Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

BÀI 6 nước và vệ SINH nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.38 KB, 39 trang )

Nước và Vệ sinh nước





147

BÀI 6 - NƯỚC VÀ VỆ SINH NƯỚC
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau khi học xong bài này, học viên có khả năng:
1. Nêu và mô tả được các nguồn nước khác nhau trong tự nhiên
2. Trình bày được mối quan hệ giữa chất lượng nước và sức khoẻ con người
3. Liệt kê được các nguồn ô nhiễm nước và đề xuất các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm
nước tại địa phương
4. Mô tả thực tế quản lý chất lượng nước ở Việt Nam
5. Lựa chọn được biện pháp xử lý nước ăn uống phù hợp với điều kiện thực tế địa
phương
1. GIỚI THIỆU VỀ CÁC NGUỒN NƯỚC TRONG THIÊN NHIÊN, VẤN ĐỀ CUNG
CẤP NƯỚC VÀ QUẢN LÝ NGUỒN NƯỚC
1.1. Nguồn nước trong thiên nhiên
Hành tinh của chúng ta có diện tích khoảng 510 triệu km
2
, trong đó biển và đại
dương chiếm 70,8% và lục địa chiếm 29,2%. Theo Gleick (1996) thì tổng lượng nước
trên trái đất chừng 1,386 tỷ km
3
được phân chia như sau:
• Biển và đại dương chiếm 96,5%
• Đỉnh núi băng, sông băng, và vùng tuyết phủ vĩnh cửu chiếm 1,74%
• Nước ngầm (ngọt, mặn) chiếm 1,7%


• Băng chìm và băng tồn tại vĩnh cửu chiếm 0,022%
• Các hồ (nước ngọt, nước mặn) chiếm 0,013%
• Độ ẩm trong đất chiếm 0,001%
• Hơi nước trong khí quyển chiếm 0,001%
• Nước đầm lầy chiếm 0,0008%
• Sông chiếm 0,0002%
• Nước sinh học chiếm 0,0001%
Chu trình nước trong thiên nhiên
Theo Cục Địa chất Mỹ (USGS 2007), vòng tuần nước không có điểm bắt đầu nhưng
chúng ta có thể bắt đầu từ các đại dương. Mặt trời điều khiển vòng tuần hoàn nước
bằng việc làm nóng nước trên những đại dương, làm bốc hơi nước vào trong không
khí. Những dòng khí bốc lên đem theo hơi nước vào trong khí quyển, gặp nơi có nhiệt
độ thấp hơn hơi nước bị ngưng tụ thành những đám mây. Những dòng không khí di
chuyển những đám mây khắp toàn cầu, những phân tử mây va chạm vào nhau, kết hợp
với nhau, gia tăng kích cỡ và rơi xuống thành mưa (giáng thủy). Phần lớn lượng mưa
rơi trên các đại dương hoặc rơi trên mặt đất và nhờ trọng lực trở thành dòng chảy mặt
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường






148

chảy vào sông và theo các dòng sông chính chảy ra đại dương. Dòng chảy mặt và nước
thấm được tích luỹ và được trữ trong những hồ nước ngọt, còn một lượng lớn nước
thấm xuống dưới đất. Một lượng nhỏ nước được giữ lại ở lớp đất sát mặt và được thấm
ngược trở lại vào nước mặt và đại đương dưới dạng dòng chảy ngầm. Một phần nước
ngầm chảy ra thành các dòng suối nước ngọt. Nước ngầm tầng nông được rễ cây hấp

thụ rồi thoát hơi qua lá cây. Một lượng nước tiếp tục thấm vào lớp đất sâu hơn và bổ
sung cho tầng nước ngầm sâu để tái tạo nước ngầm. Tuy nhiên, lượng nước này vẫn
luân chuyển theo thời gian, có thể quay trở lại đại dương, nơi mà vòng tuần hoàn nước
“kết thúc” và lại bắt đầu (USGS 2007). Hình 6.1. trình bày vòng tuần hoàn nước trong
tự nhiên.


Hình 6.1. Vòng tuần hoàn nước trong tự nhiên
(Nguồn USGS 2007)
1.1.1. Nước biển và đại dương
Chiếm một thể tích 1,338 tỉ km
3
(khoảng 96,5% tổng lượng nước trên trái đất)
với hàm lượng muối trung bình 3,5 g/lít. Biển và đại dương cung cấp khoảng 90%
lượng nước bốc hơi vào trong vòng tuần hoàn nước. Con người chưa đủ sức và khả
năng sử dụng dễ dàng nguồn nước này để phục vụ cho nhu cầu hàng ngày của mình.
Nước và Vệ sinh nước





149

1.1.2. Nước ngầm
Nước ngầm tồn tại và di chuyển trong lòng đất, có trữ lượng khá lớn (chiếm
1,7% lượng nước trên trái đất). Tuy nhiên, nguồn nước ngầm tại các khu vực có thể
khai thác được chiếm khoảng 4 triệu km
3
và con người cũng không dễ dàng khai thác

và sử dụng. Nước ngầm nông ở cách mặt đất từ 5 – 10 m, chất lượng nước tốt nhưng
cũng thay đổi, có liên quan mật thiết với nước mặt và các nguồn ô nhiễm trên mặt đất.
Lưu lượng còn phụ thuộc theo mùa. Nước ngầm đóng góp lớn cho dòng chảy sông
ngòi của nhiều con sông.
Nước ngầm sâu có chất lượng ổn định nhưng ở độ sâu từ 20 – 150 m so với mặt
đất nên việc khai thác gặp khó khăn. Nước ngầm ở một số vùng tại Việt Nam có hàm
lượng sắt cao từ 1 – 20 mg/l. Ở Việt Nam, do lượng nước ngầm phân bố không đồng
đều, khai thác tùy tiện và không được quản lý chặt chẽ, thêm vào đó là ý thức bảo vệ
tài nguyên môi trường còn thấp nên nhiều nơi hiện đang phải đối mặt với nguy cơ ô
nhiễm và cạn kiệt nguồn nước ngầm cùng với các nguy cơ sụt lấn mặt đất.
1.1.3 Nước sông hồ (nước mặt)
Đây là loại nước mà con người có thể sử dụng và khai thác dễ dàng thuận lợi để
phục vụ cho mọi hoạt động hàng ngày, nhưng lại chiếm tỷ lệ khá nhỏ 0,0132 %, với
trữ lượng chừng 178.520 km
3
nước phân phối đều khắp mọi nơi (Gleick 1996). Việt
Nam có một hệ thống sông ngòi dày đặc, ước tính cả nước có khoảng 2372 con sông
với chiều dài trên 10km. Trong số này có 13 con sông lớn với trữ lượng từ 10.000 km
2

