Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Các dạng đề văn ôn thi Đại học bài VỢ NHẶT của Kim Lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.08 KB, 22 trang )

VỢ NHẶT
Đề 1: Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt”
của Kim Lân.
I. Mở bài :
- Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám.
- Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi
Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong
tập truyện “Con chó xấu xí”. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành
công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước
ta.
- Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của
nhân vật người vợ nhặt : nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng
sống mãnh liệt .Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không
một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.
II. Thân bài :
- Trước hết, về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là
một con số không tròn trĩnh : không tên tuổi, không quê hương, không
gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi
bằng “thị”- một cách gọi phiếm định giành cho chị và tất cả những người phụ
nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị.
- Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là
những nét không mấy dễ nhìn : đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao,
ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa.
- Về tính cách :
+Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng
lỏn, táo bạo và liều lĩnh : Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe
bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng.Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập
chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã
vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi
gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang


miệng và khen ngon…
 Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì
đói.Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của
con người.Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm
thôngcho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động.
+ Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình
là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang .Điều đó được thể
hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời
chạng vạng ( thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón
rén, e thẹn” , ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia” )

thật
tội nghiệp cho cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà : một cảnh đưa dâu không
xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của
những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết
tang thương…
+ Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà
khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén
cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo.
+ Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về
thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá
kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng
thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
III. Kết bài :
Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, tên gọi, người
thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của
Tràng và mẹ Tràng.
Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại lên được sự ấm áp
về cuộc sống gia đình.Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi
mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết

Bài làm 2
Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình
ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có
tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong
số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị
lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ
qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này
phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành
một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ?
1.Lai lịch, ngoại hình:
- Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có
nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là
cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con
dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ,
cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ
nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi
ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không
tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.
- Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng
trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc),
nhưng gặp lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần
rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn
thấy hai con mắt. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị là phải.
2.Tính cách:
- Khi mới gặp Tràng:
+Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu
xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà
đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton
chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị
đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế

mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy
có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà
xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện
trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở.
+Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu
đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản
năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được… ăn!
- Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:
+Trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt
có một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt
thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái
thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón
rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người
khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ,
thị đang về nàh chồng (ai mà chẳng e thẹn!). Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân
phận mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể
cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng.
+Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản
thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ
trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa ta y
lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến
người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng ngiụ, chân nọ diíucả vào chân kia.
Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong
miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để
tránh sự dòm ngó của mọi người.
+Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của
nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén
tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục ngồi, nhưng
thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy
chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn

đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của
thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ
chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp
nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.
+Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ , thị
thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm
như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay
khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao
chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là
người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình
và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người
đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người
ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói.
Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp
làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia
đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa
cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy
một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng
chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố
tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn.
Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất
nhân bản như thế!
Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng
qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia
đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người
phụ nữ Việt Nam.
3.Số phận:
- Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945:
nghèo đói, bị rẻ rúng.
- Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm

gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm
chất tốt đẹp đã sống lại.
4.Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không
tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của
thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức
tỉ mỉ).
- Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để
người đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón
che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo không về
nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn
nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con
mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số phận khi
đến bước đường cùng… Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói
được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người.
5.Kết luận:
- Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy
con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát.
Thế nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự
sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con
người đã sống dậy.
- Ba nhân vật chính trong Vợ nhặt đã được nhà văn xây dựng theo cách thức
khác nhau. Chính sự khác nhau đó đã góp phần tạo nên giá trị đọc đáo của tác
phẩm. Ba nhân vật trở thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và
cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả.
Đề 2: Nêu tình huống truyện trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ,
từ đó nhận xét về thái độ của nhà văn với con người và thực trạng xã
hội đương thời.
I.Mở bài :
Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại

