Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty cổ phần sản xuất hàng thể thao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.2 KB, 93 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học, độc
lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 30 tháng 3 năm 2012
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN THỊ KIỀU DUNG
MỤC LỤC
Tài sản cố định vô hình bao gồm các phần mềm kế toán, kê khai hải quan và diệt virus
được khấu hao theo phương pháp đường thẳng trong 2 – 5 năm 48
Trong năm 2011, mặc dù nền kinh tế trong và ngoài nước vẫn tồn tại nhiều thách
thức, nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn tăng trưởng cao hơn so
với năm trước. Trong năm này, Công ty đã huy động thêm được 232.293.209 nghìn
đồng để sử dụng vào hoạt động kinh doanh. Số vốn huy động được chủ yếu từ vay và
nợ ngắn hạn, giảm đầu tư vào TSCĐ. Cụ thể, Công ty đã huy động được thêm
61.816.012 nghìn đồng tiền vốn từ đău tư TSCĐ và 51.530.507 từ vốn vay ngắn hạn.
Trong các năm gần đây, Công ty luôn đạt mức tăng trưởng lợi nhuận cao, hoàn thành
vượt mức mục tiêu kế hoạch đã đặt ra. Ngoài việc sử dụng nguồn vốn vay ngắn hạn,
Công ty còn gia tăng thêm vốn nhờ vào việc thu hẹp bớt các khoản đầu tư tài chính
ngắn hạn, thu được thêm 6.000.000 nghìn đồng tiền vốn, giảm trả trước cho người
bán 1.598.061 nghìn đồng. Công ty còn chiếm dụng thêm các khoản vốn tạm thời
chưa phải chi trả như các khoản phải trả cho người lao động, phải trả phải nộp Nhà
nước, sử dụng vốn tử lợi nhuận sau thuế… 51
DANH MỤC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
SXKD Sản xuất kinh doanh
DN Doanh nghiệp
TSNH Tài sản ngắn hạn
VNH Vốn ngắn hạn
TSDH Tài sản dài hạn
VDH Vốn dài hạn
TSCĐ Tài sản cố định


VCĐ Vốn cố định
TSLĐ Tài sản lưu động
VLĐ Vốn lưu động
LNST Lợi nhuận sau thuế
NVTX Nguồn vốn thường xuyên
ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông
ĐHCĐ Đại hội cổ đông
HĐQT Hội đồng quản trị
BKS Ban kiểm soát
KCS Kiểm tra chất lượng sản phẩm
VN Việt Nam
XDCB Xây dựng cơ bản
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Tài sản cố định vô hình bao gồm các phần mềm kế toán, kê khai hải quan và diệt virus
được khấu hao theo phương pháp đường thẳng trong 2 – 5 năm 48
Trong năm 2011, mặc dù nền kinh tế trong và ngoài nước vẫn tồn tại nhiều thách
thức, nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn tăng trưởng cao hơn so
với năm trước. Trong năm này, Công ty đã huy động thêm được 232.293.209 nghìn
đồng để sử dụng vào hoạt động kinh doanh. Số vốn huy động được chủ yếu từ vay và
nợ ngắn hạn, giảm đầu tư vào TSCĐ. Cụ thể, Công ty đã huy động được thêm
61.816.012 nghìn đồng tiền vốn từ đău tư TSCĐ và 51.530.507 từ vốn vay ngắn hạn.
Trong các năm gần đây, Công ty luôn đạt mức tăng trưởng lợi nhuận cao, hoàn thành
vượt mức mục tiêu kế hoạch đã đặt ra. Ngoài việc sử dụng nguồn vốn vay ngắn hạn,
Công ty còn gia tăng thêm vốn nhờ vào việc thu hẹp bớt các khoản đầu tư tài chính
ngắn hạn, thu được thêm 6.000.000 nghìn đồng tiền vốn, giảm trả trước cho người
bán 1.598.061 nghìn đồng. Công ty còn chiếm dụng thêm các khoản vốn tạm thời
chưa phải chi trả như các khoản phải trả cho người lao động, phải trả phải nộp Nhà
nước, sử dụng vốn tử lợi nhuận sau thuế… 51
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Để tiến hành bất cứ một quá trình sản xuất kinh doanh nào, doanh
nghiệp cũng cần phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện
tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các giai đoạn của quá trình kinh doanh,
vốn là điều kiện vật chất đầu tiên và cần thiết để thành lập doanh nghiệp và
tiến hành các hoạt động kinh doanh.
Mục tiêu quan trọng nhất của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận,
hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp
nhất. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh gắn liền với việc thực hiện những
mục tiêu của doanh nghiệp và là vấn đề mang tính chất sống còn đối với
doanh nghiệp.
Công ty cổ phần sản xuất hàng thể thao là một đơn vị đóng trên địa bàn
thủ đô. Trong những năm gần đây, Công ty Cổ phần sản xuất hàng thể thao đã
có thành tựu rất đáng khích lệ như: sản lượng, doanh thu, lợi nhuận năm sau
tăng trưởng hơn năm trước, thu nhập của người lao động ổn định, thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, đứng trước sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt của thị trường, những biến động lớn về cung cầu giá
cả nguyên vật liệu đầu vào vì vậy mà Công ty gặp không ít khó khăn trong
kinh doanh.
Để tiếp tục đứng vững trên thị trường và phát huy những thành quả đã
đạt được, Công ty cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để khắc phục
những khó khăn, yếu kém hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh, tối đa hoá lợi nhuận, đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài.
Với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
của công ty, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh tại Công ty cổ phần sản xuất hàng thể thao”.
1
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Hệ thống lý luận vÒ vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp.