trở lên và lưu vực của 13 hệ thống sông này chiếm hơn 80% diện tích lãnh thổ Việt
Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường 2006). 10 trong số 13 hệ thống sông này là sông
liên quốc gia, chảy qua lãnh thổ các nước như Trung Quốc (sông Kỳ Cùng-Bằng
Giang) Lào, Campuchia (sông Sê San) trước khi chảy vào lãnh thổ Việt Nam. Theo
Cục Quản lý Tài nguyên nước (2006) thì tổng lượng dòng chảy năm của 9 hệ thống
sông chính ở Việt Nam (sông Hồng, Thải Bình, Bằng Giang-Kỳ Cùng, Mã, Cả-La,
Thu Bồn, Ba, Đồng Nai, Cửu Long) là 847,4 tỷ m
3
, trong đó 507,4 tỉ m
3

là được hình
thành ngoài nước.
Theo Chiến lược Quốc gia về Tài nguyên nước đến 2020 của Hội đồng Quốc
gia về tài nguyên nước (2006) thì tỉ lệ nước mặt trung bình đầu người tính theo lượng
nước sinh ra trong lãnh thổ Việt Nam là xấp xỉ 3.840 m
3
/người/năm. Nếu tính cả dòng
chảy từ ngoài lãnh thổ thì khối lượng này đạt khoảng 10.240 m
3
/người/năm. Tuy
nhiên, với mức độ tăng dân số như hiện nay thì ước tình đến năm 2025 tỉ lệ này tương
ứng sẽ là 2.830 và 7.660 m
3
/người/năm. Theo tiêu chuẩn của Hội đồng Tài nguyên
nước Quốc tế thì những quốc gia có tỉ lệ nước bình quân đầu người dưới 4.000
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường






150

m
3
/người/năm sẽ được xếp vào nhóm những quốc gia thiếu nước (Hội đồng Quốc gia
về tài nguyên nước Việt Nam 2006). Như vậy, mặc dù hiện nay Việt Nam có lượng
nước dồi dào nhưng trong tương lai gần thì nước ta đứng trước nguy cơ trở thành một
trong các quốc gia thiếu nước. Ngoài ra, trong quá trình sống, sinh hoạt, lao động, vui

chơi giải trí v.v. con người đã thải các chất bẩn làm ô nhiễm nguồn nước mặt gây nên
tình trạng thiếu nước sạch ở nhiều nơi khắp cả nước.
1.1.4. Nước mưa
Bản chất của nước mưa là rất sạch. Nhưng nước mưa có nhược điểm là không
đủ số lượng cung cấp nước dùng trong cả năm, cho những tập thể đông người, số
lượng nước mưa phụ thuộc theo mùa trong năm, hàm lượng muối khoáng thấp. Việt
Nam có lượng mưa trung bình năm (tính trong nhiều năm) trên toàn lãnh thổ khoảng
1.940 mm. Do ảnh hưởng của địa hình đồi núi nên lượng mưa phân bố không đều trên
cả nước và biến đổi theo thời gian. Ví dụ theo Báo cáo môi trường quốc gia (2006),
nhiều nơi lượng mưa có thể đạt 4.000-5.000 mm/năm, thậm chí có nơi lượng mưa lên
tới 8.000mm/năm (ví dụ ở Bạch Mã). Tuy nhiên, nhiều nơi lượng mưa chỉ đạt 600-
800mm/năm (Nha Hố, Ninh Thuận). Lượng mưa cũng biến đổi rõ rệt theo mùa trong
năm. Lượng mưa trong mùa mưa chiếm khoảng 75 – 85% tổng lượng mưa trong năm
và mùa mưa thường diễn ra từ tháng 4 đến tháng 10. Riêng các tỉnh ven biển miền
Trung thì mùa mưa kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12.
Nước mưa bị nhiễm bẩn bởi không khí bị ô nhiễm, cách thu hứng chứa đựng không
đảm bảo vệ sinh. Tuy vậy, ở những vùng khan hiếm nước cần tận dụng nước mưa để
ăn uống.
1.2. Cung cấp nước cho các vùng đô thị và nông thôn
1.2.1 Giới thiệu chung
Trong hơn 45 năm qua tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã không ngừng tập trung
vào vấn đề cấp nước sinh hoạt và những ảnh hưởng tới sức khoẻ con người. Một trong
những mục tiêu chính của WHO là “Tất cả mọi người, không phân biệt già, trẻ, điều
kiện kinh tế-xã hội đều có quyền có đủ nước an toàn cho sinh hoạt.” Theo WHO, tỉ lệ
dân được cung cấp nước tăng từ 79% (4,1 tỉ người) năm 1990 đến 82% (4,9 tỉ người)
năm 2000. Vào đầu năm 2000, khoảng 1/6 dân số thế giới (1,1 tỉ người) đã không
được cung cấp nước sạch mà chủ yếu là ở các nước châu Á và châu Phi. Trong 10 năm
qua, dịch vụ cung cấp nước sạch ở nông thôn tăng lên nhưng ở thành phố lại giảm đi.
Tuy nhiên, tỉ lệ người dân nông thôn được cung cấp nước sạch vẫn ít hơn rất nhiều so
với ở thành phố.