ViệtNam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu
biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công
là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. ây là tác
phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp
về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta.Trong tác phẩm , Kim Lân đã xây
dựng được một tình huống truyện độc đáo vừa thể hiện được giá trị tư
tưởng , lại vừa thể hiện được giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
II.Thân bài :
1/ Thế nào là tình huống? vai trò của tình huống trong một tác phẩm
truyện?
- Có thể hiểu, tình huống truyện chính là bối cảnh, hòan cảnh ( không
gian, thời gian, địa điểm…tạo nên câu chuyện).
- Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn : tình huống hành
động; tình huống tâm trạng; tình huống nhận thức.Nếu tình huống hành động
chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặt của nhân vật; tình huống tâm
trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật; thì tình
huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lý của nhân
vật. Tình huống càng độc đáo, mới lạ, càng giúp cho tác phẩm hấp dẫn, ấn
tượng, sâu sắc với người đọc.
- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tổ chức xung quanh một
“tình huống nhận thức mà hai nhân vật Phùng và Đẩu đã trải qua”.
2. Tình huống truyện của tác phẩm:
Trước hết, Tràng là một là một người mồ côi cha, ở với mẹ già tại xóm
ngụ cư. Nhà nghèo, hắn làm nghề kéo xe bò thuê .Tràng có một ngoại
hình xấu xí , thô kệch. .Đã thế lại có phần dở người.Lời ăn tiếng nói cũng thô
kệch như chính ngoại hình của hắn.Có thể nói, nguy cơ ế vợ đã rõ. Đã vậy ,
gặp năm đói khủng khiếp, cái chết luôn luôn đeo bám .Trong lúc không một
ai ( kể cả Tràng) nghĩ đến chuyện dựng vợ , gả chồng thì đột nhiên Tràng có
vợ, mà lại có vợ bằng cách nhặt được.Trong hoàn cảnh ấy, ràng có vợ cũng
là phải có thêm một miệng ăn và cũng là đem thêm tai hoạ về cho mình và

mẹ , đẩy mau mình và mẹ đến cái chết. Như vậy , việc Tràng có vợ là một
nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt.Chính điều này đã làm
cho nhiều người ngạc nhiên :
Đó là những người dân trong xóm ngụ cư : họ ngạc nhiên, bàn tán, phán
đoán rồi họ cùng nghĩ : “ biết có nuôi nổi nhau qua được cái thì này
không?”Còn bà cụ Tứ - mẹ Tràng- lại càng ngạc nhiên . Lúc đầu bà lão
không hiểu , rồi bà “ cúi đầu im lặng” với bao tâm sự vui- buồn lẫn lộn “ biết
chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Nhất là,
ngay chính bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình. “
nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ” .Thậm chí ,
sáng hôm sau Tràng cảm thấy “ êm ái như từ giấc mơ đi ra”.
Tóm lại, tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vùa bất ngờ nhưng lại
hợp lý, tạo sức hấp dẫn và nhiều suy nghĩ cho người đọc.
2.Thái độ của nhà văn:
- Với người dân lao động:
Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với
con người nghèo khổ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình.Ông xót
thương cho dân tộc trước thảm hoạ đói chết.Ông cũng ái ngại cho người
con gái bị nạn đói cướp đi gần hết ( gia đình, nhan sắc, tính cách, tên tuổi
…).
Không những vậy , nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng
hạnh và niềm vui khi nhặt vợ của Tràng;cái duyên thầm của thị qua cái
liếc mắt với Tràng…Có thể nói nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp
nhân tính của con người lao động nghèo trước thảm hoạ đau thương , chết
chóc.
Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân
dân lao động qua hình ảnh của bà cụ Tứ : một người mẹ giàu tình thương
con, giàu lòng nhân hậu và niềm tin vào cuộc sống  đây cũng chính là
niềm tin của nhà văn vào phẩm chất tốt đẹp của con người.
- Với thực trạng xã hội đương thời, thông qua tình huống truyện, nhà văn