Nghiên cứu thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trên cơ sở
phân tích những mặt tích cực, hạn chế và những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty cổ phần sản xuất hàng thể thao.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh tại công ty cổ phần sản xuất hàng thể thao.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh tại Công ty cổ phần sản xuất hàng thể thao, ưu điểm, tồn tại và
những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty
Cổ phần sản xuất hàng thể thao.
Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ
phần Sản xuất hàng thể thao các năm 2010, 2011.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hệ thống lý luận về vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp.
Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ
phần Sản xuất hàng thể thao; ưu điểm, tồn tại và những nhân tố ảnh hưởng
đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty.
Thể hiện ý tưởng khoa học qua một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần Sản xuất hàng thể thao.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung luận văn được kết cấu theo 3 chương:
2
Chương I: Vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty
cổ phần Sản xuất hàng thể thao
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
tại Công ty cổ phần Sản xuất hàng thể thao

Để hoàn thành được luận văn này tôi đã cố gắng trong quá trình nghiên
cứu thực tiễn cũng như thu thập các nguồn tài liệu để luận văn được trình bày
khoa học, thực tiễn và rõ ràng, dễ hiểu. Tuy nhiên, với kinh nghiệm còn chưa
nhiều và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một mảng rộng nên luận văn
không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định về bố cục, nội dung. Vì vậy, tôi
hy vọng sẽ nhận được sự góp ý của Qúy thầy cô giáo và tất cả các bạn để luận
văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của
thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Vũ Công Ty, sự giúp đỡ của các thầy cô khoa
sau đại học cùng toàn thể các thầy cô và các bạn đã giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này.
3
Chương I
VỐN KINH DOANH VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Vốn kinh doanh
1.1.1. Vốn kinh doanh và đặc trưng, vai trò của vốn kinh doanh trong hoạt
động của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm
Để tiến hành sản xuất kinh doanh trước tiên doanh nghiệp cần có vốn,
vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Do vậy việc quản lý và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả là
mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Nó đóng vai trò quyết định cho việc ra
đời, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp.
Đứng trên mỗi góc độ và quan điểm khác nhau, với mục đích nghiên
cứu khác nhau thì có những quan niệm khác nhau về vốn.
Theo quan điểm của Marx, ông cho rằng: “ Vốn chính là tư bản, là giá
trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất ”. Định
nghĩa của Marx có tầm khái quát lớn, tuy nhiên do hạn chế về mặt trình độ
phát triển của nền kinh tế mà Marx quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật

chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Paul.A.Samuelson, nhà kinh tế học theo trường phái Tân cổ điển đã kế
thừa các quan điểm của trường phái cổ điển về yếu tố sản xuất để phân chia
các yếu tố của đầu vào sản xuất thành ba bộ phận là Đất đai, Lao động và
Vốn. Theo ông, vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho một quá
trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của một
doanh nghiệp, đó có thể là máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên vật liệu, công cụ
dụng cụ…Trong quan niệm về vốn của Samuelson không đề cập đến các tài
4
sản tài chính những tài sản có giá có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp,
ông đã đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp.
Trong cuốn kinh tế học của David Beeg, tác giả đã đưa ra hai định
nghĩa về vốn: Vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật
là dự trữ các hàng hoá, sản phẩm đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hoá
khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá trị của doanh nghiệp. Như
vậy David Beeg đã bổ sung định nghĩa vốn tài chính cho định nghĩa vốn của
Samuelson.
Theo quan điểm của Marx (trong Bộ Tư bản) thì phạm trù vốn được
khái quát qua phạm trù tư bản "Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư".
Định nghĩa này đã bao hàm đầy đủ bản chất của vốn.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
tài sản hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục
đích sinh lời.
Vốn là một loại hàng hoá đặc biệt. Trước hết, vốn là hàng hoá vì nó có
giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của vốn thể hiện ở chi phí mà chúng ta bỏ ra
để có được nó. Giá trị sử dụng của vốn thể hiện ở việc ta sử dụng nó để đầu tư
vào quá trình sản xuất kinh doanh ( mua máy móc, thiết bị, hàng hoá…). Vốn
là hàng hoá đặc biệt bởi vì có sự tách biệt rõ ràng giữa quyền sử dụng và
quyền sở hữu. Khi vay vốn chúng ta chỉ có quyền sử dụng vốn còn quyền sở
hữu vẫn thuộc về chủ sở hữu của nó. Tính đặc biệt của vốn còn thể hiện ở chỗ