Nước và Vệ sinh nước





151

WHO dự đoán rằng trong vòng 25 năm tới, dân số đô thị ở châu Á sẽ tăng lên
gấp đôi, ở châu Phi sẽ tăng lên hơn gấp đôi. Theo như dự đoán này thì các thành phố ở
Châu Phi và Châu Á sẽ đứng trước một thách thức rất lớn nhằm đáp ứng nhu cầu về
nước sinh hoạt cho nhân dân. Theo mục tiêu của Hội đồng Quốc tế về Cung cấp nước
sạch và Công trình Vệ sinh (WSSCC) thì đến năm 2025 tất cả người dân trên thế giới
sẽ được cung cấp nước sạch, nghĩa là sẽ có thêm khoảng 3 tỉ người sẽ có nước sạch để
sinh hoạt hay trung bình có thêm 330.000 người được cung cấp nước sạch mỗi ngày
trong vòng 25 năm tới. Theo thống kê năm 2000 của WHO và Quỹ nhi đồng Liên hợp
quốc (UNICEF) thì trên thế giới đã có 23 quốc gia đạt mức 100% dân số được sử dụng
nước sạch hoặc nguồn nước có bảo vệ.
Theo số liệu thống kê của Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh Môi trường
Nông thôn (2005) cả nước đã có 62% dân số nông thôn được cấp nước sạch. Đông
Nam Bộ là vùng có tỉ lệ số dân sử dụng nước sạch cao nhất (68%) và Tây Nguyên là
vùng có tỷ lệ số dân sử dụng nước sạch thấp nhất (52%), xem Bảng 6.1.
Bảng 6.1. Tỉ lệ dân số nông thôn được hưởng nước sạch theo vùng sinh thái
Địa điểm % dân số nông thôn (2005)
Tổng cộng 62
Miền núi phía Bắc 56
Đồng bằng sông Hồng 66
Bắc Trung Bộ 61
Duyên hải miền Trung 57
Tây Nguyên 52

Đông Nam Bộ 68
Đồng bằng SCL 66
Nguồn: Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh Môi trường Nông thôn (2005)

1.2.2. Chương trình mục tiêu Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
giai đoạn 2006-2010
Để tăng nhanh tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch và số hộ gia đình
có nhà tiêu hợp vệ sinh, thực hiện mục tiêu cải thiện điều kiện sống và sức khoẻ của
người dân nông thôn nhằm góp phần thực hiện công cuộc xoá đói giảm nghèo và từng
bước hiện đại hoá nông thôn, từ năm 1999, Việt Nam đã triển khai thực hiện Chương
trình mục tiêu Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (NS&VSMTNT)
giai đoạn 1999 – 2005 theo Quyết định số 237/1998/QĐ-TTG ngày 03 tháng 12 năm
1998 của Thủ tướng Chính phủ. Các mục tiêu chính của Chương trình đề ra đều đã cơ
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường






152

bản hoàn thành. Để phát huy những thành quả đạt được của Chương trình Mục tiêu
Quốc gia NS&VSMTNT giai đoạn 1999 – 2005 và giải quyết những khó khăn còn tồn
đọng, thực hiện Chiến lược Quốc gia NS&VSMTNT, góp phần hoàn thành các mục
tiêu đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006 – 2010, Bộ Nông
nghiệp và PTNT đã chủ trì xây dựng Chương trình mục tiêu Quốc gia NS&VSMTNT
giai đoạn 2006 – 2010.
Chương trình này đã được phê duyệt với mục tiêu chung là: (1) Nâng cao điều
kiện sống cho người dân nông thôn thông qua cải thiện các dịch vụ cấp nước sạch, vệ

sinh; nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của cộng đồng về bảo vệ môi trường, vệ
sinh công cộng và vệ sinh cá nhân; và (2) Giảm tác động xấu do điều kiện cấp nước và
vệ sinh kém gây ra đối với sức khoẻ của dân cư nông thôn và giảm thiểu tình trạng ô
nhiễm môi trường trong cộng đồng. Mục tiêu cụ thể của Chương trình là đến 2010
85% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh với số lượng 60 lít/người/ngày,
trong đó có 50% dân số có nước sạch đạt tiêu chuẩn 09/2005/QĐ-BYT. Cố gắng tập
trung để đến 2010 tất cả các nhà trẻ, trường tiểu học, trường mầm non, trạm xá, trụ sở
xã ở nông thôn có đủ nước sạch và có đủ nhà tiêu hợp vệ sinh; từng bước giảm thiểu
sự ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề chế biến lương thực,
thực phẩm quy mô thôn, xã. Cũng theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, mục
tiêu đề ra trong Chiến lược Quốc gia cấp NS&VSMTNT đến năm 2020 là đảm bảo
100% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc gia
với số lượng tối thiểu là 60 lít/người/ngày và sử dụng hố xí hợp vệ sinh.
1.2.3. Hình thức cấp nước cho đô thị Việt Nam
Nước cung cấp cho dân cư ở thành phố - đô thị được lấy từ trạm cấp nước của
thành phố. Trạm cấp nước có thể chọn nguồn nước tốt nhất về địa điểm cũng như về
chất lượng. Nước được phân phối trong đường ống có sự kiểm soát của chuyên môn
về tiêu chuẩn nước ăn uống và sinh hoạt. Tuỳ theo nguồn nước cung cấp cho trạm cấp
nước (nước ngầm hay nước mặt) mà trạm cấp nước có những công đoạn sản xuất
nước như mô tả ở Hình 6.2.
Hệ thống cung cấp nước máy cho nhân dân thành phố gồm: Nơi bơm nước từ
sông, giếng, nơi lọc nước, nơi tiệt khuẩn nước và đường ống dẫn nước tới tận nơi
dùng. Sơ đồ một hệ thống cung cấp nước lấy từ sông hay hồ như sau: ở chỗ sạch nhất
của sông/hồ đặt bơm hút nước và dẫn nước về nhà máy. Nếu nước đủ tiêu chuẩn vệ
sinh, nước sẽ chảy vào bể chứa nước sạch, rồi lại bơm vào các ống dẫn ngầm để tới
các vòi nước. Ở một vài nhà máy nước, nếu nước đủ tiêu chuẩn vệ sinh, người ta bơm
Nc v V sinh nc






153

nc sụng lờn i cha nc cao hn cỏc nh trong thnh ph, nc theo trng
lc t chy xung ng dn n cỏc vũi nc v khụng cn n bm.

