lên án và tố cáo tội ác của Nhật –Pháp đã đẩy nhân dân ta vào thảm hoạ đói
nghèo, chết chóc.Chính chúng đã làm cho giá trị con người trở thành rẻ rúng
như rơm như rác : vợ mà nhặt được .
III. Kết bài :
Có thể nói: Tình huống truyện trong truyện ngắn “Vợ nhặt” thật độc
đáo và có ý nghĩa tư tưởng và giá trị nghệ thuật sâu sắc.
Viết về nạn đói, nhưng Kim Lân không dừng lại ở việc miêu tả bức
tranh ảm đạm ấy , mà còn hướng người đọc nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của
người lao động nghèo : đó là lòng nhân hậu, sự cưu mang và niềm tin vào
tương lai của họ.
Đề 3: Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim
Lân.
1. Mở bài :
Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm
tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành
công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. ây
là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng
khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta.Trên cái nền tăm tối và đau
thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật Tràng: nghèo
đói,bất hạnh nhưng giàu tình người và khát vọng hạnh phúc.Điều đó
được thể hiện qua chính câu chuyện nhặt vợ của anh giữa ngày đói.
2. Thân bài :
Thật vậy, xuất hiện trong tác phẩm, Tràng vốn là một gã trai nghèo, sống
ở xóm ngụ cư, có mốt mẹ già và làm nghề đẩy xe bò mướn. Đã vậy, Tràng lại
có một ngoại hình xấu xí, thô kệch với “ cái đầu trọc nhẵn”; “cái lưng to
rộng như lưng gấu”; “ hai con mắt gà gà, nhỏ tí” lúc nào cũng đắm vào
bóng chiều của hoàng hôn.Thêm vào đó, tính tình của Tràng lại có phần “dở
hơi” nhưng tốt bụng, hay vui đùa với trẻ con trong xóm. Có thể nói, Tràng
có một cảnh ngộ thật bất hạnh và tội nghiệp.

Vậy mà, con người có thân phận thấp hèn ấy bỗng nhiên lại trở thành một
chú rể có thể coi là hạnh phúc : Tràng bỗng dưng có vợ.
Tràng có vợ bằng cách “nhặt” được chỉ qua hai lần gặp gỡ, vài câu nói đùa
và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói .Qủa thật, chuyện lấy vợ của Tràng là một
lạ mà thú vị - đùa mà thật , thật mà cứ như đùa.
Lúc đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới đồng ý theo không Tràng
về làm vợ, Tràng không phải không biết “chợn”: “Thóc gạo này đến cái
thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không , lại còn đèo bòng”. Nhưng
rồianh ta chặc lưỡi “Chậc,kệ!”.Có vẻ như một quyết định không nghiêm túc
như phóng lao phải theo lao vậy.Việc hai người đến với nhau bề ngoài có vẻ
ngẫu nhiên nhưng bên trong lại là tất nhiên : Người đàn bà cần Tràng để có
một chỗ dựa qua thì đói kém, còn Tràng cũng cần người phụ nữ nghèo
ấy để có vợ và để biết đến hạnh phúc.
Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng thật sự vui và hạnh phúc : “ Trong
một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày,
quên cả đói khát đang đe doạ…Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa
với người đàn bà đi bên.Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người
đàn ông ấy…”Có thể nói , trong tác phẩm, có tới hơn hai mươi lần nhà văn
nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng khi đã có vợ bằng các từ
ngữ rất gợi tả và gợi cảm : mặt phớn phở, mắt sáng lên lấp lánh, miệng cười
tủm tỉm…
Chỉ sau một đêm “nên vợ nên chồng”. Tràng thấy mình đổi khác
“ trong người êm ái , lửng lơ như người từ giấc mơ đi ra.Việc hắn có vợ
đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như không phải”.Tràng “ bỗng nhiên thấy
thương yêu và gắn bó với căn nhà”; “Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng
vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như tổ ấm che mưa che nắng…Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người, thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau
này…”
Niềm vui của Tràng thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn ước mơ .
“Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu

sửa lại căn nhà”.So với cái dáng “ngật ngưỡng” của Tràng ở đầu tác phẩm,
hành động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước
ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng : từ đau khổ sang hạnh
phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức.Tràng đã thật sự
“phục sinh tâm hồn”- đó chính là giá trị lớn lao của hạnh phúc.Có một
hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối tác phẩm, trong suy nghĩ
của Tràng “ cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê
Sộp.Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”.Đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và
lá cờ Việt Minh.Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ về một tương lai
hướng về Đảng về cách mạng của tràng và những người như Tràng.
3. Kết bài:
Tóm lại, Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình
huống nhặt vợ hết sức đặc biệt.Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có
vai trò lớn trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm : Những
người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà luôn nghĩ đến sự sống.
Cũng qua Tràng và câu chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn giúp người đọc
cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhựng người dân lao động
nghèo : đó là vẻ đẹp tình người và niềm tin tưởng vào tương lai.
Qua nhân vật Tràng, Kim Lân đã bộc lộ được khả năng miêu tả tâm lý
nhân vật và ngòi bút nhân đạo sâu sắc của nhà văn.
Đề 4: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn
“Vợ nhặt” của Kim Lân.
I.Mở bài :
Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại
ViệtNam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu
biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công
là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. ây là tác
phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp
về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta. Trên cái nền tăm tối và đau thương
ấy, nhà văn đã viết rất hay về tâm trạng của bà cụ Tứ - một người mẹ già,

