Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TIỂU LUẬN MÔN HỌC CÔNG TY XUYÊN ĐA QUỐC GIA Chuyển giá lý thuyết, minh chứng và hàm ý chính sách tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.71 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Quá trình toàn cầu hóa đã thúc đẩy nền kinh tế của các quốc gia phát triển
và phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn, dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong tất cả
các lĩnh vực của nền kinh tế thế giới. Nhắc tới quá trình toàn cầu hóa không thể
không nhắc tới hoạt động thương mại, đầu tư quốc tế của các công ty xuyên
quốc gia, những nhân tố quan trọng tác động tới quá trình này. Sự xuất hiện của
các công ty xuyên quốc gia đã được đánh giá là một sự tiến bộ của lịch sử.
TNCs đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế thế giới bởi TNCs không chỉ tác
động đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung mà còn tác động đến
sự phát triển của nền kinh tế từng quốc gia nói riêng. Hoạt động của các công ty
xuyên quốc gia ở Việt Nam đã đem đến nhiều khởi sắc cho nền kinh tế, nhưng
bên cạnh đó chúng cũng đem lại một số tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh
tế của Việt Nam. Giai đoạn hiện nay, tình trạng một số doanh nghiệp FDI thực
hiện việc chuyển giá nhằm trốn thuế, gây thất thu ngân sách và tạo sự cạnh tranh
không lành mạnh giữa các doanh nghiệp…đã diễn ra trong nhiều năm qua và
gây bức xúc trong cộng đồng doanh nghiệp chính là một vấn đề đáng lo ngại. Để
hiểu sâu hơn về vấn đề này, đề tại tập trung nghiên cứu lý luận chung về chuyển
giá, thực trạng chuyển giá của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam và một
số bài học kinh nghiệm về giải pháp chống chuyển giá tại một số quốc gia, qua
đó giúp Việt Nam có hướng giải quyết vấn đề này một cách đồng bộ và kịp thời.
Do đó, nhóm tác giả đã chọn đề tài: “Chuyển giá: lý thuyết, minh chứng
và hàm ý chính sách tại Việt Nam” làm chuyên đề nghiên cứu cho nhóm.
Nội dung chính:
Phần I: Lý luận chung về chuyển giá
Phần II: Thực trạng chuyển giá của các công ty xuyên quốc gia tại
Việt Nam
Phần III: Hàm ý chính sách và một số giải pháp hạn chế hoạt động
chuyển giá tại Việt Nam
2
Phần I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN GIÁ
1. Khái niệm


Chuyển giá là hành vi thông đồng giữa các công ty của cùng một tập đoàn
để thực hiện dàn xếp áp đặt về mặt giá cả giữa các công ty không dựa trên giá
thị trường nhằm chuyển lợi nhuận từ nước này sang nước khác, tránh nộp thuế
đầy đủ, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của tập đoàn.
Chuyển giá là việc định giá hàng hóa dịch vụ chuyển giao giữa các công
ty liên kết đóng ở các quốc gia khác nhau nhằm tối ưu hóa lợi nhuận của tập
đoàn.
Chuyển giá là hoạt động mang tính chủ quan, cố ý của các tập đoàn đa
quốc gia nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp bằng cách định giá mua bán sản
phẩm, nguyên vật liệu giữa các công ty trong cùng một tập đoàn, không theo giá
thị trường nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực
hiện nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các
bên liên kết. Hành vi ấy có đối tượng tác động chính là giá cả.
Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những giao dịch như vậy xuất phát
từ ba lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ
thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn
có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên
kết nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh
có cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên
trong nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi
tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển
từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác
nhau về chính sách thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách
3
kinh tế - xã hội của họ không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy
định ưu đãi thuế là điều tất yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn

toàn có thể xảy ra.
2. Đặc điểm
- Không có sự thương lượng trước trong điều kiện thị trường cạnh tranh
mà nó thường gắn với quan hệ, liên kết giữa bên giao và bên nhận, do chủ công
ty điều hành.
- Được xác định không hợp lý nhằm chủ động dồn thu nhập vào nơi
không phải nộp thuế hoặc nộp thuế thấp, dồn chi phí vào nơi có thuế cao.
- Đối với công ty đa quốc gia, việc giao nhận là cùng trong một tập đoàn,
nên thu nhập chung của tập đoàn thường là không thay đổi, nhưng thu nhập sau
thuế thì lớn hơn vì đã gian lận được thuế. Mục tiêu cuối cùng là để tối đa hóa lợi
nhuận.
- Đối với nước nhận đầu tư thì ngân sách quốc gia bị mất đi một khoản
thuế do bị gian lận, đồng thời còn tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng với các
doanh nghiệp trong nước.
- Chuyển giá chỉ được thực hiện được đối với TNCs.
3. Phân loại chuyển giá
3.1 Chuyển giá thông qua nâng giá trị vốn góp
TNCs vào Việt Nam khai giá các tài sản góp vốn như dây chuyền, máy
móc, thiết bị, nguyên liệu và dịch vụ đặc thù cao hơn nhiều so với giá trị thực tế.
Việc nâng khống giá trị tài sản góp vốn giúp TNCs chuyển một phần lợi ích
kinh tế ngược trở lại thông qua trích khấu hao tài sản cố định, phân chia lợi
nhuận trên tỉ lệ vốn góp. Thêm nữa, nhờ khai khống giá tài sản góp vốn đối tác
nước ngoài chiềm được tỷ trọng góp vốn cao hơn so với bên liên doanh Việt
Nam, từ đó nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp theo mục đích của
mình.
Một ví dụ cụ thể cho hình thức chuyển giá này là trường hợp Công ty Ve
Wong Đài Bắc và Công ty Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh cùng hợp tác
thành lập Xí nghiệp Liên doanh Saigon Ve Wong chuyên sản xuất bột ngọt (năm
4
1990). Phần vốn góp của công ty Ve Wong bằng máy móc thiết bị được định giá