Thng nc bm lờn khụng ỳng tiờu chun v sinh v cn phi ch hoỏ (lc
v tit khun) trc khi vo b cha v ng dn. H thng cung cp nc s gm thờm
cỏc b lc sch (nh b lng, b lc). Bm nc sụng (hay h) lờn b lng ri nc
chy sang b lc. Nc lc sch chy vo mt ng chớnh nhn liu clo cn thit
tit khun, ri ti b cha v bm vo ng dn. Phi gi gỡn ng dn nc cho tt
ngn nga nc bn trờn mt t khụng th ngm vo. Mỏy bm nc bao gi cng
phi cú sc y nc t ng dn lờn cỏc tng gỏc cao. Nu dựng nc ngm

cung cp nc ung cho thnh ph thỡ cỏch xõy ct nh mỏy nc cú hi khỏc. Ging
khoan l phng phỏp chớnh ly nc ngm. Ging ng thng, hỡnh tr v xung
ti tng nc sõu. Thnh ging l nhng ng bng kim loi.
Theo thng kờ ca V K hoch - Thng kờ (B Xõy dng 2006), cỏc ụ th
Vit Nam cú trờn 300 nh mỏy nc vi tng cụng sut thit k t 4,2 triu m
3
/ngy
ờm, cụng sut khai thỏc t 3,4 triu m
3
/ngy ờm. Mc tiờu phn u l a dch v
cp nc ụ th t t l bao ph 85% vi tiờu chun 150 lớt/ngi/ngy v cụng sut
t 6,3 triu m
3
/ngy. Trong vũng 10 nm qua, VN ó u t khong 1 t USD phỏt
trin h thng cp nc ụ th vi khong 200 d ỏn. Hin tt c 64 tnh, thnh ph
Nguồn n ớc ngầm
Nguồn n ớc mặt
Giếng khoan, trạm bơm cấp
Bộ phận khử sắt Bộ phận lắng sơ bộ
Sông, hồ trạm bơm cấp 1
Khử khuẩn
Mạng l ới phân phối
Đánh phèn làm trong
Bể chứa

Bể lắng
Bể lọc
Hình 6.2. Các công đoạn sản xuất n ớc
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường







154

đều có các dự án cấp nước đô thị và trên toàn quốc có khoảng 240 nhà máy nước. Mặc
dù vậy, thực trạng thiếu nước sinh hoạt ở các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng v.v. vẫn xẩy ra thường xuyên. Ngoài ra, phần lớn đường ống cấp
nước được xây dựng cách đây hơn 30 năm đã xuống cấp nghiêm trọng, vừa gây thất
thoát, vừa khiến chất lượng nước sạch không bảo đảm tiêu chuẩn. Theo các số liệu
thống kê thì tỉ lệ thất thoát và thất thu nước ở các đô thị vào khoảng 30 - 50% khiến
tình trạng thiếu nước tại các đô thị càng trầm trọng Như vậy, công tác cấp nước đô thị
ở Việt Nam hiện vẫn còn đang gặp rất nhiều thách thức.

1.2.4. Các hình thức cấp nước cho nông thôn
Theo những cuộc điều tra trong năm gần đây thì tỉ lệ người dân nông thôn sử
dụng nước máy vẫn còn thấp. Nguồn nước chủ yếu vẫn là nước giếng khoan và nước
giếng khơi. Bảng 6.2. mô tả phần trăm nguồn cung cấp nước nông thôn qua 3 cuộc
điều tra từ 2002 đến 2006.


Bảng 6.2. Phần trăm nguồn cung cấp nước nông thôn qua 3 cuộc điều tra
Loại nguồn nước Điều tra y tế quốc
gia 2002
Điều tra mức sống
hộ gia đình 2004
Điều tra vệ sinh
môi trường hộ

gia đình 2006
Nước máy 3,7 6,3 11,7
Giếng khoan 22,4 24,4 33,1
Giếng khơi 38,8 36,6 31,2
Nước mưa 18,9 18,2 1,8
Suối đầu nguồn 2,9 0,7 7,5
Sông, ao, hồ 12 9,2 11
Nguồn: Cục Y tế Dự phòng Việt Nam 2007
Tuỳ theo tình hình cụ thể về nguồn nước và chất lượng nước của từng địa
phương mà lựa chọn hình thức cung cấp nước ăn uống và sinh hoạt cho phù hợp. Có
thể áp dụng một trong các hình thức cung cấp nước sau đây.
• Bể chứa nước mưa
Nước ta nằm trong khu vực mưa tương đối nhiều 1900 – 2000 mm/năm. Tính
trung bình lượng mưa 1600 mm/năm. Tổng lượng nước ước tính là 600 tỷ m
3
.
Bể chứa nước mưa có thể áp dụng cho các vùng:
Nc v V sinh nc





155

- o ging b nc mn (vựng ven bin, hi o, ng bng nam b )
- o sõu khụng gp nc ngm
Ging khi
L hỡnh thc cung cp nc ph bin nc ta hin nay:
- Ging khi xõy khu:

c ỏp dng cho vựng cú ngun nc ngm cỏch mt t t 5 10 m. Ging
xõy bng khu gch hay bng cng bờ tụng. Ging cú sõn, nn bng gch hay ciment,
cú gu mỳc nc , ging nờn xa ngun bn 10 15 m. Hng nm tng v sinh
ging, vột bựn ỏy, sa cha thnh vỏch, sõn ging, rónh thoỏt nc bn. (Xem s
ging khi xõy khu, Hỡnh 6.3).
- Ging khi sõu 3 4 m: (Hỡnh 6.4)
ỏp dng cho vựng ven bin, hi o vỡ o sõu d b nhim mn. ng kớnh
ging 1 2 m. Ging sõu 3 4 m.
- Ging ho lc: (Hỡnh 6.5)
p dng cho nhng vựng o sõu khụng cú nc ngm, phi dựng nc ao, h,
nc sui, nc ging t . . . Nc c chy vo ging qua mt ho lc cỏt di
ỏy ging. i vi vựng ven bin thỡ ho lc cn c bt kớn nhim mn.
- Ging chõn i, chõn nỳi: (Hỡnh 6.6)
p dng cho vựng cú nỳi, gũ i . . . a im o ging cn chn ni cú nhiu
cõy c mc quanh nm, hoc ni cú mch nc nh chy ra. o ging chõn i, xung
quanh p b xõy thnh giộng ngn nc bn chy vo ging. Phớa trờn khụng cú
ngun nhim bn.
- Ging bờn sụng, bờn sui, bờn h
Nc ta cú hng nghỡn con sụng ln nh, cú 4000 5000 h cha nc t nhiờn
v nhõn to, cú tr lng nc rt ln cung cp nccho cụng nghip, nụng nghip
v sinh hot hng ngy ca con ngi. Ti nhng a phng ny cú th ỏp dng ging
ho lc, ly nc t sui, sụng, h