nghèo khổ nhưng giàu tình thương con và giàu lòng nhân hậu.
II. Thân bài :
1.Khái quát về cuộc đời của bà cụ :
Trước hết, xuất hiện trong tác phẩm, bà cụ Tứ hiện lên là một người
đàn bà nông dân, hồn hậu và có một cuộc đời thật nhiều thương
cảm : nhà nghèo, goá bụa, sống gian khổ, thầm lặng.
2.Bối cảnh – tình huống và diễn biến tâm trạng của bà cụ:
Bà cụ Tứ lần đầu tiên xuất hiện trong thiên truyện là lúc bóng hoàng hôn tê
tái phủ xuống xóm Ngụ cư giữa ngày đói. Cùng lúc đó, người con trai đáng
thương của bà làm nghề đẩy kéo xe trên huyện, đưa một người đàn bà lạ về
nhà.
+ Khởi đầu , bà ngỡ ngàng - ngỡ ngàng trước việc có một người phụ nữ lạ
xuất hiện trong nhà mình. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ được nhà văn
diễn tả bằng hàng loạt những câu nghi vấn : “Quái sao lại có người đàn
bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng
con trai mình thế kia? Sao lại chào mình mình bằng u? ”Thái độ ngạc nhiên
của người mẹ, phải chăng cũng là nỗi đau của nhà văn trước một sự
thật : chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự
nhạy cảm vốn có trước hạnh phúc của con .
+ Sau khi hiểu ra là con trai đã có vợ, bà lão không nói gì mà chỉ “cúi đầu
im lặng”- một sự im lặng chứa đầy nội tâm : đó là niềm xót xa, buồn vui, lo
lắng, thương yêu lẫn lộn . Bà mẹ đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh
nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu
sắc trước hoàn cảnh.
+ Bằng lòng nhân hậu thật bao dung của người mẹ, bà nghĩ :“Biết rằng
chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không?”.Trong chữ
“chúng nó” , người mẹ đã đi từ lòng thương con trai để ngầm chấp nhận
người đàn bà lạ làm con dâu của mình.
+ Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo , tạo thành một trạng thái tâm lý
triền miên day dứt : bà nghĩ đến bổn phận chưa tròn , nghĩ đến ông lão, đến

con gái út, nghĩ đến nỗi khổ của đời mình, nghĩ đến tương lai của con …để
cuối cùng dồn tụ bao lo lắng – yêu thương trong một câu nói giản dị :
“ Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”.
+ Đặc biệt là sau một ngày con trai có vợ , người mẹ giàu lòng thương
con ấy thật sự vui và hạnh phúc trước hạnh phúc của con : bà cùng con
dâu dọn dẹp, thu vén căn nhà ; trong bữa cơm ngày đói, bà toàn nói chuyện
vui để xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống
cho con :“ Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà …”.
+ Thật cảm động, khi Kim Lân để cái ánh sáng kỳ diệu của tình mẫu tử
toả ra từ nồi cháo cám : “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”.Chữ ‘ ngon” này
không phải là xúc cảm về vật chất ( xúc cảm về vị cháo cám) mà là xúc cảm
về tinh thần : ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát
của cháo cám thành ngọt ngào . Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân
muốn chứng minh cho cái chất NGƯỜI của người dân lao động : trong bất
kỳ hoàn cảnh nào , tình nghĩa và hy vọng của con người vẫn không thể bị
tiêu diệt – con người vẫn muốn sống cho ra sống.Chính chất NGƯỜI đã
thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hy vọng.
+ Tuy nhiên niềm vui của bà cụ Tứ trong hoàn cảnh ấy vẫn là niềm vui
tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám “đắng chát và
nghẹn bứ”.
III/ Kết bài :
Có thể nói, nhân vật bà cụ Tứ là một nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp
tình người và lòng nhân ái mà Kim Lân đã gửi gắm trong tác phẩm “ Vợ
nhặt”.Thànhcông của nhà văn là đã thầu hiểu và phân tích được những
trạng thái tâm lý khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt
.Vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ.
=>“Vợ nhặt” là ca về tình người của những người nghèo khổ, đã biết
sống cho ra người ngay giữa thời túng đói quay quắt .
Bài làm 2:
Trước và sau Cách mạng tháng Tám, dù viết không nhiều nhưng giai đoạn