vốn không bị hao mòn hữu hình trong quá trình sử dụng mà còn có khả năng
tạo ra giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Chính vì vậy, giá trị của vốn phụ thuộc
vào rất nhiều các yếu tố của môi trường kinh tế vĩ mô, không phụ thuộc vào
lợi ích cận biên của bất kỳ doanh nghiệp nào. Điều này đặt ra nhiệm vụ đối
với nhà quản trị tài chính là phải làm sao sử dụng tối đa hiệu quả vốn để đem
lại một giá trị thặng dư tối đa, đủ chi trả cho chi phí bỏ ra để mua vay vốn và
có lợi nhuận tối đa.
5
Quá trình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp được tiến hành
liên tục do vậy vốn của doanh nghiệp cũng được vận động không ngừng tạo
ra sự tuần hoàn và chu chuyển vốn. Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển
vốn, vốn thay đổi cả về hình thái và lượng giá trị. Vốn trong các doanh nghiệp
sản xuất được vận động như sau:
T - H ( TLSX, TLLĐ )… S X … H’- T’
1.1.1.2 Đặc trưng của vốn kinh doanh
Để quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, ta phải nhận thức đầy đủ
về những đặc trưng cơ bản của vốn.
Thứ nhất: Vốn phải đại diện cho 1 lượng giá trị tài sản. Điều này có
nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình và vô
hình như: Nhà cửa, đất đai, bản quyền phát minh,
Thứ hai: Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được quản
lý chặt chẽ. Nếu không xác định chủ sở hữu thì việc sử dụng vốn và tài sản sẽ
lãng phí và kém hiệu quả.
Thứ ba: Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một hàng hoá đặc biệt. Sở
dĩ ta nói vốn là một hàng hoá vì nó có giá trị và giá trị sử dụng như mọi hàng
hoá khác. Giá trị sử dụng của vốn là để sinh lời. Tuy nhiên vốn lại khác
những hàng hoá khác. Đó là quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn có thể
gắn với nhau nhưng cũng có thể tách rời nhau.
Thứ tư: Vốn phải được tích tụ, tập trung đến 1 lượng nhất định mới có
thế phát huy được tác dụng. Do vậy các doanh nghiệp không chỉ có nhiệm vụ

khai thác tiềm năng về vốn mà còn phải tìm cách thu hút các nguồn vốn.
Thứ năm: Vốn có giá trị về mặt thời gian, điều này rất có ý nghĩa khi bỏ
vốn đầu tư và tính hiệu qủa của đồng vốn mang lại.
1.1.1.3. Vai trò của VKD đối với hoạt động của doanh nghiệp
Qua việc xem xét các khái niệm và phân loại về vốn, ta có thể thấy vốn
là tiền đề cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Phải có một lượng tiền nhất
6
định mới có thể tiến hành các hoạt động đầu tư của mình, bắt đầu từ việc
doanh nghiệp mua các tài sản cần thiết cho việc xây dựng và khởi động doanh
nghiệp (máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua phát minh sáng chế…),
đảm bảo cho sự vận động của doanh nghiệp (mua nguyên vật liệu, trả lương
cho công nhân, trả lãi…) và sự tăng trưởng của doanh nghiệp ( đầu tư mở
rộng dây chuyền sản xuất…). Vậy vốn là yếu tố khởi đầu, bắt nguồn của mọi
hoạt động kinh doanh, nó tồn tại và đi liền xuyên suốt giúp cho các doanh
nghiệp hình thành và phát triển.
Vốn của các doanh nghiệp có vai trò quyết định, là điều kiện tiên quyết quan
trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của từng loại doanh nghiệp theo luật
định. Trong những nền kinh tế khác nhau, những loại hình doanh nghiệp khác nhau
tầm quan trọng của vốn cũng được thể hiện ở mức độ khác nhau.
Vốn là yếu tố quyết định mức độ trang thiết bị kỹ thuật, quyết định việc
đổi mới công nghệ, hiện đại hoá dây chuyền sản xuất, ứng dụng thành tựu
mới của khoa học và phát triển sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những
yếu tố quyết định đến sự thành công và đi lên của doanh nghiệp.
Vốn còn là một trong những điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng
hiện có và tiềm năng tương lai về sức lao động, nguồn hàng hoá, mở rộng và
phát triển thị trường, mở rộng lưu thông hàng hoá, là điều kiện để phát triển
kinh doanh, thực hiện các chiến lược, sách lược kinh doanh, là chất keo để nối
chắp, dính kết các quá trình và quan hệ kinh tế, là dầu bôi trơn cho cỗ máy
kinh tế hoạt động.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn tham gia vào tất cả các khâu,