là 4.972.073 USD. Nhưng sau khi được Công Ty Thẩm Định Giá Quốc Tế thẩm
định lại thì giá trị thực của thiết bị chỉ có 4.612.640 USD, tương ứng mức chênh
lệch là 359.433 USD. Việc định giá cao các thiết bị máy móc này đã giúp cho
nhà đầu tư nước ngoài chuyển một phần lợi nhuận về phía công ty mẹ ngay sau
khi góp vốn và gây nhiều thiệt hại cho phía doanh nghiệp Việt Nam, Chính phủ
và cả người tiêu dùng. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, tỉ lệ vốn góp bị nhỏ
lại. Lúc này, các công ty nước ngoài sẽ nắm giữ quyền điều hành liên doanh.
Trong nhiều trường hợp, họ cố tình điều hành việc kinh doanh dẫn đến thua lỗ,
buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải bán cổ phần cho họ. Khi đó liên doanh sẽ
trở thành công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài.
3.2Chuyển giá thông qua chuyển giao tài sản vô hình
Hình thức này thường diễn ra trong trường hợp công ty nước ngoài
chuyển giao công nghệ sản xuất kinh doanh cho bên liên kết tại Việt Nam và thu
tiền bản quyền. Việc định giá đối với loại tài sản vô hình mang tính đặc thù này
thường rất khó khăn. Lợi dụng đặc tính này, doanh nghiệp liên kết tại nước
ngoài thường tính và thu phí bản quyền rất cao đối với bên liên kết tại Việt Nam,
khiến cho chi phí đầu vào của bên liên kết Việt Nam bị đẩy lên cao, kết quả sản
xuất kinh doanh thua lỗ, Chính phủ Việt Nam bị mất quyền đánh thuế thu nhập
doanh nghiệp.
Ví dụ: Công ty liên doanh nhà máy bia Việt Nam là một công ty liên
doanh hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài của Bộ kế hoạch và đầu tư năm
1991. Hai bên đối tác liên doanh là công ty thực phẩm tại thành phố Hồ Chí
Minh và công ty Heneiken international behler (Hà Lan). Đến năm 1994 thì
doanh nghiệp này liên doanh với asia pacific breweries pte.ltd (Singapore). Tổng
số vốn đầu tư là 49,5 triệu đô la Mỹ và vốn pháp định là 17 triệu đô la Mỹ. Bên
liên doanh Việt Nam chiếm 40% bên liên doanh Singapore chiếm 60% vốn,
ngành nghề sản xuất của bên liên doanh là sản xuất bia để tiêu thụ trong nước và
xuất khẩu. Khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tình trạng kinh doanh
của công ty bị thua lỗ kéo dài qua các năm, nguyên nhân chủ yếu là do chi trả
5

phí bản quyền quá cao và tăng dần qua các năm. Trong tình hình công ty liên
doanh thường xuyên thua lỗ, phía liên doanh Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề
nhưng ngược lại phía liên doanh nước ngoài vẫn không ảnh hưởng gì vì họ vẫn
nhận đủ tiền bản quyề. từ nhãn hiệu và tiền bản quyền lại có xu hướng ngày
càng tăng.
3.3 Chuyển giá thông qua việc gia tăng các chi phí liên quan, các
dịch vụ được cung cấp bởi công ty mẹ hoặc các bên liên kết như chi phí quản
lý, quảng cáo, tiếp thị, đào tạo, thuê chuyên gia…
Do dịch vụ thường đa dạng và mang tính đặc thù nên rất khó định giá. Lợi
dụng đặc tính này, trong những năm qua, một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư
vốn vào Việt Nam và thực hiện cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp thành
viên tại Việt Nam, đồng thời tính giá dịch vụ ở mức rất cao để chuyển lợi nhuận
từ doanh nghiệp thành viên tại Việt Nam sang bên liên kết nước ngoài nhằm
giảm nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp thành viên tại Việt
Nam, gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
Một ví dụ điển hình về hình thức chuyển giá này phải kể đến hành vi
chuyển giá của Starbucks tại Anh. Từ khi mở tiệm cà phê đầu tiên tại Anh năm
1998 đến nay, Satrbucks chỉ đóng 8,6 triệu bảng Anh tiền thuế, dù riêng năm
2011 doanh số của Starbucks tại Anh đã là 400 triệu bảng, tương đương 600
triệu đô la Mỹ.
Năm 2012, đại diện Starbucks nói rằng họ chỉ mới có lãi trong 1 năm mặc
dù thừa nhận hoạt động Starbucks Anh quốc đã góp phần mang lại lợi nhuận cho
các chi nhánh Starbucks tại Hà Lan và Thụy Sỹ. Mỗi năm Starbucks Anh quốc
phải trích 6% lợi nhuận để thanh toán cho Starbucks Hà Lan tiền “bản quyền” sử
dụng logo, thương hiệu; phải mua cà phê của Starbucks Thụy Sỹ với giá bằng
giá cà phê trên thị trường cộng với 20%…Chỉ riêng khoản chi phí và chuyển
giá, bình quân mỗi năm Starbucks Anh Quốc bị lỗ khoản 5 triệu bảng Anh và do
bị lỗ nên không phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp.
6
3.4 Chuyển giá thông qua việc vay vốn từ các bên liên kết

Chi phí tài chính từ các khoản vốn vay cũng làm tăng chi phí đầu vào.
Kangnam Vina là trường hợp điển hình cho hình thức chuyển giá này. Tháng
5/2007, để chuẩn bị tài chính cho dự án tổ hợp, Keangnam Vina đã ký hợp đồng
vay vốn từ ngân hàng Kookmin Bank. Cho đến nay, công ty đã vay tổng cộng
400 triệu USD từ ngân hàng này và tổng số lãi vay, chi phí tài chính của việc
vay đã lên tới trên 2.000 tỷ đồng. Các chuyên gia Cục Thuế Hà Nội tính toán
rằng Keangnam Vina đã trả lãi suất trung bình khoảng 12% mỗi năm cho khoản
vay từ Kookmin Bank. Trong khi đó, lãi suất vay vốn bằng USD tại Việt Nam
trong thời gian gần đây chỉ dao động trong khoảng từ 5-7% mỗi năm. Bằng cách
này Keangnam Vina đã tiến hành một giao dịch liên kết để chuyển một phần lợi
nhuận về nước.
7
Phần II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ
CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng hoạt động chuyển giá tại Việt Nam
Theo số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến tháng
10/2014, các nhà đầu tư nước ngoài đến từ 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu
tư vào Việt Nam dưới 6 hình thức. Trong đó, hình thức đầu tư 100% vốn nước
ngoài chiếm ưu thế cả về số lượng dự án lẫn tổng vốn đầu tư đăng ký, vượt trội
hơn hẳn các hình thức đầu tư còn lại.
Cụ thể, lũy kế đến 10/2014, cả nước đã thu hút được 17.219 dự án có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký lên
tới trên 244 tỷ USD. Dẫn đầu là các dự án FDI đầu tư dưới hình thức 100% vốn
nước ngoài với 13.886 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 166,35 tỷ USD
(chiếm 81% tổng số dự án và 68% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước).