nào Kim Lân cũng có tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng,
ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn
của một nhà văn chân chất vốn là đứa con của đồng ruộng. Trong bối cảnh
của nạn đói năm 1945, Kim Lân viết truyện ngắn Vợ nhặt. Tác phẩm là một
đóng góp xuất sắc cho nền văn xuôi dân tộc. Với một cốt truyện đơn giản
nhưng tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Vợ nhặt đề cập đến một vấn đề
lớn có tính hiện thực và nhân đạo sâu sắc; những con người Việt Nam lương
thiện, trong tai họa đói kém khủng khiếp do thực dân, phát xít gây ra, đã cưu
mang đùm bọc nhau và hi vọng, trông chờ vào sức mạnh giải phóng của cách
mạng. Ấn tượng sâu đậm của người đọc với tác phẩm có lẽ là tấm lòng đáng
quý của mẹ con Tràng và cũng là tâm lòng thật đáng quý của nhà văn đối với
những người lao động nghèo khổ.
Anh Tràng có vợ trong một hoàn cảnh không bình thường. Không phải anh
Tràng cưới vợ, cũng không phải là lấy vợ theo nghĩa thông thường mà là
"nhặt vợ”, nói như người miền Trung và miền Nam là “lượm vợ" ở ngoài
đường. Nhưng việc làm đó lại có ý nghĩa nhân ái của một lấm lòng nhân hậu.
Thấy người đàn bà đói quá anh sẵn sàng cho ăn dù chẳng dư dật gì. Thấy
người đàn bà quyết tâm theo mình, dù cũng sợ cho tương lai, anh vẫn không
nỡ nào từ chối. Tràng dắt vợ về nhà trong một tâm trạng vừa lo lắng bâng
quơ và sung sướng một cách mới mẻ, lạ lẫm
Nhân vật thứ hai của câu truyện, bà cụ Tứ, mẹ Tràng không được tác giả nói
đến nhiều nhưng qua những nét đặc tả và tâm lý tính cách rất chân thật sinh
động, nhân vật đã tạo được một sự cảm thông sâu sắc với người đọc. Cũng
như Tràng, người mẹ khốn khổ, già yếu sống trong một xóm ngụ cư vất
vưởng ấy một người đàn bà nhân hậu.
Vừa về đến nhà, thấy một người đàn lạ, bà cụ Tứ “đứng sững lại” hết sức
ngạc nhiên, “thế là thế nào". Bà không thể tin rằng con mình lấy vợ trong
hoàn cảnh này. Nhưng khi hiểu ra cớ sự, “bà lão cúi đầu nín lặng”, bà hờn tủi
xót thương cho số kiếp của đứa con mình và cho thân phận của mình. "Chúng
nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?". Rồi bà cảm

