội cướp giật tài sản, chúng ta

nhận thấy, sự phát triển, hoàn thiện trong kỹ thuật lập pháp của các nhà làm
luật. Với các qui định tại Điều 136 BLHS 1999, tội cướp giật tài sản đã được
quy định một cách rõ ràng hơn, chi tiết hơn. Điều này là cơ sở cho việc thực
thi luật được minh bạch, thuận lợi và chính xác.
Ngày16/03/1973, Thông tư liên bộ của Tòa án nhân dân tối cao - Viện
kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an hướng dẫn nội dung tội cướp giật tài
sản được hiểu là: “Trường hợp kẻ phạm tội lợi dụng sơ hở vướng mắc của
người giữ tài sản, bất thần giằng lấy tài sản trên tay người giữ tài sản...với ý
thức không che giấu hành vi phi pháp của mình, rồi chạy trốn hoặc bỏ đi
không dùng bạo lực”. Hướng dẫn này đã khái quát tội cướp giật tài sản với
hành vi khách quan của tội phạm là hành vi chiếm đoạt. Đồng thời, hướng
dẫn còn nêu đặc điểm của hành vi chiếm đoạt của tội cướp giật tài sản là
chiếm đoạt một cách nhanh chóng và công khai.
Đến nay Điều 136 BLHS 1999 quy định tội cướp giật tài sản với định
nghĩa: “Tội cướp giật tài sản là hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một
cách công khai”.
1
Tội cướp giật tài sản là chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người
có trách nhiệm quản lý tài sản một cách công khai, tức là người phạm tội
không ý thức che giấu hành vi phạm tội của mình. Một hành vi chiếm đoạt có
tính chất công khai nếu hình thức thực hiện của nó cho phép chủ tài sản có
khả năng biết ngay có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra.
Ví dụ:
1
Giáo trình Luật Hình sự, Đại học Luật Hà Nội, tr378
Trưa ngày 14/02/2005, Vũ Huy Hoàng (18 tuổi, trú tại số nhà 12, ngõ
62 Trần Quý Cáp), Nguyễn Chiến Thắng (20 tuổi, trú tại ngõ Linh Quang,
Văn Chương), Phạm Quang Duy (19 tuổi, trú tại Khâm Thiên), Đinh Việt
Cường (21tuổi, trú tại ngõ Thanh Miếu, Văn Miếu) và đối tượng nữ nhuộm
tóc vàng là Trần Bích Diệp (16 tuổi, trú tại ngõ Yên Bái II, phường Phố Huế),

sau khi ăn chơi hút hít ở một nhà nghỉ trên đường Giải Phóng, cả bọn bàn
nhau đi cướp giật tài sản để lấy tiền...chơi tiếp. Chúng thỏa thuận: Hoàng sẽ
chở Thắng, còn Duy sẽ chở Diệp. Khi tia thấy “con mồi” thì Hoàng sẽ áp sát
xe vào con mồi cho Thắng giật, còn Duy - Diệp sẽ cản đường nếu bị đuổi bắt.
Đi khỏi nhà nghỉ một đoạn, đến chân cầu vượt Ngã Tư Vọng thì cả bọn
nhìn thấy hai phụ nữ đèo nhau bằng xe máy, trên tay người ngồi sau ôm một
chiếc túi. Chúng đoán trong chiếc túi chắc phải có tài sản gì đáng giá lắm nên
người phụ nữ kia mới ôm khư khư như vậy nên quyết định bám theo. Đến
đỉnh cầu vượt, Hoàng áp sát xe vào hai người phụ nữ và Thắng xô vào giật
chiếc túi trên tay người ngồi sau rồi cả bọn rồ ga chạy thục mạng. Người đi
đường chỉ còn nghe thấy tiếng rúi xe ầm ĩ và những làn khói xanh để lại. Xe
đổ, hai người phụ nữ ngã văng ra đường. Hai người phụ nữ đó là hai chị em
Đỗ Thị Lượng và chị Đỗ Thị Hà ở đường Giáp Bát.
Như vậy, các đối tượng trên đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
một cách công khai và nhanh chóng, cấu thành tội cướp giật tài sản qui định
tại Điều 136 BLHS 1999.
II-Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản qui định tại Điều
136 BLHS 1999.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, cấu thành tội phạm là tổng hợp
những dấu hiệu chung có tính đặc thù cho loại tội phạm cụ thể được quy định
trong luật hình sự. Với nội dung này, cấu thành tội phạm được coi là khái
niệm pháp lý của loại tội phạm cụ thể, là sự mô tả khái quát loại tội phạm
nhất định trong luật hình sự.
Về mặt lí luận, bốn yếu tố cấu thành tội phạm là: khách thể của tội
phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của
tội phạm. Ở tội cướp giật tài sản qui định tại Điều 136 BLHS 1999, các dấu
hiệu pháp lý của bốn yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm:
1.Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại. Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được

coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác
định trong Điều 8 của BLHS 1999. Đồng thời, mỗi một tội phạm đều gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hai cho một trong những khách thể nhất định.
Khách thể của tội phạm là một căn cứ quan trọng để đánh giá mức độ, tính
chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Trong tội cướp giật tài sản, khách thể trực tiếp bị xâm hại là quan hệ sở
hữu về tài sản mà đối tượng tác động là những tài sản nhỏ, gọn, dễ mang đi do
tính chất của hành vi là nhanh chóng chiếm đoạt tài sản. Khi người phạm tội
thực hiện hành vi cướp giật tài sản đã gây ra thiệt hại về quyền sở hữu của tài
sản cho chủ tài sản và sự gây thiệt hại này phản ánh đầy đủ bản chất nguy
hiểm của hành vi phạm tội.
Ngoài ra, không phải mọi tài sản đều là đối tượng tác động của tội cướp
giật tài sản. Đối tượng tác động của tội này thường là những tài sản gọn nhẹ,
có thể lấy và mang đi một cách dễ dàng như: dây chuyền, lắc, túi xách...rất ít
khi tội phạm lấy những tài sản cồng kềnh, khó di chuyển, mang vác theo. Tuy
vậy, không loại trừ tội phạm cướp giật những tài sản cồng kềnh như: xe máy,
xe đạp...bởi sau khi người phạm tội cướp tài sản xong lại sử dụng chính
những tài sản đó làm phương tiện để tẩu thoát.
Tài sản nói ở đây thông thường là tài sản hợp pháp, thuộc quyền sở hữu
của chủ tài sản. Nói như vậy không có nghĩa là những hành vi chiếm đoạt tài
sản bất hợp pháp của người khác thì người phạm tội sẽ không bị coi là tội
cướp giật tài sản.
Ví dụ:
Anh Nguyễn Văn A vừa trộm cắp được xe máy của chị Trần Thị B.
Nguyễn Văn C biết được điều này nên C đã giả vờ hỏi A đi nhờ xe và C xin
cầm lái. Khi C nổ xe máy, A chưa kịp ngồi lên xe, C đã phóng đi mất. A đứng
nhìn mà không làm gì được. Như thế, trong trường hợp này, hành vi chiếm
đoạt của anh C vẫn bị cấu thành tội cướp giật tài sản mặc dù xe máy là tài sản
bất hợp pháp do A trộm cắp.
Đối tượng tác động của tội cướp giật tài sản là tài sản nói chung trừ một

số đối tượng vật chất do tính chất đặc biệt của nó nên sẽ không là đối tượng
của tội cướp giật tài sản. Ví dụ: đối tượng là vũ khí quân dụng thì hành vi
chiếm đoạt đối tượng này sẽ cấu thành tội qui định tại Điều 230 BLHS 1999 -
tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Hoặc hành vi
cướp giật tài sản mà đối tượng là chất phóng xạ, vật liệu cháy nổ, ma túy... thì
đã được quy định thành một số tội độc lập khác trong Bộ luật hình sự.
Như vậy, với ý nghĩa là những quan hệ xã hội bị tội phạm gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại, là khách thể của tội phạm, quyền sở hữu tài sản là
khách thể trực tiếp của tội cướp giật tài sản.
2.Mặt khách quan của tội phạm
Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện diễn ra
hoặc tồn tại bên ngoài mà còn con người có thể trực tiếp nhận biết được. Đó
là: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của
việc thực hiện hành vi phạm tội. Tổng hợp những biểu hiện trên đây tạo thành
mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội phạm là mặt
bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc
tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.
Đối với tội cướp giật tài sản, dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm
được qui định tại Điều 136 BLHS 1999 chính là hành vi công khai chiếm đoạt
tài sản một cách nhanh chóng.
Hành vi khách quan trong tội cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài
sản của người khác. Hành vi chiếm đoạt là hành vi dịch chuyển tài sản đang
do người khác quản lý thành tài sản của mình một cách bất hợp pháp. Hành vi
chiếm đoạt bao gồm sự thống nhất giữa biểu hiện khách quan (là sự chuyển
dịch tài sản) với ý thức chủ quan (mong muốn chiếm đoạt tài sản của người
khác một cách bất hợp pháp).
Trong tội cướp giật tài sản, hành vi chiếm đoạt thực hiện bằng hình
thức công khai và nhanh chóng. Đây là những dấu hiệu đặc trưng, là cơ sở để
phân biệt tội cướp giật tài sản với những tội phạm khác.