Cơ cấu vốn FDI tại Việt Nam phân theo hình thức đầu tư
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, tháng 10/2014
8
Hình thức liên doanh đứng thứ hai với 2.912 dự án và 59,8 tỷ USD vốn

đăng ký (chiếm 17% tổng số dư án và 25% tổng vốn đầu tư đăng ký). Tiếp theo
là 4 hình thức đầu tư còn lại, lần lượt theo thứ tự là: Hình thức Hợp đồng xây
dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao (BT) có 12 dự
án với 8,17 tỷ USD vn đầu tư đăng ký. Hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh
có 215 dự án với 5,13 tỷ USD. Hình thức Công ty cổ phần có 193 dự án với 4,5
tỷ USD. Cuối cùng là hình thức Công ty mẹ - con chỉ có duy nhất 1 dự án với
vốn đăng ký 98 triệu USD.
Tuy nhiên, thực tế có dấu hiệu chuyển giá của TNCs với các bên liên kết
nhằm tối hiểu hóa nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài kê khai thua lỗ kéo dài, trong khi vẫn duy trì sản xuất và
gia tăng đầu tư mở rộng thị trường tại Việt Nam. Theo kết quả báo cáo, tính đến
tháng 10/2014, cơ quan thuế đã tiến hành thanh tra, kiểm tra trên 39.000 doanh
nghiệp, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2013. Với tổng số thuế tăng thu qua
thanh tra, kiểm tra 7.440 tỷ đồng, tăng 13,4% so với cùng kỳ.
Cùng với đó, ngành thuế tập trung rà soát 1.938 DN có dấu hiệu chuyển
giá, truy thu 1.317,9 tỷ đồng, giảm lỗ 4.129,8 tỷ đồng, giảm khấu trừ hoàn thuế
82,8 tỷ đồng.
Trong năm 2015, trong tổng số DN mà Tổng cục Thuế kiểm tra sẽ tập
trung vào 15 - 20% doanh nghiệp kê khai lỗ và có dấu hiệu chuyển giá.
2. Một số trường hợp chuyển giá điển hình tại Việt Nam
Nhiều công ty FDI của Đài Loan đang kinh doanh trồng chè tại Lâm
Đồng, đã sử dụng việc chuyển giá thông qua hạ giá kê khai khi bán trà xuất khẩu
cho công ty mẹ nhằm tránh đóng thuế thu nhập doanh nghiệp cho Việt Nam.
Trong khi đó giá xuất khẩu thực tế lại cao hơn nhiều so với giá kê khai, đảm bảo
rằng những công ty này vẫn có lợi nhuận lớn và tiếp tục mở rộng kinh doanh tại
Việt Nam.
9
Công ty Trà Đài Loan có 100% vốn đầu tư từ Đài Loan xuất khẩu trà ô
long cho công ty mẹ ở Đài Loan đã hạ giá xuất khẩu, chuyển lợi nhuận về công
ty mẹ ở Đài Loan.

Đơn vị tính:VND
Công ty Trà Đài Loan Bán đúng giá Chuyển giá
Giá bán 2.000.000 80.000
Khối lượng 1000 1000
Doanh thu 2.000.000.000 80.000.000
Chi phí SX 100.000.000 100.000.000
Thuế suất (tại VN) 25% 25%
Số thuế phải nộp 475.000.000 0
Số thuế thất thu 475.000.000
Công ty mẹ Mua đúng giá Chuyển giá
Giá mua 2.000.000 80.000
Khối lượng 1000 1000
Chi phí 2.000.000.000 80.000.000
10
Thuế suất (tại Đài Loan) 17% 17%
Số thuế đầu vào được khấu trừ 340.000.000 13.600.000
Tổng số thuế (CT mẹ &
CT con)
135.000.000 (13.600.000)
Một trường hợp khác là Metro Việt Nam. Có mặt từ năm 2002, tới nay,
Metro đã có 12 năm hoạt động kinh doanh siêu thị tại thị trường Việt Nam. Kỳ
lạ là trong 12 năm qua, chỉ duy nhất năm 2010, Metro Việt Nam báo lãi 116 tỷ
đồng, còn lại đều lỗ lớn.
Tuy nhiên, do lỗ liên tiếp trong nhiều năm, tính lũy kế, Metro cũng không
phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp ngay cả trong năm 2010 lãi lớn. Doanh
nghiệp này mới chỉ nộp thuế giá trị gia tăng, môn bài, tiền thuê đất, thuế nhà
thầu. Lỗ như vậy nhưng Metro lại mở rộng không ngừng quy mô hoạt động. Từ
số vốn đầu tư ban đầu là 78 triệu USD, tới nay, Metro Việt Nam đã có 24 trung
tâm tại 14 tỉnh thành. Tất cả 24 siêu thị Metro trong cả nước đều tọa lạc ở vị trí
đẹp. Doanh thu cũng tăng vọt lên 14.700 tỷ đồng.