thấy khổ tâm, nghèo quá lấy gì để ra mắt bạn bè lối xóm. “Kể có ra làm được
dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà quá nghèo, cũng chả ai người ta chấp
nhặt chi cái úc này chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá". Và nỗi khổ
tâm đau xót ấy cô đọng lại, biến thành những “dòng nước mắt chảy xuống
ròng ròng” thật tội nghiệp. Trong truyện ngắn Một đám cưới của Nam Cao
cảnh đời đã khổ (phải rước dâu vào ban đêm để mọi người khỏi thấy cô dâu
rách rưới, nhờ có đám cưới con, cha mẹ mới được một bữa ăn no), ở chuyện
này, cái khổ nhiều hơn gấp bội. Bữa ăn đầu tiên của gia đình thay cho đám
cưới là một bữa “chè cám”.
Đem một người đàn bà xa lạ về làm vợ trong một hoàn cảnh như vậy, mẹ
nghĩ thế nào? Tràng lo lắm chứ. Khi biết mẹ đồng ý trước một sự việc đã rồi
"Tràng thở phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi". Bởi người mẹ ấy có quyền không
đồng tình, có quyền trách mắng Tràng. Nhưng vì thương con bà cụ cũng
thương dâu. Bà hiểu ra rằng dù sao người ta chịu lấy con mình cũng là điều
đáng quý. Với những người già cả, trong môi trường xã hội phong kiến khắt
khe, không phải ai cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Bà “nghĩ đến cuộc đời cơ
cực khổ dài dằng dặc của mình" rồi nhìn đứa con dâu cũng cực khổ như mình
“lòng đầy thươg xót". Trong không khí ngại ngùng, lúng túng của mọi người,
bà đã có thái độ tế nhị, quan tâm đầy nhân hậu.
Bà nói đỡ cho cô dâu còn xấu hổ: “Con ngồi xuống đáy, ngồi xuống đây cho
đỡ mỗi chân". Bà lưu tâm ý tứ đến tình cảm riêng tư của con: “Hôm nào nghĩ
ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ”.
Tấm lòng của người mẹ ấy thật đáng quý. Không lo nổi vợ cho con, nay nó
có vợ thì bà cũng mừng và thấy phải có trách nhiệm với nó. Bà cố nén nỗi
buồn, nỗi lo, động viên con tin ở sự sống và tương lai bằng việc làm chăm
sóc của mình. Bà cùng cô dâu mới sửa sang dọn dẹp lại nhà cửa, động viên
nhau bằng những chuyện vui, chuyện tương lai sáng sủa: Khi nào có tiền mua
lấy đôi gà…này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà
xem”. Trước cái hạnh phúc nhỏ bé của con, cuộc sống của bà mẹ dường như
cũng được đổi khác, bà “cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thương, cái mặt

bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Từ thái độ bao dung ấy, hạnh phúc
đơn sơ nhưng tấm lòng đã đến với mọi người. Nhân vật bà cụ Tứ đã mang
được một ý nghĩa khái quát lớn: ở thời đại nào, hoàn cảnh nào tâm trạng của
những bà mẹ nghèo cũng thật tội nghiệp, họ hiểu con, thương con, lo lắng
cho con nhưng vì nghèo khổ họ phải chịu đắng cay, chua xót.
Với một cốt truyện đơn giản nhưng tính cách nhân vật được xây dựng tinh tế,
truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã nêu lên được những vấn đề có tính
nhân bản sâu sắc. Con người lao động dù ở tình huống bi thảm đến đâu vẫn
khao khát hạnh phúc và họ chí tìm thấy khi biết cưu mang giúp đỡ lẫn nhau.
Cảm động biết bao, dưới cái nhìn nhân ái của nhà văn, những con người khốn
khổ ấy đã có thể tìm thấy những hạnh phúc, dù nhỏ nhoi trong cuộc đời.
Vợ nhặt của Kim Lân như một sự tiếp nối tất yếu của những tác phẩm hiện
thực phê phán của Nam Cao, Tô Hoài từ trước Cách mạng tháng Tám. Cảnh
đời cũng vẫn là tối tăm, ngột ngạt, nhưng nhân vật của Kim Lân đã có được
niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. Và chắc chắn cuộc đời sẽ được đổi khác,
hình ảnh cuối cùng của tác phẩm “lá cờ đỏ bay phất phới" thể hiện niềm tin
đó.
Nghệ thuật đặc sắc trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
1. Kim Lân xuất hiện trên văn đàn Việt Nam với số lượng tác phẩm khiêm
tốn nhưng lại dành trọn niềm tin yêu kính phục của mọi thế hệ độc giả. Ông
được mệnh danh là nhà văn của nông thôn của đồng quê Bắc Bộ. Ngòi bút
của Kim Lân thường đi vào khám phá những cảnh sinh hoạt đời sống của
nông thôn để từ đó mà đề cao ca ngợi những mảnh sáng, những vẻ đẹp tâm
hồn của người dân lao động. Truyện ngắn “Vợ nhặt” 1954 là tác phẩm thể
hiện một sự hoàn hảo của bút pháp Kim Lân. Ở tác phẩm này, Kim Lân vừa
thành công trong việc khám phá nội dung, vừa thành công trong việc phát
minh xây dựng một hình tượng nghệ thuật. Ngoài đặc sắc độc đáo của nghệ
thuật xây dựng tình huống, Kim Lân còn bộc lộ một tài năng đặc biệt trong
việc xây dựng chân dung tâm lý nhân vật và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
điêu luyện giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời thường.