2.1.Dấu hiệu công khai chiếm đoạt.
Trước hết, dấu hiệu công khai được hiểu là người phạm tội không có ý
thức che giấu hành vi phạm tội của mình và khi thực hiện việc chiếm đoạt cho
phép chủ tài sản biết ngay có hành vi chiếm đoạt xảy ra. Dấu hiệu này vừa chỉ
tính khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa thể hiện ý thức chủ quan của
người phạm tội. Về khách quan, người phạm tội không che giấu hành vi
chiếm đoạt, công khai và ngang nhiên thực hiện hành vi đó. Ngay sau khi
thực hiện hành vi, người xung quanh có thể nhận thấy ngay hành vi của người
phạm tội. Về mặt chủ quan, người phạm tội không có ý định che giấu hành vi
phạm tội của mình mà cố ý thực hiện hành vi là chiếm đoạt bằng được tài sản
của chủ tài sản.
Tính chất công khai của hành vi cướp giật tài sản là công khai khi thực
hiện hành vi đó đối với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản
bị cướp giật. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi vào ban đêm hoặc với
những thủ đoạn làm cho chủ sở hữu tài sản không nhận được người phạm tội
như: đeo mặt nạ, hóa trang công khai, chiếm đoạt tài sản thì hành vi phạm tội
vẫn bị coi là hành vi cướp giật tài sản.
Đặc trưng của tội cướp giật tài sản là công khai và không dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn uy hiếp tinh thần nào đối với người
khác để chiếm đoạt tài sản. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt với các tội
phạm khác.
Hành vi chiếm đoạt thông thường là: giật lấy, giằng lấy, đoạt
lấy...nhưng không phải bất kỳ ai cũng có một trong những hành vi đó đều
phạm tội cướp giật tài sản.
Tội cướp giật tài sản với dấu hiệu đặc trưng là người phạm tội thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách công khai. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, người phạm tội còn có thủ đoạn lừa dối để
“đánh lừa” chủ tài sản hoặc người khác để dễ dàng chiếm đoạt được tài sản.
Nhưng đấy chỉ là thủ đoạn để tiếp cận tài sản, để có thể dễ dàng thực hiện
hành vi chiếm đoạn mà thôi. Ví dụ như: thủ đoạn giả vờ trà trộn thành khách