ở mỗi khâu nó thể hiên dưới các hình thái khác nhau như vật tư, vật liệu, hàng
hoá…và cuối cùng lại trở về hình thái ban đầu là tiền tệ. Như vậy sự luân
chuyển của vốn giúp cho doanh nghiệp thực hiện được hoạt động tái sản xuất
và tái sản xuất mở rộng của mình.
7
1.1.2. Phân loại Vốn kinh đoanh
Theo nguồn hình thành
Phân loại theo nguồn hình thành, vốn kinh doanh của doanh nghiệp
được chia thành hai loại là: vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Khi
doanh nghiệp mới được thành lập thì nguồn vốn chủ sở hữu hình thành vốn
điều lệ do chủ doanh nghiệp, các thành viên góp vốn, được sử dụng để đầu tư,
mua sắm các loại tài sản của doanh nghiệp.
Nợ phải trả: Là số vốn doanh nghiệp được sử dụng tạm thời trong một
thời gian nhất định bao gồm những khoản vốn phát sinh một cách tự động và
các khoản nợ phát sinh trong qúa trình kinh doanh mà doanh nghiệp có trách
nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế như: Nợ tiền vay ngân hàng
và các tổ chức kinh tế khác, nợ phải trả cho người bán, phải trả công nhân
viên, phải nộp cho nhà nước
Sự kết hợp chặt chẽ 2 nguồn này phụ thuộc vào đặc điểm của doanh
nghiệp đang hoạt động cũng như quyết định của người quản lý doanh nghiệp
trên cơ sở xem xét tình hình chung của nền kinh tế và trên tình hình thực tế tại
doanh nghiệp.
Theo thời gian sử dụng
Phân loại theo thời gian sử dụng, vốn kinh doanh được chia thành hai
loại là: vốn ngắn hạn và vốn dài hạn
Vốn ngắn hạn là biểu hiện bằng tiền của tài sản ngắn hạn nên đặc điểm
vận động của vốn ngắn hạn luôn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài
sản ngắn hạn.
Các đối tượng lao động (như nguyên, nhiên, vật liệu, bán thành phẩm,

…) chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật
8
chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ, một lần vào giá trị sản
phẩm.
Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được
gọi là các tài sản ngắn hạn, về hình thái giá trị được gọi là vốn ngắn hạn của
doanh nghiệp.
Vốn dài hạn là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản dài hạn
mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản
xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản dài hạn hết thời gian sử dụng.
Tài sản dài hạn (như: khoản phải thu dài hạn, tài sản cố định, bất động
sản đầu tư, ) là phương tiện vật chất mà con người sử dụng một cách trực
tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Theo công dụng
Phân loại theo công dụng, vốn kinh doanh được chia thành hai loại là:
vốn lưu động và vốn cố định.
Vốn lưu động là số tiền ứng trước về tài sản lưu động sản xuất và tài
sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một
cách thường xuyên, liên tục mà đặc điểm của nó là luân chuyển không ngừng,
luôn thay đổi hình thái biểu hiện và chuyển toàn bộ giá trị một lần trong một
chu kỳ sản xuất.
Với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì TSLĐ gồm 2 loại TSLĐ
sản xuất và TSLĐ lưu thông. TSLĐ sản xuất bao gồm các loại nguyên vật
liệu, phụ tùng thay thế, sản phẩm dở dang đang trong quá trình dự trữ sản
xuất hoặc chế biến. Còn TSLĐ lưu thông bao gồm các sản phẩm, thành phẩm
chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền,vốn trong thanh toán
TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hoá
lẫn nhau đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.
Đặc điểm của VLĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh là luân chuyển toàn
bộ giá trị ngay 1 lần và hoàn thành 1 vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất, nó

9
được coi là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Đặc
điểm này đã quyết định sự vận động của VLĐ - hình thái giá trị của TSLĐ.
Giai đoạn I: Khởi đầu của vòng tuần hoàn, doanh nghiệp dùng tiền để
mua hàng hoá, nguyên vật liệu nhằm dự trữ sản xuất kinh doanh. Lúc này
VLĐ chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái vật tư hàng hoá (T - H).
Giai đoạn II: Là giai đoạn sản xuất: Hàng hoá, nguyên vật liệu trải qua
quá trình bảo quản sơ chế được đưa vào dây chuyền công nghệ. Trong quá
trình này, vốn chuyển từ hình thái hàng hoá, vật tư dự trữ sang hình thái sản
phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm (H - SX - H').
Giai đoạn III: Doanh nghiệp bán hàng thu được tiền. Vốn được chuyển
từ hình thái thành phẩm sang hình thái tiền tệ tức là trở về hình thái ban đầu
(H' - T').
Quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách thường xuyên liên tục
nên cùng một thời điểm VLĐ thường tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau
trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các giai đoạn vận động của vốn được
đan xen vào nhau và các chu kỳ sản xuất được lặp đi lặp lại. Sau mỗi chu kỳ
sản xuất VLĐ hoàn thành 1 vòng tuần hoàn.
Vốn cố định là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định
mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất
và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
Là một khoản đầu tư ứng trước hình thành nên TSCĐ của doanh nghiệp
nên quy mô của VCĐ sẽ quyết định đến quy mô của TSCĐ. Song đặc điểm
vận động của TSCĐ lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển giá
trị của VCĐ. Sự vận động của TSCĐ trong thời gian tham gia vào quá trình
sản xuất được cụ thể hoá như sau:
Về mặt hiện vật: TSCĐ tham gia hoàn toàn và nhiều lần trong quá trình
sản xuất và bị hao mòn dần cho đến khi TSCD bị hư hỏng hoàn toàn.
10
Về mặt giá trị: Giá trị TSCĐ được biểu hiện dưới hình thái hiện vật ban