0,8m
1m
Rãnh thoát n ớc
Đất sét bao
quanh

N ớc ngầm nông
Hình 6.3. Sơ đồ giếng khơi xây khẩu

- Giáo trình Sức khoẻ môi trường






156





Nước và Vệ sinh nước





157













Hình 6.5. Giếng hào lọc

Hình 6.6. Giếng chân đồi, núi
• Bể chứa nước, đập chứa nước khe núi (Hình 6.7)
Ở nhiều vùng có nguồn nước chảy quanh năm không cạn, có thể xây bể chứa
hoặc đập ngăn nước rồi dẫn nước về khu vực dân cư bằng đường ống. Nước có thể tự
chảy nhờ sự chênh lệch về độ cao từ 30 – 60 m. Để thu nước, đập ngăn nước cần có
mái che, xung quanh có hàng rào bảo vệ cho hệ thống thu nước.
1 m - 2 m
1m
0,7 m
3 -4 m
H×nh 6.4. GiÕng kh¬i s©u 3 - 4 m
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường







158


Hình 6.7. Bể chứa nước, đập chứa nước khe núi
• Giếng khoan đặt máy bơm tay (Hình 6.8)

Hình 6.8. Giếng khoan đặt máy bơm tay
Dựa vào đặc điểm của nước ngầm sâu là ổn định tương đối về trữ lượng và chất
lượng nước, người ta đã khoan sâu để lấy nước ngầm phục vụ cho nông thôn. Giếng
khoan được đặt máy bơm tay, giảm sức lao động, chất lượng nước ổn định và vệ sinh.

2. CHẤT LƯỢNG NƯỚC, VỆ SINH NƯỚC VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA CHÚNG
VỚI SỨC KHOẺ CỘNG ĐỒNG
2.1. Chất lượng nước và tiêu chuẩn
Tuỳ theo yêu cầu của việc sử dụng nước vào các mục đích khác nhau như nông
nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp, văn hoá, thể dục thể thao, phục vụ ăn uống và sinh
hoạt mà quy định những tiêu chuẩn của ngành. Đối với nước ăn uống và sinh hoạt có
tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn địa phương.
Tiêu chuẩn Quốc tế về nước sinh hoạt là tiêu chuẩn của tổ chức Y tế Thế giới (WHO),
Nước và Vệ sinh nước





159

ban hành năm 1958, và bổ sung sửa đổi năm 1963, 1971 và 1984. Tiêu chuẩn bao
gồm 3 nhóm chỉ tiêu: vật lý, hoá học (chất vô cơ tan, chất hữu cơ) và sinh học.

Năm 2002, với sự giúp đỡ của Unicef, Bộ Y tế đã xây dựng và ban hành Tiêu
chuẩn vệ sinh nước ăn uống theo Quyết định số 1329/2002/BYT-QĐ ngày 18/4/2002
của Bộ trưởng Bộ Y tế để giám sát chất lượng nước dùng cho ăn uống và sinh hoạt.
Tiêu chuẩn này quy định ngưỡng tối đa cho phép của 112 chỉ tiêu vật lý, hoá học và
sinh học. Đây là chìa khoá pháp lý co cả người tiêu dùng cũng như nhà sản xuất và
cung cấp nước sạch. Tuy nhiên, phạm vi áp dụng chủ yếu là đối với đô thị, công trình
cấp nước tập trung cho 500 người trở lên, do vậy đối với vùng nông thôn hiện chưa
phải là đối tượng áp dụng bắt buộc.
Để khắc phục hạn chế này, Bộ Y tế ban hành Tiêu chuẩn ngành: Tiêu chuẩn vệ
sinh nước sạch theo Quyết định số 09/2005/BYT –QĐ ngày 11/3/2005 của Bộ trưởng
Bộ Y tế. Tiêu chuẩn này chỉ quy định 22 chỉ tiêu cơ bản về cảm quan, thành phần vô
cơ và vi sinh vật. Tiêu chuẩn này áp dụng đối với các hình thức cấp nước sạch hộ gia
đình, các trạm cấp nước tập trung phục vụ tối đa 500 người và các hình thức cấp nước
sạch khác. Nước sạch quy định trong tiêu chuẩn này chỉ là nước dùng cho các mục
đích sinh hoạt cá nhân và gia đình, không sử dụng làm nước ăn uống trực tiếp. Nếu
dùng trực tiếp cho ăn uống phải xử lý để đạt tiêu chuẩn vệ sinh nước ăn uống ban hành
kèm theo Quyết định số 1329/QĐ -BYT ngày 18/4/2002 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Nhìn chung, về mặt số lượng có thể chấp nhận được ở mức 30l/người/ngày ở
nông thôn và 100 - 150l/người/ngày ở thành thị. Về mặt chất lượng, nước dùng để ăn
uống và sinh hoạt phải đảm bảo nhưng yêu cầu chung sau đây:
• Nước phải có tính cảm quan tốt, phải trong, không có màu, không có mùi, không
có vị gì đặc biệt để gây cảm giác khó chịu cho người sử dụng.
• Nước phải có thành phần hoá học không độc hại cho cơ thể con người, không chứa
các chất độc, chất gây ung thư, chất phóng xạ Nếu có thì phải ở mức tiêu chuẩn
nồng độ giới hạn cho phép theo quy định của Nhà nước – Bộ Y tế.
• Nước không chứa các loại vi khuẩn, virus gây bệnh, các loại ký sinh trùng và các
loại vi sinh vật khác, phải đảm bảo an toàn về mặt dịch tễ học.
Chất lượng nước theo nguồn và theo vùng sinh thái
Theo Báo cáo “Điều tra chất lượng nước sinh hoạt nông thôn” của Cục Y tế Dự
phòng Việt Nam (2006) thì tỉ lệ mẫu nước đạt tiêu chuẩn vệ sinh cả về vi sinh và hóa

lý theo Quyết định 09/2005/QĐ-BYT theo tất cả các nguồn nước là rất thấp (15,5%,
xem Hình 6.9), trong đó có 56,5% số mẫu đạt tiêu chuẩn hóa lý và 29% mẫu nước đạt
tiêu chuẩn vi sinh.
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường






160



Hình 6.9. Tỉ lệ mẫu nước đạt tiêu chuẩn vệ sinh theo nguồn nước
(Nguồn: Cục Y tế Dự phòng Việt Nam 2006)
Nước máy là nguồn nước có tỉ lệ mẫu nước đạt tiêu chuẩn vệ sinh cao nhất nhưng
cũng chỉ ở mức 65,2%. Giếng khơi là nguồn nước bị ô nhiễm trầm trọng nhất, với chỉ
7,3% số mẫu điều tra đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Các nguồn khác như nước mưa, nước mặt
và nước giếng khoan cũng bị ô nhiễm với 27,3%, 13,8% và 7,7% số mẫu đạt tiêu
chuẩn vệ sinh.
Tỉ lệ nguồn nước đạt tiêu chuẩn vệ sinh theo vùng sinh thái được trình bày trong Hình
6.10. Theo Cục Y tế Dự phòng Việt Nam (2006) thì Đông Nam Bộ là vùng có tỉ lệ
mẫu nước đạt tiêu chuẩn vệ sinh cao nhất, tiếp đến là Đồng bằng sông Cửu Long và
thấp nhất là vùng Đông Bắc.

Nước và Vệ sinh nước






161


Hình 6.10. Tỉ lệ mẫu nước đạt tiêu chuẩn vệ sinh theo vùng sinh thái
(Nguồn: Cục Y tế Dự phòng Việt Nam 2006)

2.2. Vệ sinh nước và mối quan hệ của chúng với sức khoẻ cộng đồng
Rất nhiều nghiên cứu trên thế giới đã kết luận rằng chất lượng nước và dung
lượng nước sinh hoạt có ảnh hưởng rất lớn tới sức khoẻ con người. Nhiều vụ dịch bệnh
liên quan đến nước bị ô nhiễm như bệnh tả, thương hàn, lị, ỉa chảy, viêm gan A…đã
và đang xẩy ra ở cả những nước phát triển và đang phát triển. Thiếu nước cũng gây
ảnh hưởng trầm trọng, đặc biệt là sự phát sinh và lây nhiễm các bệnh về da, mắt và các
bệnh truyền qua đường phân miệng. Ước tính trên thế giới có khoảng 6 triệu người bị
mù do bệnh đau mắt hột và khoảng 500 triệu người có nguy cơ bị mắc bệnh này. Theo
thống kê sức khoẻ toàn cầu của trường Đại học Harvard, của Tổ chức Y tế Thế giới và
Ngân hàng Thế giới thì hàng năm có khoảng 4 tỉ trường hợp bị ỉa chảy, làm 2,2 triệu
người chết mà chủ yếu là trẻ em dưới 5 tuổi (tương đương cứ 15 giây thì có một trẻ em
bị chết). Con số này chiếm khoảng 15% số trẻ em chết vì tất cả các nguyên nhân ở
những nước đang phát triển. Nâng cao chất lượng nước sinh hoạt và cung cấp các công
trình vệ sinh phù hợp sẽ giảm 1/4 đế 1/3 số ca bị ỉa chảy hàng năm.
2.2.1. Vai trò của nước đối với con người
Con người sử dụng nước cho nhiều mục đích khác nhau. Theo ý kiến kết luận
của Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Hội đồng quốc gia về tài nguyên
nước tại kỳ họp lần thứ nhất của Hội đồng Quốc gia Tài nguyên nước năm 2003 thì
“Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, quyết định sự phát triển bền vững của đất
nước”. Theo Chiến lược Quốc gia về Tài nguyên nước đến 2020 của Hội đồng Quốc
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường







162

gia về tài nguyên nước (2006) thì tài nguyên nước là thành phần chủ yếu của môi
trường sống, là yếu tố đặc biệt quan trọng bảo đảm thực hiện thành công các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh
quốc gia.
Nước dùng trong sinh hoạt bao gồm nước uống, nước dùng trong nấu nướng,
tắm giặt và dùng trong nhà vệ sinh. Nước dùng cho công nghiệp chủ yếu phục vụ các
ngành sản xuất giấy, xăng dầu, hoá chất và luyện kim. Nước dùng để xử lý rác thải chủ
yếu là dùng trong vận chuyển phân và nước tiểu từ các hố xí tự hoaị tới nhà máy xử lý.
Nước dùng cho mục đích vui chơi giải trí như để bơi thuyền, lướt ván, bơi lội v.v.
Nước dùng để tưới tiêu trong nông nghiệp và ngoài ra còn dùng cho một số mục đích
khác như chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, vận chuyển, sản xuất điện trong các nhà máy
thuỷ điện và dùng trong các quá trình làm lạnh.
Đối với sự sống thì nước cũng như không khí rất cần thiết cho con người và các
sinh vật khác. Khoảng 60 đến 70% trọng lượng cơ thể chúng ta là nước và chỉ cần thay
đổi khoảng 1-2% lượng nước trong cơ thể cũng có thể gây ảnh hưởng đến sức khoẻ và
gây khát. Mất 5% nước trong cơ thể có thể gây hôn mê và nếu mất một lượng khoảng
10-15% thì có thể dẫn tới tử vong. Mặc dù có nhiều bằng chứng cho thấy con người có
thể nhịn đói trong vài tháng nhưng trong điều kiện khí hậu khô nóng thì chúng ta chỉ
có thể sống được vài ngày mà không tiêu thụ (ăn và uống) một tí nước nào. Trung bình
mỗi người tiêu thụ khoảng 2 lít nước mỗi ngày và với dân số thế giới hiện nay vào
khoảng 6 tỉ người thì mỗi ngày chúng ta tiêu thụ hết 12 triệu mét khối nước uống. Do
đó, cung cấp nước đầy đủ và trong sạch là một trong những yếu tố cơ bản để bảo vệ
sức khoẻ. Chúng ta có thể tóm tắt những vai trò chính của nước đối với cơ thể là:

• Nước được coi như là thực phẩm cần thiết đối với con người. Nước đưa vào trong
cơ thể những chất bổ hoà tan và thải ra ngoài cơ thể những chất cặn bã dưới dạng
hòa tan và nửa hoà tan.
• Nước cung cấp cho cơ thể những vi yếu tố cần thiết như: flo, canxi, mangan v.v.
• Nước rất cần cho vệ sinh cá nhân và vệ sinh công cộng
• Nước có thể đưa vào cơ thể những chất độc hại, những vi khuẩn gây bệnh khi nước
không được trong sạch.
2.2.2. Bệnh có liên quan tới nước
Năm 1980 Tổ chức Y tế Thế giới thông báo 80% bệnh tật của con người có liên
quan tới nước. Một nửa số giường bệnh trên thế giới là các bệnh có liên quan tới nước
Nước và Vệ sinh nước





163

và 25.000 người chết hàng ngày là do các bệnh có liên quan tới nước. Bình quân trên
thế giới cứ 5 người thì 3 người không có đủ nước dùng hàng ngày.
Các bệnh liên quan với nước có thể được chia thành các nhóm chính như sau:
• Bệnh lây lan qua nước ăn uống
Những căn bệnh này xẩy ra do ăn uống nước bị nhiễm sinh vật gây bệnh, ví dụ
như các bệnh đường ruột (thương hàn, tả, viêm gan A). Nước là môi trường làm lây
lan và gây ra các đại dịch bệnh đường ruột ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới.
Các vi khuẩn đường ruột tồn tại trong nước khá lâu (xem Bảng 6.3).
Bảng 6.3. Thời gian sống trong nước máy của một số vi khuẩn đường ruột
Tên vi khuẩn Thời gian sống (ngày)
Vi khuẩn đại tràng 2 – 262
Thương hàn 2 – 93

Lỵ 5 – 12
Tả 4 – 28

Người ta đã tìm thấy các vi khuẩn gây bệnh tả, thương hàn, phó thương hàn,
lỵ trong nước máy của thành phố có nguồn nước bị nhiễm bẩn, hoặc nơi áp dụng
biện pháp khử trùng không đảm bảo. Đồng thời, có nhiều xét nghiệm cho thấy các vi
khuẩn gây bệnh ỉa chảy trẻ em như leptospira, brucella, tularensis, các siêu vi khuẩn
bại liệt, viêm gan A, coksaki tồn tại trong nước tự nhiên và trong nước uống. Biện
pháp dự phòng các căn bệnh này là tránh làm nhiễm bẩn nguồn nước đặc biệt là với
phân người và động vật, hoặc xử lý tốt nước sinh hoạt trước khi sử dụng và thực hiện
ăn chín uống sôi.
• Bệnh do tiếp xúc với nước
Những bệnh này có thể lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp với các sinh vật gây
bệnh trong nước. Ví dụ bệnh giun Guinea và bệnh sán máng (schistosomiases) có thể
xẩy ra ở những người bơi lội dưới nước có loài ốc bị nhiễm những sinh vật gây các
bệnh này sinh sống. Các ấu trùng rời khỏi cơ thể ốc vào nước và sẵn sàng xuyên qua
da của con người. Biện pháp phòng chống những bệnh này là thu gom, xử lý phân
người và động vật hợp vệ sinh, đồng thời ngăn không cho mọi người tiếp xúc với nước
bị nhiễm bẩn.
• Các bệnh do côn trùng “sống” trong nước truyền
Các bệnh trong nhóm này phải kể đến là bệnh sốt rét, bệnh sốt dengue, sốt xuất
huyết dengue, bệnh giun chỉ. Côn trùng trung gian truyền bệnh là các loại muỗi, trong
đó nước đóng vai trò là môi trường sống của các sinh vật truyền bệnh. Muỗi sống
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường







164

trong các vùng có bệnh dịch lưu hành, quá trình sinh sản của muỗi phải qua môi
trường nước. Muỗi đẻ trứng trong nước, trứng nở thành bọ gậy, bọ gậy thành cung
quăng và thành muỗi (xem Hình 6.11). Biện pháp dự phòng là loại bỏ côn trùng truyền
bệnh hoặc tránh không tiếp xúc với chúng.











Hình 6.11. Vòng đời của muỗi Aedes aegypti truyền bệnh sốt dengue, sốt xuất huyết
dengue
(Ảnh lấy từ nguồn: NSW Health 2007; Institut Pasteur de Nouvelle Calédonie 2003)
• Các bệnh do thiếu nước trong tắm giặt
Một số ví dụ về loại bệnh này là Shigellosis, bệnh ngoài da, bệnh mắt hột và
bệnh viêm màng kết. Theo điều tra dịch tễ học, các bệnh ngoài da, bệnh về mắt có tỷ
mắc bệnh liên quan chặt chẽ với việc cung cấp và sử dụng nước sạch. Nguyên nhân
chủ yếu là do ký sinh trùng, các vi khuẩn, virus, nấm mốc gây ra, nhưng thiếu nước
sạch để vệ sinh cá nhân không kém phần quan trọng. Nghiên cứu tại các vùng trước
đây có tỷ lệ mắc các bệnh trên cao, sau khi được cải thiện việc cung cấp nước, vệ sinh
môi trường và giáo dục vệ sinh thì tỷ lệ mắc các bệnh trên đã giảm xuống rõ rệt.
• Bệnh do vi yếu tố và các chất khác trong nước
Bệnh do yếu tố vi lượng, hoặc các chất khác có trong nước gây ra cho người là

do thừa hoặc thiếu trong nước. Trong nhóm này có các bệnh sau:
- Bệnh bướu cổ
Bệnh phát sinh ở những nơi mà trong đất, trong nước, trong thực phẩm quá
thiếu iốt, ví dụ vùng núi cao, vùng xa biển. Nhu cầu hàng ngày của cơ thể là 200mcg
iốt, nếu không đủ tuyến giáp phải làm việc nhiều và làm cho bướu cổ to ra. Tuy vậy,
Nước và Vệ sinh nước