2.a. Nghệ thuật tạo tình huống độc đáo: Kim Lân viết truyện ngắn này năm
1954 nhưng cảm quan nghệ thuật lại hướng về nạn đói khủng khiếp diễn ra ở
đồng bằng Bắc Bộ tháng 3 năm 1954. Mặc dù bối cảnh của truyện là nạn đói
khủng khiếp, là cái thời tao loạn nhưng truyện không đi sâu vào phản ánh cái
đói, cái giành xé miếng ăn để sinh tồn mà lại đi sâu vào phản ánh cái tình
người trong cơn xoáy lốc khủng khiếp đó. Để phản ánh điều này nhà văn đã
tạo ra một tình huống truyện rất độc đáo đó là chuyện vợ nhặt của một anh
nông dân có tên là Tràng.
Nhân vật Tràng là một chàng trai xấu xí thô ráp “mắt thì nhỏ tí gà gà, mặt thì
đung đưa nhấp nhỉnh, thân hình thì vập vạp”. Tràng vừa nghèo vừa là dân
ngụ cư, vừa lại trong cơn chống trụ để tồn tại giữa cái đói khủng khiếp. Tình
cảnh như thế không ai nghĩ rằng Tràng có vợ thế mà bỗng nhiên lại có vợ, vợ
theo hẳn hoi không cần cheo cưới. Tình huống đó đã làm cho mẹ Tràng ngạc
nhiên, xóm ngụ cư ngạc nhiên và Tràng cũng ngạc nhiên. Từ tình huống
truyện này nhà văn không nhằm tạo ra tiếng cười mà nhằm phản ánh những
điều mang tính quy luật về bản chất con người, về tình người trong những
thời điểm khắc nghiệt nhất.
b. Nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật: Nói đến truyện là nói đến nhân
vật, nói đến nhân vật là nói đến ngoại hình và nội tâm, tính cách tâm lý. Ở tác
phẩm này có ba nhân vật xuất hiện là Tràng, vợ Tràng và mẹ Tràng. Họ là
những con người khốn khổ lại sống trong tình cảnh “tối giời tối đất trong
đồng lúa ngày xưa” nên khi phát thảo chân dung của họ nhà văn Kim Lân
vừa chấm phá được nét tự nhiên, vừa phát họa được cái sự biến dạng chân
dung do cuộc sống bên bờ vực thẳm. Để giới thiệu Tràng là một người nông
dân thô ráp thì tác giả chỉ phát thảo vài nét mang tính đặc tả nét mặt đó là
“mắt thì nhỏ tí gà gà, mặt thì đung đưa nhấp nhỉnh, thân hình thì vập vạp”.
Với vài nét như thế Tràng hiện lên như một phát thảo vụng về của tạo hóa, sẽ
rất khó khăn trong việc chiếm cảm tình của người khác giới để tìm hạnh
phúc. Còn thị Tràng thì mặt lưỡi cày, ngực lép kẹp như một xác người biết
nói, một con người đáng thương. Viết về bà cụ Tứ, Kim Lân chỉ dùng hình