đầu. Trong quá trình sản xuất một bộ phận giá trị chuyển vào giá trị sản sản
phẩm mà TSCĐ đó tạo ra và bộ phận này sẽ chuyển hoá thành tiền khi tiêu
thụ được sản phẩm.
Như vậy, VCĐ là một bộ phận quan trọng chiếm tỷ trọng lớn trong
toàn bộ VKD của doanh nghiệp. Do đó việc tổ chức và sử dụng VCĐ có ảnh
hưởng lớn trực tiếp đến hiệu quả VKD của doanh nghiệp.
Theo tính chất
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành vốn thường xuyên
và vốn tạm thời.
Nguồn vốn thường xuyên: là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng có
tính chất ổn định và lâu dài trong SXKD bao gồm: vốn chủ sở hữu và các
khoản vay dài hạn. Đây là nguồn vốn lâu dài, được dùng để đầu tư, mua sắm
TSCĐ và một bộ phận TSLĐ tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động
SXKD của doanh nghiệp.
Nguồn vốn tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà doanh
nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời như: các
khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả
nhưng chưa đến hạn trả.
1.1.3. Nguồn hình thành vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh được hình thành từ hai nguồn là nợ phải trả và nguồn
vốn chủ sở hữu
Nợ phải trả của doanh nghiệp bao gồm: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn
Nợ ngắn hạn bao gồm: vay và nợ ngắn hạn của ngân hàng, các khoản
vay của Công ty tài chính, công ty bảo hiểm, ngân hàng thương mại, của các
cá nhân trong và ngoài nước, các nguồn vốn chiếm dụng của người bán,
người lao động, nhà nước…
11
Nợ dài hạn bao gồm: vay và nợ dài hạn, Phát hành trái phiếu để huy
động vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, vốn huy động qua hình thức
thuê tài chính tài sản…

Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm:
Nguồn vốn góp ban đầu: Đây là nguồn hình thành vốn ban đầu gọi là vốn
điều lệ. Nguồn vốn này là cơ sở xác định quyền sở hữu đối với doanh nghiệp.
Nguồn này được hình thành từ việc các cổ đông đóng góp đối với công ty cổ
phần, hay từ vốn của Nhà nước tại các công ty do Nhà nước điều hành.
Nguồn vốn tự bổ sung: Là vốn được hình thành từ lợi nhuận để lại.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
1.2.1. Khái niệm
Khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn
luôn theo đuổi một mục tiêu chính là làm thế nào để đạt được hiệu quả kinh
doanh cao nhất, đem lại lợi nhuận lớn nhất. Ta biết rằng, vốn là một trong ba
yếu tố đầu vào quan trọng nhất phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định và các nguồn tài trợ tương
ứng thì mới có thể tồn tại, hoạt động và phát triển. Làm thế nào để luôn đủ
vốn - Đó là điều quan trọng, là tiền đề của sản xuất song việc sử dụng vốn sao
cho đạt hiệu quả mới thực sự là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng của
mỗi doanh nghiệp. Việc thường xuyên kiểm tra tình hình tài chính, tiến hành
phân tích để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là nội dung quan trọng trong công
tác tài chính của doanh nghiệp. Cách đo lường chính xác thể hiện rõ nhất tính
hiệu quả là thước đo tiền tệ để lượng hoá các yếu tố đầu vào và đầu ra. Tuy
nhiên quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn được hiểu trên hai khía cạnh
Thứ nhất, với số vốn hiện có doanh nghiệp có thể sản xuất thêm sản
phẩm với chất lượng tốt, giá thành hạ nhằm mục đích tăng lợi nhuận cho
doanh nghiệp.
12
Thứ hai, đầu tư thêm vốn ( mở rộng quy mô sản xuất, tăng doanh thu )
sao cho tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng của vốn.
Vậy hiệu quả sử dụng vốn chính là thước đo, phản ánh tương quan so
sánh giữa kết quả thu được với những chi phí về vốn mà doanh nghiệp bỏ ra
trong hoạt động để có được chính kết quả đó. Hiệu quả sử dụng vốn có thể