Chính sự không đồng nhất giữa quy mô và thu nhập đã khiến Metro Việt
Nam dính nghi án chuyển giá như rất nhiều công ty có vốn FDI ở Việt Nam.
Đặc biệt là dù lỗ liên tiếp nhưng Metro Việt Nam còn được "sang tay" cho ông
chủ tỷ phú người Thái Lan với giá 870 triệu đồng - gấp 11 lần số vốn đầu tư ban
đầu. Số lợi nhuận khổng lồ này chẳng bao lâu nữa sẽ được tập đoàn mẹ ở Đức
thu về trong khi Việt Nam không thu được thuế thu nhập trong hoạt động kinh
doanh cũng như sẽ rất khó thu được thuế chuyển nhượng
Metro Việt Nam hiện được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp 50% trong 2
năm kể từ khi có lãi (nếu không có lãi, doanh nghiệp này sẽ không phải đóng
thuế thu nhập doanh nghiệp). Rất nhiều các ưu đãi từ chính sách khác Metro
11
được hưởng là do kinh doanh bán sỉ chứ không phải bán lẻ nhưng từ nhiều năm
qua, Metro luôn bị tố cáo là lách luật để bán lẻ. Cụ thể, gian hàng bán lẻ các loại
gạo, ngũ cốc xuất hiện tại tất cả các siêu thị Metro, bày bán với đơn vị nhỏ nhất.
Metro là tập đoàn đa quốc gia, vận hành theo mô hình chuỗi siêu thị bán
buôn, với nguyên tắc là phải phủ rộng và phủ nhanh để giành được những lợi thế
về mặt bằng, đất đai, gia tăng thị phần. Vì vậy, nhà đầu tư nước ngoài này phải
mở rộng đầu tư kinh doanh và vận hành hoạt động. Cơ quan chức năng đã kiểm
tra kết quả kinh doanh từng điểm bán thì họ lãi, song do vốn đầu tư từng nơi khá
lớn nên làm doanh nghiệp thua lỗ. Metro Việt Nam nằm trong nghi vấn kê khai
tăng chi phí liên quan đến quản lý, sản xuất làm giảm tối đa lợi nhuận.
Lỗ lũy kế của Metro lên tới gần 600 tỷ đồng nhưng doanh nghiệp này vẫn
mở rộng kinh doanh, mở rộng đến 24 trung tâm phân phối trên cả nước. Metro
đã chuyển giá “trốn lãi”, giảm lãi hoặc không có lãi thu lãi riêng cho doanh
nghiệp, không đóng góp cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, chính phủ Việt
Nam không tổ chức điều tra sớm. Hiện nay Metro đã vào nước ta hơn chục năm,
và giờ họ tìm cách chuyển nhượng cho tỷ phú người Thái để rút khỏi thị trường
Việt Nam và tránh bị điều tra, truy thu thuế.
Hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập, chưa đủ cơ sở pháp lý
cho việc xác định các hành vi chuyển giá và chế tài áp dụng còn yếu và thiếu.

Mặt khác, hệ thống pháp luật hiện hành còn có quá nhiều khe hở, chưa đồng bộ,
từ đó tạo điều kiện cho hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp nước ngoài dễ
dàng được thực hiện.
Đối với chính phủ Việt Nam, hoạt động chuyển giá tác động tiêu cực đến
nền kinh tế vĩ mô như gây thất thu ngân sách nhà nước, tạo ra sự bất bình đẳng
giữa doanh nghiệp chấp hành tốt nghĩa vụ về thuế và doanh nghiệp không chấp
hành tốt nghĩa vụ về thuế, gia tăng giá trị nhập khẩu và gia tăng giá trị nhập siêu
gây mất cân bằng giữa cán cân thương mại và cán cân thanh toán, từ đó gia tăng
áp lực giảm giá đối với đồng tiền nội.
Thất thu thuế, ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
cùng ngành.
12
Khi chính phủ không biết kiểm soát sẽ có nhiều thiệt thòi về mặt thu ngân
sách. Ngoài ra, nếu khai mua máy móc hiện đại nhưng khi vào không kiểm soát
được chất lượng máy, công nghệ chủ yếu là công nghệ lạc hậu, Việt Nam sẽ trở
thành đống rác thải công nghệ.
Tận thu thuế của người lao động và các doanh nghiệp trong nước trong
khi thất thoát khi không thu được nguồn thuế lớn từ các doanh nghiệp nước
ngoài.
Quyền hạn của cơ quan Thuế còn bị giới hạn, do đó khó khăn trong quá
trình xử lý các vụ việc cố tình vi phạm chuyển giá nhằm tối thiểu hoá nghĩa vụ
thuế. Chưa có quy định chế tài xử lý đủ mạnh đảm bảo tính răn đe đối với những
doanh nghiệp có hành vi chuyển giá
Đối với người tiêu dùng, chuyển giá khiến người tiêu dùng bị thiệt hại khi
giá cả sản phẩm được tính toán trên cơ sở không rõ ràng, khoa học, hợp lý, sản
phẩm đến tay người tiêu dùng với mức giá đắt hơn.
13
Phần III: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ HOẠT ĐỘNG
CHUYỂN GIÁ TẠI VIỆT NAM
1. Kinh nghiệm hạn chế chuyển giá của một số quốc gia

Ngày nay cùng với sự phát triển ngày một lớn mạnh của các công ty đa
quốc gia hoạt động chuyển giá đã trở thành một thủ thuật tinh vi và phức tạp
không thể thiếu của các công ty này nhằm nhiều mục đích khác nhau. Hành vi
chuyển giá của TNCs thường mang lại những tác động xấu cho nước tiếp nhận
đầu tư. Vì vậy các quốc gia luôn tiến hành nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm
của các nước khác để chống các thủ thuật chuyển giá này.
1.1 Kinh nghiệm chống chuyển giá tại Mỹ
Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế phát triển, và cũng là quốc gia dẫn đầu
về kinh nghiệm trong vấn đề quản lý nền kinh tế. Thế nhưng Mỹ cũng đã gặp
không ít những khó khăn trong vấn đề chống chuyển giá. Pháp luật của Mỹ quy
định là phần thu nhập được tạo ra trên lãnh thổ của Mỹ thì phải nộp thuế thu
nhập cho dù là Công ty đa quốc gia này có thuộc quyền sở hữu của Mỹ hay
không. Các công ty này không được né tránh nộp thuế thu nhập cho phần thu
nhập phát sinh trên đất Mỹ bằng cách chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thông qua
hành vi chuyển giá hay chuyển dịch hoạt động sản xuất kinh doanh hay đầu tư
vào các quốc gia có thuế suất cực thấp còn được gọi là “các thiên đường về
thuế”. Mặc dù luật pháp kinh tế Mỹ rất phát triển và hiện đại nhưng vẫn tỏ ra bất
lực trong việc cố gắng để đạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô được đưa ra.
Cơ quan thuế nội địa của Mỹ - IRS (Internal Revennue Service) đã khảo
sát và đưa ra được bằng chứng là các công ty đa quốc gia đang hoạt động trên
đất Mỹ mà không thuộc quyền sở hữu của Mỹ thì hầu hết nộp thuế ít hơn so với
các công ty nội địa. Các kẽ hở về luật pháp cũng được các công ty đa quốc gia
thuộc sở hữu của Mỹ lợi dụng để giảm khoản thuế phải nộp và dần tạo nên
xu hướng chuyển dịch đầu tư của các công ty Mỹ ra ngoài nước Mỹ. Trong thực
tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các TNC rất rộng lớn và phức tạp, các
nghiệp vụ mua bán diễn ra với khối lượng lớn và độ phức tạp cao, vì vậy mà tiếp
14
cận và phát hiện các nghiệp vụ nào có chứa đựng hành vi chuyển giá là rất khó.
Tương tự rất khó xác định lợi nhuận nào là tạo ra trên đất Mỹ và lợi nhuận nào
là tạo ra ngoài đất Mỹ một cách chính xác.