hàng, hoặc các thủ đoạn giả vờ làm người mua vé xem phim...sau đó nhanh
chóng chiếm đoạt và lẩn tránh. Hay bằng những hành vi gian dối khác để tạo
sự bất ngờ, không có biện pháp đề phòng, ngăn chặn của chủ tài sản.
Ví dụ:
A rủ B đến cửa hàng vàng bạc để xem nhẫn. A giả vờ vào mua còn B
đứng ở ngoài cửa nổ xe chờ. Khi chủ đưa nhẫn cho A xem, A bảo chủ là cho
B cầm nhẫn ra ngoài cửa, để xem ánh sáng tự nhiên cho rõ ràng. Chủ cửa
hàng thấy A bảo hợp lý, không chút nghi ngờ gì cả nên đã đồng ý. A cầm
nhẫn leo lên xe của B nổ sẵn và tháo chạy. Như thế, A đã sử dụng thủ đoạn
gian dối để giúp việc chiếm đoạt tài sản được thực hiện nhanh chóng và dễ
dàng hơn.
Hoặc vụ án:
Ngày 13/04/1999, PhạmVăn Ng ở Từ Liêm - Hà Nội đến cửa hàng
đồng hồ để bán chiếc đồng hồ Selko5 nhưng cửa hàng này không mua. Ông
Ng gạ bán đồng hồ cho Phạm Khánh N đứng ở gần đó. N đồng ý mua nhưng
lấy lí do là không mang theo tiền nên đề nghị ông Ng theo y về nhà lấy tiền để
trả. Ông Ng tin và đồng ý đi theo N. Khi đến Yên Hòa - Cầu Giấy thì N bảo
ông Ng đưa đồng hồ cho y xem lại chất lượng lần nữa. Ngay sau khi ông Ng
đưa đồng hồ, N lập tức bỏ chạy. Sau đó, y bị bắt.
1
Tại bản án sơ thẩm số 135/HS - ST ngày 05/11/1999 của Tòa án nhân
dân quận H đã áp dụng Khoản 1 Điều 136 BLHS 1999, phạt Phạm Khánh N 3
năm tù về tội cướp giật tài sản.
Vụ án trên, để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của ông Ng, N đã
phải dùng đến một số thủ đoạn cũng như tiếu xảo để qua mặt Ng, để tạo ra sơ
hở và lợi dụng sơ hở đó để thực hiện hành vi chiếm đoạt của mình. Tất cả
những hành vi trên chỉ là cơ sở để N thực hiện mục đích chiếm đoạt. Hành vi
cuối cùng của N vẫn là cầm lấy đồng hồ và nhanh chóng bỏ chạy đã chứng tỏ
ý thức công khai không cần che giấu hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, Tòa
án nhân dân quận H, áp dụng Khoản 1 Điều 136 BLHS 1999 là hoàn toàn

đúng đắn.
Dấu hiệu công khai là dấu hiệu đặc trưng của tội cướp giật tài sản,
không thể thiếu trong cấu thành tội phạm. Nhưng chỉ công khai thôi thì chưa
đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự một người về tội cướp giật tài sản.
Bởi trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu có nhiều tội mà hành vi chiếm đoạt
tài sản cũng có dấu hiệu công khai.
2.2.Dấu hiệu nhanh chóng chiếm đoạt.
“Nhanh chóng” là khái niệm nói đến sự gấp gáp, khẩn trương
2
trong
việc thực hiện hành vi phạm tội. Để thực hiện hành vi chiếm đoạt vừa nhanh
chóng vừa công khai, người phạm tội đã có thủ đoạn lợi dụng sơ hở của chủ
tài sản hoặc người phạm tội chủ động tạo ra sơ hở này rồi nhanh chóng tiếp
cận, nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát. Thủ đoạn nhanh
chóng chiếm đoạt có thể diễn ra dưới các hình thức khác nhau, tùy thuộc vào
đặc điểm tài sản chiếm đoạt, vị trí, cách thức giữ tài sản cũng như hoàn cảnh
1
Tạp chí Toà án 1999, số 7, tr 25
2
Từ điển Luật học, tr 156
khác nhau. Thông thường hình thức nhanh chóng có thể là giật lấy tài sản,
giằng lấy tài sản, chộp lấy tài sản và nhanh chóng tẩu thoát.
Dấu hiệu nhanh chóng tẩu thoát ở đây dùng để chỉ sự lẩn tránh khỏi sự
tìm kiếm của chủ tài sản. Tùy thuộc vào từng hoàn cảnh mà sự lẩn tránh này
có thể được thực hiện ở một trong những cách sau: chạy đi nhanh chóng hoặc
đứng im một chỗ có lợi. Thực tiễn xét xử, gặp nhiều trường hợp, người cướp
giật tài sản nhanh chóng tẩu thoát bằng cách chạy trốn, do đó có quan điểm
cho rằng chạy trốn là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội này.
Trong tội cướp giật tài sản, người phạm tội không sử dụng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn nào khác nhằm làm tê liệt ý chí của chủ tài