được tính một cách chung nhất bằng công thức:
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh =
Kết quả thu được
Chi phí vốn sử dụng
Trong đó: Kết quả thu được có thể là: Tổng doanh thu, doanh thu
thuần, lãi gộp
Chi phí vốn đã sử dụng có thể là: Tổng vốn bình quân, vốn lưu động
bình quân, vốn cố định bình quân…
Trong một doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh phản ánh
trình độ sử dụng nguồn lực hiện có. Trình độ sử dụng nguồn lực thể hiện qua
kết quả kinh doanh của mỗi kỳ hạch toán, qua đó quy mô vốn của doanh
nghiệp có thể bị thu hẹp so với đầu kỳ (doanh nghiệp sử dụng vốn kém hiệu
quả, nếu tình trạng này kéo dài có thể doanh nghiệp sẽ bị phá sản) và cũng có
thể được bảo tồn và phát triển. Đây là kết quả mà doanh nghiệp nào cũng cần
phải phấn đấu để đạt được bởi vì khi bảo tồn được đồng vốn sẽ là cơ sở vững
chắc để doanh nghiệp tồn tại và tìm ra những biện pháp, bước đi đúng đắn
phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường nhằm phát triển vốn trong
một khoảng thời gian nào đó.
1.2.2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai sẽ không thành
vấn đề bàn cãi nếu nguồn tài nguyên là vô tận. Như thực tế mọi nguồn tài
nguyên trên trái đất như đất đai, khoáng sản, hải sản là một phạm trù hữu hạn
và ngày càng khan hiếm và cạn kiệt do con người khai thác và sử dụng chúng.
13
Trong khi đó dân số trên thế giới ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng của các
loại nhu cầu dẫn đến nhu cầu tiêu dùng vật phẩm của con người cũng tăng lên
không ngừng cả về số lượng và chất lượng, hàng hoá càng nhiều, càng phong phú,
càng có chất lượng cao càng tốt. Do vậy, của cải ngày càng khan hiếm đòi hỏi con
người phải nghĩ đến việc lựa chọn kinh tế, một cách tối ưu nhất.
Ngoài ra, sự phát triển của kỹ thuật sản xuất giúp con người tìm ra

nhiều phương pháp khác nhau để chế tạo sản phẩm. Kỹ thuật sản xuất phát
triển cho phép với cùng những nguồn lực đầu vào nhất định người ta có thể
tao ra rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Điều này cho phép các doanh
nghiệp có khả năng lựa chọn kinh tế: lựa chọn sản suất kinh doanh sản phẩm
(cơ cấu sản phẩm) tối ưu. Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mang lại cho doanh nghiệp
hiệu quả kinh doanh cao nhất. Sự tăng trưởng kết quả kinh tế của sản xuất chủ
yếu nhờ vào việc cải tiến các yếu tố sản xuất về mặt chất lượng, ứng dụng các
tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ mới, hoàn thiện công tác quản trị và cơ cấu
kinh tế, nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế. Nói một cách khái quát là
nhờ vào sự nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tức là đã nâng cao
khả năng sử dụng các nguồn lực có hạn trong sản xuất, đạt được sự lựa chọn
tối ưu. Trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh là điều kiện không thể không đặt ra đối với bất
kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào.
Việc giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào, sản xuất cho ai dựa trên quan hệ cung cầu, giá cả thị trường, cạnh
tranh và hợp tác. Các doanh nghiệp phải tự ra các quyết định kinh doanh của
mình, tự hạch toán lỗ lãi, lãi nhiều hưởng nhiều, lãi ít hưởng ít, không có lãi
sẽ đi đến phá sản. Lúc này, mục tiêu lợi nhuận trở thành một trong những mục
tiêu quan trọng nhất, mang tính chất sống còn của sản xuất kinh doanh. Môi
14
trường cạnh tranh này ngày càng gay gắt dẫn đến hệ quả là có nhiều doanh
nghiệp trụ vững, phát triển sản xuất, nhung không ít doanh nghiệp đã thua lỗ,
giải thể, phá sản. Để có thể trụ lại trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp
luôn phải nâng cao chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất, nâng cao uy
tín…nhằm mục tiêu tối đa lợi nhuận. Các doanh nghiệp phải có được lợi
nhuận và đạt được lợi nhuận càng cao càng tốt. Do vậy, đạt hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh luôn là vấn đề
được quan tâm của doanh nghiệp và trở thành điều kiện sống còn để doanh

nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với nhà quản lý doanh nghiệp. Đội ngũ các nhà quản lý doanh
nghiệp hơn ai hết phải có trình độ và thành thạo kỹ năng phân tích và đánh
giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cuả đơn vị mình vì:
Thứ nhất: việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh sẽ chỉ ra tình
trạng thực tế về huy động và khai thác sử dụng các nguồn lực của doanh
nghiệp. Việc đánh giá sẽ cho biết vị thế cạch tranh của doanh nghiệp trên thị
trường, những lợi thế đang có hoặc những bất lợi phải đối phó.
Thứ hai: phân tích hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cho phép phát hiện
các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của chúng đối với hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh. Từ đó nhà quản lý ra các quyết định phù hợp để nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nói tóm lại, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là việc làm có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý doanh nghiệp. Từ việc đánh
giá này giúp cho doanh nghiệp thấy rõ kết quả sử dụng vốn trong hoạt động
kinh doanh cao hay thấp, để từ đó tìm biện pháp thích hợp xây dựng chiến
lược kinh doanh tối ưu.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
15
Mục đích cũng như ý tưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh đều
hướng tới hiệu quả kinh tế trên cơ sở khai thác và sử dụng triệt để mọi nguồn
lực hiện có. Tạo lập, khai thác và sử dụng các tiềm lực về vốn hợp lý hay
không sẽ có tác động tích cực hay tiêu cực tới hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh nói riêng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của
doanh nghiệp. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là yêu
cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc, đánh giá đúng hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh sẽ thấy được chất lượng của việc kinh doanh và khả năng quản lý
vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Để thấy rõ được vấn đề trên, thông qua các
chỉ tiêu sau đây để nhận xét đánh giá.