Mặc dù có nhiều cải cách nhưng hệ thống thuế của nước này “đầy những
lỗ hổng, giúp các công ty né tránh hợp lý tới mức hoàn hảo việc thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ thuế”. Tiêu biểu cho những lỗ hỏng đó là do đặc điểm là thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp của Mỹ (CIT) so với các quốc gia khác là rất cao
(40%) nên các TNC có xu hướng là chuyển lợi nhuận ra nước ngoài vì họ cho
rằng thuế suất tại Mỹ cao và chính phủ không xem xét hết các chi phí của họ.
Bên cạnh đó Mỹ cũng đánh thuế tương đối cao trên thu nhập từ thị trường nước
ngoài. Ví dụ một công ty Mỹ tại Hàn Quốc cũng phải nộp thuế tại Hàn Quốc,
nhưng nếu mang số lợi nhuận còn lại về nước, họ sẽ đối mặt mức thuế doanh
nghiệp 35% tại Mỹ. Các công ty Mỹ có thể trì hoãn việc nộp thuế bằng cách giữ
lợi nhuận ở nước ngoài, và trên thực tế đã có rất nhiều doanh nghiệp đã làm vậy.
Tới khi chuyển số lợi nhuận này về nước, các công ty này nhận tín dụng cho
phần thuế đã nộp ở nước ngoài. Trong trường hợp này, họ chỉ phải phải trả phần
thuế chênh lệch giữa thuế suất ở Hàn Quốc (27,5%) và thuế suất ở Mỹ (35%).
Trong khi ở nhiều nước khác trên thế giới không đánh thuế lên thu nhập
từ nước ngoài mà các công ty đa quốc gia của họ đã thu được. Lấy một công ty
đa quốc gia của Thụy Sỹ hoạt động tại Hàn Quốc làm ví dụ. Công ty này trả
27,5% thuế lợi nhuận doanh nghiệp tại Hàn Quốc và đưa về nước số lợi nhuận
còn lại mà không phải trả thêm đồng thuế nào tại Thụy Sỹ.
Một số ví dụ dẫn chứng các TNC đã tối thiểu hóa số thuế phải nộp:
- Vào năm 1987, Công ty IBM trình báo cáo tài chính hàng năm trước đại
hội cô đông thì hãng này cho rằng 1/3 lợi nhuận kiếm được trong năm là từ hoạt
động kinh doanh trên đất Mỹ. Tuy nhiên khi kê khai với cơ quan thuế thì IBM
đã kê khai rất nhiều chi phí R&D liên quan đến thị trường Mỹ vì vậy mà phần
lợi nhuận kiếm được trên thị trường Mỹ gần như bằng không và kết quả là IBM
tránh được nghĩa vụ nộp thuế cho chính phủ Mỹ mặt dù doanh thu thuần của
IBM vào năm 1987 là 25 tỷ USD.
15
- Một ví dụ khác là Tập đoàn Intel đã thắng một vụ kiện liên quan đến
thuế khi bị cáo buộc là đã che giấu hàng triệu USD lợi nhuận từ nguồn doanh

thu bán các vi mạch sản xuất tại Mỹ nhưng được khai báo với cơ quan thuế là
sản xuất tại Nhật Bản. Do bất cập trong hiệp ước thuế quan giữa Mỹ và Nhật
Bản mà cả hai quốc gia này bị thất thu thuế và tập đoàn Intel đã tránh được
khoảng thuế phải nộp.
- Một cách tránh thuế đánh vào lợi nhuận phổ biến là các công ty sẽ đầu
tư mở chi nhánh tại Puerto Rico. Sau đó các công ty này sẽ chuyển các tài sản có
giá trị như: bí quyết thương mại, bằng sáng chế và các hoạt động R&D đến
Puerto Rico. Các TNC sẽ khai báo phần lớn lợi nhuận kiếm được là tại Puerto
Rico và với thuế suất thấp tại đây thì các TNC sẽ tối thiểu được thuế phải nộp.
Theo một thông báo của cơ quan thuế của Mỹ thì trong vòng 7 năm các TNC đã
làm thiệt hại 95 tỷ USD cho ngân khố Mỹ.
Trước tình hình chuyển giá do các TNC thực hiện trên đất Mỹ thì cơ quan
thuế của Mỹ đã có ban hành các qui định, các đạo luật chống chuyển giá. Một
trong những đạo luật chống chuyển giá cơ bản và đầy đủ là IRS Sec 482. Đạo
luật này quy định nguyên tắc căn bản giá thị trường là cơ sở cho thực hiện định
giá chuyển giao giữa các TNC với nhau nhưng đồng thời cổ vũ cho việc
vận dụng phương pháp định giá chuyển giao trên cơ sở chiết tách lợi nhuận.
Năm 1993, căn cứ theo Omnibus Budget Reconciliation Act, Đạo luật chống
chuyển giá IRS Sec 6662 ra đời kèm theo một số thay đổi nhằm chặt chẽ hơn và
tăng cường hiệu quả chống chuyển giá. Trong Đạo luật 6662 có hai nguyên tắc
chế tài mới dành cho hành vi chuyển giá:
- Phạt chuyển giá trong giao dịch (Transactional Penalty): là loại hình chế
tài khi có chênh lệch đáng kể trong giá chuyển giao nếu so sánh với căn bản giá
thị trường theo Quy định IRS sec 482, mà hậu quả là số thu nhập chịu thuế
không phản ánh đúng thực tế của nghiệp vụ phát sinh. Mức phạt chuyển giá
20% dành cho trường hợp có sai sót đáng kể do chuyển giá khi chuyển giá
vượt quá mức 200% (hay ít hơn 50%) so với mức mà IRS sec 482 xác định
được.
16
- Phạt bổ sung (Net Adjustment Penalty): phạt bổ sung được áp dụng nếu