sản mà chỉ lợi dụng sơ hở để chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng. Và
sau khi người phạm tội thực hiện hành vi cướp giật tài sản thì chủ tài sản và
người xung quanh điều biết; do đó, chủ tài sản vẫn có đủ các điều kiện để
thực hiện các biện pháp chống lại hành vi chiếm đoạt để bảo vệ tài sản của
mình. Người phạm tội nhận thức được điều đó nên để đảm bảo an toàn, để
không bị bắt giữ thì người phạm tội phải lẩn tránh hoặc tẩu thoát. Vì vậy, tẩu
thoát chỉ là thủ đoạn thường gặp của hành vi cướp giật tài sản mà không phải
là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Thực tiễn, có nhiều trường hợp, người phạm
tội sau khi chiếm đoạt được tài sản họ không chạy trốn cũng như không có
hành vi nào đe dọa vũ lực hay uy hiếp tinh thần của người chủ tài sản.
Ví dụ:
A là một tên côn đồ khét tiếng về việc đánh nhau ở địa bàn quận H.
Hôm đó, A đang ngồi uống nước ở quán thì thấy anh B là thương binh ngồi
trên xe lăn. A đứng dậy tiến gần anh B giật lấy dây chuyền rồi A xuống
đường một cách từ từ mà không cần nhanh chóng chạy trốn.
Ví dụ trên đã chứng tỏ, tẩu thoát không phải là dấu hiệu bắt buộc trong
mặt khách quan của tội cướp giật tài sản. A vẫn không hề lẩn tránh sau khi
thực hiện hành vi phạm tội nhưng hành vi của A đã bị xét xử theo Điều 136-
BLHS1999 về tội cướp giật tài sản.
Như vậy, hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản mang tính chất
công khai và nhanh chóng chiếm đoạt. Tội phạm hoàn thành khi người phạm
tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, không kể đã chiếm đoạt được tài sản
đó hay chưa. Đây là một trong các điểm khác nhau so với tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản.
Chị B đến cửa hàng chị A để thu tiền nợ. Anh C thấy chị B để tiền
trong một túi đen. Lúc chị B rời khỏi cửa hàng đi được một đoạn, đến quãng
đường vắng vẻ, anh C liền áp sát rồi giật lấy cái túi đen của chị B. Anh C mở
ra không thấy tiền mà chỉ thấy áo chống nắng, khẩu trang và một số đồ lặt vặt.
Chị B trước khi rời khỏi cửa hàng đã để túi tiền trong cốp xe máy, điều này
khiến anh C bị nhầm. Tuy tài sản anh C không chiếm đoạt được nhưng hành

vi của anh C vẫn bị cấu thành tội cướp giật tài sản đã hoàn thành theo qui
định của Điều 136 BLHS 1999.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt là một trong những hình thức thể hiện của
hành vi khách quan trong các tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, ở từng tội
phạm cụ thể, hành vi này thể hiện một cách khác nhau. Trong tội cướp giật tài
sản, hành vi chiếm đoạt được thực hiện bằng hình thức: công khai và nhanh
chóng. Đây cũng là những dấu hiệu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định
tội, xác định trách nhiệm hình sự một cách đúng đắn.
Tính nguy hiểm khách quan của tội phạm là ở chỗ, tội phạm đã gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ. Sự gây thiệt hại này là một trong những nội dung biểu hiện của yếu tố
mặt khách quan của tội phạm. Đó là hậu quả nguy hiểm cho xã hội - hậu quả
của hành vi khách quan.
Như vậy, hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi khách quan phạm
tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Trong tội
cướp giật tài sản, hậu quả nguy hiểm cho xã hội trực tiếp là những thiệt hại
về vật chất nhưng dấu hiệu này không là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm song nó có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của tội phạm
đã thực hiện.
3.Chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành chỉ có thể
là con người cụ thể. Nhưng không phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của
tội phạm khi thực hiện hành vi được qui định trong luật hình sự. Tội phạm
theo luật hình sự Việt Nam phải là hành vi có lỗi. Do vậy, chỉ những người có
điều kiện có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới có thể là chủ
thể của tội phạm. Người có đủ điều kiện có lỗi, để trở thành chủ thể của tội
phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Hai điều kiện: năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi là những dấu hiệu pháp lí bắt buộc của chủ thể
tội phạm. Như vậy, chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm
hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.