1.2.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh
* Vòng quay toàn bộ vốn: chỉ tiêu này phản ánh vốn của doanh nghiệp
trong một kỳ quay được bao nhiêu vòng. Qua chỉ tiêu này ta có thể đánh giá
được khả năng sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Như vậy vòng quay càng
lớn thể hiện hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
Vòng quay vốn kinh doanh
=
Doanh thu thuần
Vốn kinh doanh bình quân
* Tốc độ luân chuyển vốn lưu động: được biểu hiện qua hai chỉ tiêu
chính là số lần luân chuyển vốn lưu động và kỳ luân chuyển vốn lưu động
Số lần luân chuyển vốn lưu động: thể hiện số vòng quay vốn lưu động
được thực hiện trong một thời kỳ nhất định.
Số lần luân chuyển
=
Tổng mức luân chuyển vốn lưu động trong kỳ
vốn lưu động Vốn lưu động bình quân
Trong đó:
Vốn lưu động
=
Vốn lưu động đầu kỳ + Vốn lưu động cuối kỳ
2
Kỳ luân chuyển vốn lưu động: là số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu
động thực hiện được một vòng quay trong kỳ.
Kỳ luân chuyển
=
Số ngày trong kỳ
16
Số lần luân chuyển vốn lưu động
Vòng quay vốn lưu động càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn lưu động

càng rút ngắn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại.
* Số vòng quay hàng tồn kho: là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu
suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp và được xác định bằng công
thức sau:
Số vòng quay
=
Giá vốn hàng hóa
Giá trị hàng tồn kho bình quân trong kỳ
* Vòng quay các khoản phải thu: là chỉ tiêu phản ánh trung bình một
đồng vốn công ty đầu tư vào các khoản phải thu chu chuyển thu được bao
nhiêu vòng trong năm:
Vòng quay các khoản phải thu
=
Doanh thu thuần
Số dư bình quân các khoản phải thu
Hoặc
Vòng quay các khoản phải thu
=
Số ngày trong kỳ
Kỳ thu tiền trung bình
* Kỳ thu tiền trung bình: là hệ số phản ánh độ dài thời gian thu tiền
của doanh nghiệp, kể từ lúc giao hàng cho tới lúc thu được tiền bán hàng.
Kỳ thu tiền
=
Số dư bình quân các khoản phải thu
Doanh thu bình quân một ngày trong kỳ
ơ
17
* Hiệu suất sử dụng vốn cố định: đo lường việc sử dụng vốn cố định
như thế nào. Nó phản ánh một đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh

thu thuần. Công thức xác định:
Hiệu suất sử dụng
=
Doanh thu thuần
Vốn cố định bình quân
Trong đó:
Vốn cố định
=
Vốn cố định đầu kỳ + Vốn cố định cuối kỳ
2
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
* Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu thuần (ROS)
Chỉ tiêu này phản ánh trong 1 đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp
thực hiện được trong kỳ sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế
trên doanh thu thuần (ROS)
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
* Tỷ suất sinh lợi kinh tế của tài sản: chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả
năng sinh lời của một đồng tài sản bình quân sử dụng trong kỳ, không tính đến
ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc vốn kinh doanh.
Tỷ suất sinh lợi kinh tế của tài sản
(ROA)
=
Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
Tổng tài sản bình quân
Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng tài sản bình quân sử dụng trong kỳ thì
tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
* Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh bình quân (ROI): chỉ tiêu

này phản ánh mỗi đồng vốn kinh doanh bình quân đầu tư vào hoạt động
SXKD thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên
vốn kinh doanh bình quân (ROI)
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn kinh doanh bình quân
Hoặc:
ROI = ROS × Vòng quay toàn bộ vốn
18
* Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE): là chỉ tiêu đánh giá mức độ
thực hiện mục tiêu tạo ra lợi nhuận sau thuế cho các chủ sở hữu của doanh nghiệp
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích doanh nghiệp đầu tư 1
đồng vốn chủ sở hữu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu
này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
càng tốt.
Nhà kinh tế học Dupont đã tìm ra mối liên hệ tỷ suất sinh lời vốn đầu
tư, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu và vòng quay tổng vốn thể hiện
bằng phương trình hoàn vốn ( viết tắt là ROI) như sau:
ROE = Vòng quay tổng vốn
×
ROS
×
1
1 – Hệ số nợ
1.2.3.3. Các chỉ tiêu khác