phần thu nhập chịu thuế sau khi tính lại theo IRS Sec 482 tăng vượt mức qui
định có thể cho trước. Ví dụ khoản phạt bổ sung 20% trên số thuế truy thu sẽ áp
dụng trong trường hợp phần thu nhập tăng thêm vượt quá mức thấp nhất trong
hai mức sau – 5 triệu USD hoặc 10% trên tổng số thuế phải nộp. Phạt bổ
sung 40% trên số thuế truy thu sẽ áp dụng trong trường hợp phần thu nhập tăng
thêm vượt quá mức thấp nhất trong hai mức sau – 20 triệu USD hoặc 20% trên
tổng số thuế phải nộp.
1.2 Kinh nghiệm chống chuyển giá tại Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia có nền kinh tế đang phát triển mạnh trong thời
gian gần đây, là một quốc gia thu hút nhiều nhất các nguồn vốn FDI trên thế
giới. Đây là một thị trường đầy tiềm năng về nguồn lực cũng như thị trường tiêu
thụ rộng lớn vì vậy mà các TNC đều muốn tham gia vào thị trường này. Thực tế
trong năm 2005, Trung Quốc đã thu hút được 52 tỷ USD từ nguồn vốm FDI và
có hơn 150.000 công ty FDI đang hoạt động tại quốc gia này. Các công ty FDI
sử dụng hơn 20 triệu lao động, chiếm khoản một nửa kim ngạch xuất nhập khẩu
nhưng hầu hết kết quả này là giao dịch nội bộ trong tập đoàn. Theo kết quả điều
tra của cơ quan thuế Trung Quốc thì thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh
thì các TNC đang thực hiện thủ thuật chuyển giá nhằm tránh nộp thuế thu nhập.
Các công ty này vẫn đang tiếp tục khai lỗ trong khi lại tăng cường mở rộng sản
xuất tại Trung quốc. Chính phủ Trung Quốc đang tiến hành những cuộc kiểm tra
hoạt động của các công ty FDI này đặc biệt là đối với hành vi chuyển giá. Tuy
nhiên Trung Quốc là một quốc gia cũng mới phát triển, chưa có kinh nghiệm
trong công tác chống chuyển giá và luật pháp cũng chưa bắt kịp với tình hình
kinh tế hiện tại và công tác kiểm tra chưa được chuẩn bị tốt. Vì vậy mà các
cuộc kiểm tra này mang tính chất thu thập kinh nghiệm và tỏ ra ngần ngại phải
đưa ra kết luận các TNC có thực hiện hành vi chuyển giá. Một nguyên nhân
khác là trong thời gian này Trung Quốc đang thu hút FDI và xem đây là một
nguồn lực lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong thời gian điều tra thì cơ quan
thuế của Trung quốc (China SAT) đã thanh tra và điều chỉnh gần 1600 trường
17

hợp chuyển giá trong năm 2004 (nguồn hội thảo về chống chuyển giá và cập
nhật tình hình thuế tại Nhật Bản và Việt Nam của Công ty kiểm toán Vaco
Deloitte). Các doanh nghiệp thường được chọn là đối tượng điều tra là các
doanh nghiệp khai lỗ trong 2 năm hoặc nhiều hơn 2 năm, các doanh nghiệp có tỷ
suất lợi nhuận thấp hơn so với các doanh nghiệp cùng ngành. Cơ quan
thuế Trung Quốc (China SAT) đã ban hành “Qui định về quản lý thuế đối với
các giao dịch giữa các bên liên kết, luật quản lý thuế số 59 vào tháng 4 năm
1998”. Các qui định chống chuyển giá của Trung Quốc cũng xây dựng dựa trên
cở sở hướng dẫn của OECD, tuy nhiên luật chống chuyển giá của Trung Quốc
có một số điểm khác cơ bản so với luật chống chuyển giá của Mỹ như sau:
- Nghĩa vụ nộp thuế ở Trung Quốc không được hợp nhất, nếu một tập
đoàn kinh tếcó các chi nhánh tại các tỉnh thành khác nhau của Trung Quốc sẽ
chịu thanh tra vềthuế chống chuyển giá nhiều lần.
- Một điểm khác nữa là, khi cơ quan thuế của tỉnh này chấp nhận một vấn
đề nào đó về thuế thì chưa chắc cơ quan thuế ở địa phương khác chấp nhận.
Điều này kháchoàn toàn nếu các tập đoàn kinh tế có nhiều chi nhánh tại Mỹ, các
vấn đề về thuế được cơ quan thuế tiểu bang chấp nhận thì xem như là được chấp
nhận tại các tiểu bang khác.
- Nếu bị xác định là có hành vi chuyển giá tại công ty, thì các điều chỉnh
về định giáchuyển giao do cơ quan thuế Trung Quốc đưa ra sẽ được áp đặt cho
tất cả các loạithuế có liên quan như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế GTGT,
thuế xuất nhậpkhẩu… Trong khi tại Mỹ chỉ áp đặt tính lại thuế thu nhập doanh
nghiệp mà thôi.
- Tại Mỹ, các chỉ số về mức nâng giá hợp lý do cơ quan thuế lập nên dựa
trên các nguồn thông tin đại chúng và mọi người đều biết. Nhưng tại Trung
Quốc thì cơ quan thuế Trung Quốc xây dựng các nguồn dữ liệu từ việc so sánh
bí mật. Luật thuế chống chuyển giá của Trung Quốc cần phải phối hợp hài hòa
giữa hai mục tiêu là quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các TNC đang
hoạt động tại Trung Quốc, nhưng đồng thời phải đảm bảo mục tiêu thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.