Chủ thể của tội cướp giật tài sản là bất kỳ người nào có năng lực trách
nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Trong
đó, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy.
Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, tại Điều 12 BLHS 1999 qui định:
1. “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng”.
Theo Khoản 8 Điều 3 BLHS 1999 thì tội cướp giật tài sản tại Điều 136
BLHS 1999, khung hình phạt lần lượt là: - khung thứ nhất áp dụng đối với
người từ đủ 16 tuổi trở lên phạm tội vì mức cao nhất của khung hình phạt là
đến năm năm (tội nghiêm trọng) - khung thứ hai áp dụng đối với người từ đủ
14 tuổi trở lên phạm tội vì mức cao nhất của khung hình phạt là đến mười
năm (tội rất nghiêm trọng) - khung thứ ba áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi
trở lên phạm tội vì mức cao nhất của khung hình phạt là đến mười lăm năm
(tội rất nghiêm trọng) - khung thứ tư áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi trở
lên phạm tội vì mức cao nhất của khung hình phạt là đến tù chung thân (tội
đặc biệt nghiêm trọng).
Như vậy, đối với tội cướp giật tài sản, chủ thể của tội phạm trước hết
bao gồm những người từ đủ 16 tuổi trờ lên, có năng lực trách nhiệm hình sự
và những người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện hành vi cướp giật tài sản trong trường hợp thuộc Khoản 2 Điều 139,
Khoản 3, Khoản 4 BLHS 1999.
Ví dụ:
Ngày 13/10/2000, chị Nguyễn Thị Thu V, 22 tuổi đi xe máy trên đường
thì bị hai đối tượng đi xe máy cùng chiều là Hoàng Ngọc T (sinh năm 1983)
và Lê Quốc N (1987) giật mất túi tiền để trước giỏ xe. Nghe nạn nhân kêu

cứu, quần chúng và dân phòng đã đuổi theo và truy bắt được cả hai tên.
Tại bản án hình sự sơ thẩm sơ thẩm số 120 ngày 15/03/2001 của Tòa án
nhân dân tỉnh H tuyên: chỉ có Hoàng Ngọc T là chủ thể của tội cướp giật tài
sản vì T đã 20 tuổi, nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội
nhưng vẫn thực hiện hành vi đó, còn Lê Quốc N phải không phải chịu trách
nhiệm hình sự vì tính tại thời điểm đó, N mới 13 tuổi, chưa đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
Chủ thể tội cướp giật tài sản là một trong bốn yếu tố trong cấu thành tội
phạm, nếu thiếu yếu tố này thì không cấu thành tội phạm.
4.Mặt chủ quan của tội phạm.
Tội phạm là thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Mặt
khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan là
hoạt động tâm lí bên trong của người phạm tội. Với ý nghĩa là một mặt của
hiện tượng thống nhất, mặt chủ quan của tội phạm không tồn tại độc lập mà
luôn luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm. Mặt khách quan của tội
phạm là hoạt động tâm lí bên trong của người phạm tội, bao gồm các nội
dung: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Đối với tội cướp giật tài sản, mặt chủ
quan của tội phạm gồm dấu hiệu lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
Lỗi của người phạm tội cướp giật tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực
hiện hành vi cướp giật tài sản, người phạm tội biết mình có hành vi công khai,
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác, thấy trước hậu quả nguy
hiểm do hành vi của mình gây ra nhưng lại mong muốn hậu quả đó xảy ra,
mong muốn thực hiện trọn vẹn quá trình phạm tội.
Trong mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản, ngoài lỗi là dấu hiệu bắt
buộc còn có động cơ và mục đích phạm tội.
Động cơ của tội cướp giật tài sản được hiểu là động lực bên trong thúc
đẩy người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một
cách cố ý.
Mục đích của tội cướp giật tài sản là kết quả trong ý thức chủ quan mà
người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.

III.Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số tội khác.
Từ trên các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cướp giật tài sản, chúng
ta có thể phân biệt với một số tội phạm nhằm làm rõ hơn những điểm khác
nhau cơ bản giữa các tội phạm khác với tội cướp giật tài sản. Từ đó, tạo thuận
lợi cho quá trình áp dụng trong thực tiễn xét xử.
1.Tội cướp giật tài sản và tội cướp tài sản
Tội cướp giật tài sản và tội cướp tài sản giống nhau đều là tội xâm
phạm quyền sở hữu và đều là các tội có tính chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, ở
tội cướp tài sản, dấu hiệu chiếm đoạt thể hiện ở mục đích của người phạm tội.
Còn trong tội cướp giật tài sản, dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện bằng hành
vi chiếm đoạt.
Trong tội cướp tài sản, người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng
vũ lực ngay tức khắc hoặc có thủ đoạn khác làm cho người bị tấn công lâm
vào tình trạng không thể chống cự được, nhằm chiếm đoạt tài sản của họ.

×