Ngoài các chỉ tiêu trên, ta còn có thể sử dụng các chỉ tiêu khác như hệ
số nợ và các hệ số khả năng thanh toán để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp. Đây là một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh nói chung.
Hệ số nợ
=
Nợ phải trả
Tổng tài sản
Hệ số vốn chủ sở hữu
=
Nguồn vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản
Hệ số vốn chủ sở hữu (hệ số tự tài trợ) = 1 - Hệ số nợ
Hệ số thanh toán nhanh
=
Tiền và các khoản tương tiền
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán nhanh của tiền và các khoản
tương đương tiền đối với các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Chỉ tiêu
này cao chứng tỏ khả năng thanh toán nhanh tốt.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
19
doanh nghiệp
Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường chịu tác động của nhiều
nhân tố, bao gồm cả những nhân tố khách quan và chủ quan. Do vậy hiệu quả
kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng cũng chịu ảnh hưởng
sâu sắc của những yếu tố đó.
1.3.1. Nhân tố khách quan
Môi trường pháp luật
Hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế phải tuân theo

những quy định pháp luật do Nhà nước ban hành, qua đó có tác dụng hướng
hoạt động kinh tế của họ tuân theo ý muốn chủ quan của Nhà nước. Tuy nhiên
mục tiêu này không phải lúc nào cũng đạt được kết quả mong muốn bởi vì hệ
thống luật pháp ở nhiều quốc gia còn chưa được kiện toàn. Chính vì vậy đã
tạo ra kẽ hở trong luật và bị các cá nhân, tổ chức lợi dụng để hoạt động kinh
doanh bất hợp pháp hay dựa vào những điều luật còn chồng chéo, thiếu tính
cụ thể nghiêm minh nên dẫn tới việc coi thường luật pháp trong hoạt động
kinh tế mà hậu quả có thể là đơn phương phá ngang hợp đồng kinh tế đã ký
kết, hoặc chiếm dụng vốn mà không thanh toán, gây thiệt hại về kinh tế cũng
như hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp là nạn nhân. Vì thế, để chấm dứt
được tình trạng này thì biện pháp tối ưu là phải khắc phục những mặt hạn chế
trong hệ thống luật pháp, xử lý thật nghiêm minh những tội phạm kinh tế để
làm gương răn đe, giáo dục. Có như vậy mới tạo được sự ổn định trong hoạt
động kinh tế và mục tiêu của Nhà nước mới thực hiện được triệt để.
Chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Nhà nước điều tiết nền kinh tế thông qua các chính sách cơ bản là chính
sách thuế, giá cả và lãi suất.
Chính sách thuế thay đổi sẽ ảnh hưởng đến công tác hạch toán kế toán
và các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật mà đơn vị đang áp dụng.
20
Chính sách giá của thay đổi sẽ làm thay đổi giá thành sản phẩm cũng
như giá bán của sản phẩm đó, vì thế sản lượng tiêu thụ, doanh thu bán hàng
cũng sẽ chịu ảnh hưởng.
Chính sách về lãi suất thay đổi sẽ ảnh hưởng đến thu nhập tài chính của
khoản tiền gửi ngân hàng, mức độ thuận lợi hay khó khăn của việc vay vốn,
số lượng tiền được vay nhiều hay ít, và chi phí tài chính của đơn vị đi vay.
Tóm lại, khi các chính sách kinh tế kể trên tay đổi sẽ có tác động tích
cực hoặc tiêu cực đến hiệu qủa sử dụng vốn cũng như hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn, trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng
thấp thì nhà nước có thể đối phó bằng cách: hạ lãi suất cho vay, tiền gửi, tăng

thuế nhằm khuyến khích các tổ chức cá nhân tham gia mạnh mẽ hơn vào hoạt
động kinh tế của Đất nước, nhờ đó mà nền kinh tế sẽ có mức tăng trưởng cao
hơn. Với một chính sách lới lỏng như vậy, nếu doanh nghiệp nào có những dự
án đầu tư tốt, có tính khả thi cao mà số vốn cần thiết để thực hiện dự án chưa
đủ thì có thể bổ xung bằng cách huy động số vốn còn thiếu thông qua hệ
thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Nhờ vậy, các doanh nghiệp sẽ hạn chế
được những cơ hội kinh doanh tốt bị bỏ qua và có thời cơ kiếm lợi nhuận,
tăng quy mô vốn, nâng cao hơn hiệu quả sử dụng vốn, đồng thời giảm dần sự
phụ thuộc về vốn vào các tổ chức tài chính. Ngược lại, trong thời kỳ nền kinh
tế “nóng” thì giải pháp đối phó là hoàn toàn ngược lại. Với chính sách này sẽ
hạn chế được những doanh nghiệp thành lập mới, đồng thời ảnh hưởng đến kế
hoạch đầu tư phát triển của các doanh nghiệp đang hoạt động cũng như hiệu
quả sử dụng vốn của từng doanh nghiệp. Vì thế trong bất kỳ hoàn cảnh nào
các doanh nghiệp luôn mong muốn có sự ổn định trong chính sách kinh tế của
Nhà nước, trên cơ sở đó để thiết lập chiến lược kinh doanh phù hợp, có như
vậy mới tạo tâm lý an toàn cho các nhà đầu tư, bởi vì chỉ một thay đổi nhỏ
trong chính sách kinh tế sẽ có tác động lớn đến chỉ tiêu chi phí, lợi nhuận và
hiệu hiệu quả sử dụng vốn.
21

×