18
1.3 Kinh nghiệm từ các thành viên SGATAR: Tổ chức nghiên cứu và
quản lý thuế khu vực châu Á
Việc xác định hành vi chuyển giá luôn là thách thức lớn do phải xác định
được sự chênh lệch giá giao dịch nội bộ với giá thị trường trong các đơn vị liên
kết. Nhân sự kiên họp cấp chuyên viên lần thứ 11 của Tổ chức nghiên cứu và
quản lý Thuế khu vực châu Á, các nhà quản lý Việt Nam đã có dịp được học hỏi
kinh nghiệm từ phía các nước bạn.
• Hàn Quốc:
Cơ quan Thuế Hàn Quốc cho biết, theo luật pháp Hàn Quốc, các tổ chức,
cá nhân có các giao dịch quốc tế phải báo cáo giá chuyển nhượng khi nộp hồ sơ
kê khai thuế, tuy nhiên để đạt được sự chắc chắn trong phương pháp định giá
chuyển nhượng, các tổ chức cá nhân có thể áp dụng một thỏa thuận trước khi
xác định giá với cơ quan thuế. Và để sát thực của thông tin, cơ quan thuế cũng
có bộ phận thẩm định giá để kiểm tra tính xác thực của giá chuyển giao được kê
khai trong các báo cáo, trong đó, các thông tin của bộ phận thẩm định giá được
lấy từ kho cơ sở dữ liệu thương mại và sự phối hợp thông tin với các nước khác.
• Australia:
Từ năm 1992, ở tất cả các cấp trong bộ máy Cơ quan thuế Australia đã
thành lập bộ phận chống chuyển giá trên cơ sở các hiệp định song phương được
ký kết giữa Chính phủ Australia với các quốc gia khác trong đó có các quy định
về chuyển giá.Cơ quan thuế Australia áp dụng hệ thống quản lý rủi ro đối với
các tập đoàn và công ty đa quốc gia trên cơ sở khuyến khích tinh thần tự nguyện
trong việc kê khai giá chuyển nhượng và phân chia lợi nhuận giữa các bên. Khi
xảy ra mâu thuẫn hoặc thấy có dấu hiệu vi phạm, cơ quan thuế sẽ dựa trên biên
bản thoả thuận song phương giữa Australia với các nước và khung pháp luật
thuế để giải quyết các vướng mắc và xử lý vi phạm.
• Papua New Guinea:
Cơ quan thuế sẽ dựa trên hoạt động thực tế giữa các bên liên quan để phân
chia lợi nhuận. Cũng giống như Australia, Papua New Guinea cũng áp dụng

quản lý rủi ro trong quản lý giá, trong trường hợp có dấu hiệu vi phạm về
19
chuyển giá, cơ quan thuế sẽ gửi bản câu hỏi đến các đơn vị trong cùng tập đoàn
và tổ chức điều tra, đối chiếu với bản câu hỏi đó để phát hiện những bất và yêu
cầu các đơn vị giải trình. Trường hợp không giải trình được, cơ quan thuế sẽ áp
dụng các chế tài theo pháp luật để xử lý vi phạm.
• Nhật Bản:
Để hạn chế tối đa những rủi ro về chuyển nhượng giá, Nhật Bản đã ký các
hiệp định với các nước để phối hợp quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh của
công ty mẹ và công ty con. Cuộc khủng hoảng kinh tế thời gian vừa qua đã làm
khoản lỗ ở các công ty con cộng dồn về công ty mẹ ở Nhật Bản là rất lớn, do đó
để giảm thiểu tác động của khủng hoảng kinh tế, tránh hoạt động chuyển
giá, Tổng cục Thuế Nhật Bản đang tập trung lực lượng thực hiện việc thanh tra,
trong đó yêu cầu các đơn vị kinh doanh thu thập, kê khai các thông tin về giá
giao dịch và gửi về cho cơ quan thuế. Qua kiểm tra, nếu phát hiện doanh nghiệp
có dấu hiệu rủi ro, cơ quan thuế sẽ trực tiếp xuống kiểm tra, thanh tra.
2. Hàm ý chính sách và một số giải pháp chống chuyển giá ở Việt Nam
2.1 Hàm ý chính sách
Trên phương diện pháp lý, cần phân biệt giữa “chuyển giá hợp pháp” là
áp dụng các phương pháp chuyển giá theo nguyên tắc giá thị trường và “chuyển
giá phi pháp” là áp dụng các phương pháp chuyển giá theo nguyên tắc phi thị
trường. Theo đó, việc doanh nghiệp sử dụng quyền tự do định đoạt trong kinh
doanh để tận dụng tối đa các quy định của pháp luật, thỏa thuận một mức giá
chuyển giao hàng hoá, dịch vụ sao cho không vi phạm quy định của các nước có
liên quan thì hành vi đó không thể coi là phi pháp khi doanh nghiệp áp dụng các
phương pháp chuyển giá theo nguyên tắc giá thị trường.
Trong thời gian qua, Bộ Tài chính tích cực chỉ đạo các địa phương triển
khai quyết liệt chương trình thanh tra, kiểm tra để có một môi trường kinh doanh
lành mạnh, bình đẳng. Thực hiện Đề án về kiểm tra chống chuyển giá của Chính
phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã có kế hoạch từ việc đào tạo cán bộ, đến triển

khai thực hiện các biện pháp nghiệp vụ, phối hợp với các cơ quan trung ương và
20
địa phương, trong nước và nước ngoài, để tìm ra những doanh nghiệp, đối tượng
vi phạm để xử lý theo quy định của pháp luật.
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 201/2013/TT-BTC ngày 20-12-
2013 hướng dẫn việc áp dụng Thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá
tính thuế (APA) trong quản lý thuế. Trước đó, đã có Thông tư số 66/2010/TT-
BTC, Hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong giao dịch kinh
doanh giữa các bên có quan hệ liên kết, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan nhà
nước thực hiện việc thanh tra, kiểm tra và xã hội thực hiện việc giám sát đối với
hành vi kinh doanh của doanh nghiệp xem họ có chuyển giá hay không.
Các doanh nghiệp trong nước cũng đã thực hiện việc công khai thông tin
kinh tế. Luật Tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng, Luật Quản lý thuế và các luật
thuế đều có quy định về công khai thông tin thuế và bảo mật thông tin thuế.
Thông tư số 119/2014/TT-BTC Sửa đổi, bổ sung một số điều của 7 Thông tư đã
ban hành trước đó về cải cách, đơn giản thủ tục hành chính về thuế, của Bộ Tài
Chính ban hành ngày 25-8-2014, Thông tư số 151 hướng dẫn thi hành Nghị định
của Chính phủ sửa đổi 4 nghị định về thuế cũng nhấn mạnh quy định về doanh
nghiệp công khai thông tin thuế, công bố những doanh nghiệp rủi ro cao về thuế
để các doanh nghiệp là bạn hàng của họ giám sát và người nộp thuế như người
dân giám sát. Bộ Tài chính cho rằng hoạt động đó bảo đảm môi trường kinh
doanh minh bạch hơn.
Hiện tại Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đang hợp tác với Phái đoàn Liên
minh châu Âu tại Việt Nam (EU), OECD, Ngân hàng Thế giới (WB) để thực
hiện chương trình đào tạo nâng cao năng lực cho Tổ quản lý thuế đối với hoạt
động chuyển giá của Tổng cục Thuế vŕ cán bộ công chức tại các Cục thuế trực
tiếp tham gia quản lý giá chuyển nhượng. Xây dựng Hệ thống cơ sở dữ liệu tỉ
suất lợi nhuận của các doanh nghiệp độc lập theo từng ngành nghề có rủi ro cao
về giá chuyển nhượng làm cơ sở chung cho Cục thuế sử dụng và phân tích rủi ro
phục vụ công tác quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá.