ảnh lọng khọng đã diễn tả được sự khắc khổ của một người mẹ nông thôn
trong thời đói rét. Miêu tả chân dung, Kim Lân không đi sâu vào chi tiết, chỉ
dừng lại như những nét bút ký họa đơn giản. Tuy thế hình ảnh những người
nông dân hiện lên rất ấn tượng, khó gỡ ra trong tâm trí người đọc.
c. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật: Có lẽ quyết định thành công của tác
phẩm là vấn đề tình người, bản chất con người nên Kim Lân tập trung bút lực
của mình vào miêu tả tâm lý nội tâm nhân vật. Tâm lý các nhân vật được
miêu tả trong tác phẩm không phải là tâm trạng rụi tàn mà tâm lý theo chiều
phát triển.
Trước hết đó là tâm lý của nhân vật Tràng, chỉ trong một ngày một đêm mà
Tràng đã có sự biến đổi rất đặc biệt, từ lạnh lùng vô cảm trước cuộc sống đã
trở thành con người có chủ tâm ý chí trong việc tìm và giữ hạnh phúc. Trước
khi gặp thị, Tràng rất vô tư như trẻ con nhưng khi gặp thị, từ một cái chập kệ
Tràng đã chuyển sang tâm lý phớn phở. Sau đó là tâm lý muốn luôn cái gì đó
để chứng tỏ mình là chủ nhân gia đình. Từ chỗ đi về lầm lũi thì sau khi có vợ,
Tràng thấy yêu cái nhà mình hơn và Tràng mơ về ngọn cờ đỏ, mơ về sự đổi
đời. Vợ Tràng cũng có một sự biến đổi tương tư, từ chỗ xưng xỉa cong cớn
với Tràng ở phố huyện thì chỉ một thời gia ngắn, thị Tràng đã chuyển sang
tâm lý khép nép hiền thảo như một đứa con dâu quê thiết thực. Tâm lý của bà
cụ Tứ cũng được tác giả diễn tả theo chiều phát triển như thế. Từ ngạc nhiên
khi có người đàn bà xuất hiện trong nhà mình, đến mừng lo xáo trộn, đến
rạng rỡ nụ cười. Tất cả những biểu hiện tâm lý đó rất hợp với logic hoàn
cảnh.
Qua những biến động về tâm lý của ba nhân vật cũng như tâm lý của người
dân ngụ cư, nhà văn vừa thể hiện khả năng tinh tế của mình, vừa thể hiện cái
trân trọng đối với nỗi lòng của những con người khi tiếp cận với hạnh phúc.
d. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ: Người đọc kính phục Kim Lân vì nhiều lẽ
nhưng không ai có thể phủ nhận rằng nhà văn Kim Lân rất có biệt tài trong
việc chọn lọc và vận dụng ngôn từ, tạo nên được sự hòa hợp tuyệt đối trong
ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ chân quê đồng quê.

Ngoài các ngôn ngữ văn chương thông thường, nhà văn đã đưa vào tác phẩm
những ngôn ngữ đồng quê rất hợp lý và đích đáng. Chẳng hạn khi miêu tả
chân dung nhân vật thì nhà văn dùng từ “gà gà”, “nhấp nhỉnh”,”vập vạp”.
Khi diễn tả những trạng thái, những tình cảm thì tác giả lại viết rất hợp với
nhân vật. Nhân vật Tràng khi gặp gỡ tỏ tình thì nói “làm đách gì có vợ”, khi
nói về hạnh phúc thì “vợ mới vợ miết thì cũng phải có đèn trong nhà”, khi
Tràng thưa với mẹ thì vẫn có ngôn từ tương tự “thì u thẳng ngồi lên giường
lên ghế cho chỉnh chệ đã nào”. Còn lời bà cụ Tứ cũng rất hợp lý với tâm
trạng của một bà mẹ nông dân, bà nói “u cũng mừng lòng”. Có lẽ trong văn
chương Việt Nam hiếm có một tác phẩm nào mà có sự hòa hợp các loại hình,
các cấp độ ngôn ngữ rất thành thạo, rất nhuần nhuyễn như trong truyện ngắn
“Vợ nhặt” của Kim Lân.
3. Nhờ sự tài hoa sắc sảo trong bút pháp nghệ thuật nói trên, truyện ngắn Kim
Lân đã làm nổi bật được vấn đề mang tính triết lý của xã hội đó là vấn đề tình
người. Con người tồn tại và sống với nhau không chỉ là miếng cơm manh áo
mà còn là vấn đề tình người tình yêu. Tình người sẽ là sự cứu rỗi cho mọi
cuộc đời bị bất hạnh. Cũng nhờ nghệ thuật đặc sắc này mà Kim Lân tạo ra
được sự ám ảnh đối với người đọc về bài ca tình người trong cơn tao loạn.
Cũng nhờ nghệ thuật này mà người đọc càng cảm phục và yêu quý Kim Lân,
một nhà văn của đồng quê, một nhà văn của mọi người.

×