2.2 Một số giải pháp chống chuyển giá tại Việt Nam
21
Để hạn chế các TNCs tại Việt Nam áp dụng các phương pháp chuyển giá
theo nguyên tắc phi thị trường trong các giao dịch liên kết với các bên liên quan
bên ngoài Việt Nam, trước hết cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, hành lang
pháp lý cần được hoàn thiện theo hướng quy định rõ các hình thức bị coi là
chuyển giá phi pháp, các tiêu thức định tính và định lượng để xác định hoạt
động chuyển giá; hình thành hệ thống thông tin đầy đủ, xây dựng hệ thống định
mức, các chỉ tiêu giám sát để tạo thuận lợi cho các TNCs tại Việt Nam áp dụng
các phương pháp chuyển giá theo nguyên tắc giá thị trường và các nguyên tắc
này phù hợp.
Cần tăng cường hợp tác quốc tế về quản lý thuế, đặc biệt là hợp tác về
chống chuyển giá; xây dựng cơ chế cung cấp, chia sẻ thông tin liên quan tới giá
cả các sản phẩm tiêu thụ trên thị trường thế giới và từng nước làm căn cứ để
quản lý và xử lý hoạt động chuyển giá. Mặt khác, cần tăng cường hoạt động
tuyên truyền về thuế, tổ chức hướng dẫn các TNCs tại Việt Nam xác định giá thị
trường đối với các giao dịch liên kết nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật
thuế. Bên cạnh đó, cần thành lập bộ phận chuyên trách thu thập thông tin, theo
dõi, giám sát hoạt động chuyển giá phi pháp để có chế tài xử lý kịp thời. Đặc
biệt, cần tăng cường năng lực của cán bộ thuế; tăng cường hoạt động nghiệp vụ,
đặc biệt là hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.
Do hiện tượng chuyển giá đã diễn ra tương đối phổ biến và ngày càng tinh
vi và khó phát hiện hơn, nên ngành Thuế cần chuẩn bị bổ sung lực lượng công
chức thuế có năng lực về chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ và tin học làm công
tác quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá tại tất cả các cấp; Tăng cường đào
tạo cho đội ngũ này về kỹ năng quản lý giá chuyển nhượng, kèm theo các bài tập
tình huống gắn với thực tế, mở các lớp đào tạo chuyên sâu, trang bị kiến thức về
kinh tế ngành, trau đồi kỹ năng tin học, ngoại ngữ; Tổ chức các hội nghị, hội
thảo để các cục thuế trao đổi kinh nghiệm trong công tác quản lý thuế đối với
hoạt động chuyển giá; Tổ chức khảo sát, học tập kinh nghiệm thanh tra, kiểm tra

giá chuyển nhượng tại các quốc gia đã gặt hái được nhiều thành công trong quản
lý thuế đối với hoạt động chuyển giá.
22
23
KẾT LUẬN
Đánh giá cao vai trò của các công ty xuyên quốc gia đầu tư trực tiếp vào
Việt Nam, tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì hoạt động chuyển giá đã gây
ra nhiều vấn đề bất cập cho chính phủ và người dân nước chủ nhà. Từ những lý
luận chung về hoạt động chuyển giá tại phần I, phần II nhóm tác giả tập trung
vào hoạt động chuyển giá đang diễn ra tại Việt Nam, những ảnh hưởng của nó
tới nguồn thu ngân sách của chính phủ, tới người tiêu dùng Việt Nam,…thông
qua những minh chứng điển hình các TNCs đang hoạt động trên thị trường Việt
Nam. Cuối cùng, rút ra từ bài học kinh nghiệm các quốc gia và tổ chức trên thế
giới về hạn chế chuyển giá, phần III gợi ý một số chính sách giúp Việt Nam giải
quyết vấn đề này.
Do những hạn chế về kiến thức và thiếu kinh nghiệm thực tế nên bài viết
không tránh khỏi những sai sót, chúng em rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung
của cô giáo để bài viết được hoàn thiện hơn./.
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Phùng Xuân Nhạ (2006), Các công ty xuyên quốc gia, lý
thuyết và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Kỷ yếu hội nghị 25 năm đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam
3. Cục Đầu tư nước ngoài (2014), Báo cáo tình hình hoạt động FDI tại
Việt Nam giai đoạn 2000 - 2014
4. Nguyễn Thị Kim Anh (2013), “Chuyển giá và chống chuyển giá của
các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số
4(419), tháng 4/2013
5. Huỳnh Thiên Phú (2009), “Chuyển giá của các công ty đa quốc gia

trong giai đoạn hội hập kinh tế quốc tế”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh
tế TP. Hồ Chí Minh, 2009
6. Nguyễn Thị Quỳnh Giang (2010), “Chuyển giá trong các công ty đa
quốc gia ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh, 2010
7. Thanh Hà, 2014, Đang thanh tra chuyển giá tại Metro Việt Nam,
< />20141010141708163.htm>
8. Ngọc Hà, 2014, Nhiều dấu hỏi xung quanh thương vụ chuyển nhượng của
Metro, < />chuyen-nhuong-cua-metro-350516.vov>
9. Ngọc Thúy, 2014, Thu hút vốn FDI năm 2014 và những cam kết cải thiện môi
trường đầu tư, < />FDI-nam-2014-va-nhung-cam-ket-cai-thien-moi-truong-dau-tu/52471.tctc>
25

×