165

bệnh bướu cổ còn do các yếu tố khác như giới tính, địa dư, di truyền, khả năng kinh tế
và xã hội.
- Bệnh về răng do thiếu hoặc thừa flo
Flo cần thiết cho cơ thể để cấu tạo men răng và tổ chức của răng. Tiêu chuẩn
cho phép trong nước uống là 0,7 – 1,5 mg/l. Nếu flo nhỏ hơn 0,5 mg/l sẽ bị bệnh sâu
răng, nếu lớn hơn 1,5 mg/l sẽ làm hoen ố men răng và các bệnh về khớp.
- Bệnh do nitrat cao trong nước
Nitrat là sản phẩm phân huỷ cuối cùng của chất hữu cơ trong tự nhiên. Nitrat
cao trong nước còn do nước bị ô nhiễm nước thải. Trong nước có hàm lượng nitrat
trên 10 mg/l có thể gây bệnh tím tái ở trẻ em. Người ta thấy rằng hàm lượng
Methemoglobin trong máu cao ở cả trẻ em và người lớn khi dùng nước có hàm lượng
nitrat cao quá giới hạn cho phép.
- Bệnh do nhiễm độc bởi các chất độc hoá học
Nước có thể bị nhiễm bẩn bởi các yếu tố độc hại có tự nhiên ở trong đất (ví dụ
asen, sắt v.v.) và các chất hoá học dùng trong sinh hoạt hàng ngày, trong nước thải sản
xuất công nghiệp v.v.
Trong quá trình làm sạch nước để ăn uống nếu không kiểm soát chặt chẽ chất

lượng nước theo tiêu chuẩn vệ sinh thì các chất hoá học trong nước có nhiều khả năng
gây bệnh cho con người dưới dạng nhiễm độc cấp tính, bán cấp tính hoặc mãn tính. Ví
dụ, nước bị nhiễm dimêtyl thuỷ ngân người ta sẽ mắc bệnh Minamata, nước có quá
nhiều Catmi sẽ gây bệnh Itai – Itai. Trong nước có các chất gây ung thư, con người
cũng có thể bị ung thư khi dùng nước này.
Ở Việt Nam trong thời gian qua các phương tiện truyền thông cũng cảnh báo
nguy cơ nhiễm độc asen trong nước ngầm. Các nghiên cứu gần đây đã xác định tại
châu thổ sông Hồng, những vùng bị nhiễm nghiêm trọng nhất là phía nam Hà Nội, Hà
Nam, Hà Tây, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và Hải Dương. Ở Đồng
bằng sông Cửu Long cũng phát hiện nhiều giếng khoan có nồng độ asen cao nằm ở
Đồng Tháp và An Giang. Trong nước uống, asen không trông thấy được, không mùi
vị, nên không thể phát hiện được bằng mắt thường. Các tài liệu y văn cho thấy tiếp xúc
với Asen với hàm lượng > 50 ppb (>50mg/m
3
) trong thời gian dài, hay 500 ppb trong
thời gian ngắn gây tình trạng nhiễm độc Asen. Bệnh lý do nhiễm độc Asen gồm có
sừng hóa, ung thư da, ung thư nội tạng, một số bệnh tim mạch và có thể tử vong. Theo
ước tính có khoảng 10 triệu người dân Việt Nam có nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe do
phơi nhiễm với asen trong nước ngầm cao hơn tiêu chuẩn cho phép (tiêu chuẩn cho
phép của asen trong nước ăn uống là <10ppb).
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường






166

Phòng ngừa các bệnh liên quan đến nước cần đặc biệt quan tâm việc giám sát

chất lượng nước theo tiêu chuẩn vệ sinh. Quản lý, giám sát, thanh tra việc thu gom và
xử lý chất thải một cách hữu hiệu tránh làm ô nhiễm nước, ô nhiễm môi trường xung
quanh.
2.3. Các chỉ tiêu cơ bản để giám sát chất lượng nước
Thông thường để giám sát chất lượng nước về mặt vệ sinh người ta thường
quan tâm đến các chỉ tiêu cơ bản sau:
• Các chỉ tiêu vật lý: độ pH, độ đục, chất cặn lơ lửng, tổng hàm lượng cặn
• Các chỉ tiêu hoá học: độ oxy hoá, hàm lượng amoniac, hàm lượng nitrit, nitrat,
clorua, sắt tổng số, độ cứng toàn phần.
• Các chỉ tiêu vi sinh: tổng số coliforms, colifeacal chịu nhiệt hay E. coli
Những trường hợp đặc biệt nghi ngờ khác cần xét nghiệm thêm các chỉ tiêu
trong bảng tiêu chuẩn nước ăn uống số 1329/ BYT/ QĐ ngày 13/2/2002.
3. Ô NHIỄM NƯỚC, CÁC NGUỒN GÂY Ô NHIỄM NƯỚC VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
CHÚNG LÊN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
3.1. Ô nhiễm nước
3.1.1 Định nghĩa về ô nhiễm nước
Hiến chương Châu Âu về nước đã định nghĩa: “Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói
chung do con người với chất lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho
con người, cho công nghiệp, nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, nghỉ ngơi, giải trí, cho
động vật nuôi và các loài hoang dã”.
Theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam số 52/2005QH11 ngày 29 tháng 11
năm 2005 thì ô nhiễm môi trường được định nghĩa là: “sự biến đổi của các thành phần
môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con
người, sinh vật”. Còn theo Luật Tài nguyên nước của Việt Nam (1999) thì "Ô nhiễm
nguồn nước là sự thay đổi tính chất vật lý, hoá học và thành phần sinh học của nước vi
phạm tiêu chuẩn cho phép”.
Ô nhiễm nước có nguồn gốc tự nhiên: do mưa, tuyết tan, gió bão, lũ lụt đưa vào
môi trường nước chất thải bẩn, các sinh vật và vi sinh vật có hại kể cả xác chết của
chúng.
Ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo: quá trình thải các chất độc hại chủ yếu

dưới dạng lỏng như các chất thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vào
môi trường.
Nước và Vệ sinh nước





167

Theo bản chất các tác nhân gây ô nhiễm, người ta phân ra các loại ô nhiễm
nước như sau: Ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, Ô nhiễm hoá chất, Ô nhiễm sinh học, Ô nhiễm
bởi các tác nhân vật lý.
3.1.2. Hoạt động của con người và vấn đề ô nhiễm nước
Trong hoạt động sống của mình, hàng ngày con người đã thải vào môi trường
xung quanh một khối lượng nước bẩn tương đương với khối lượng nước sạch đã được
cung cấp. Nước bẩn thải ra từ các khu dân cư, đô thị, thành phố, các nhà máy xí nghiệp
v.v. có chứa một khối lượng lớn chất bẩn rất đa dạng. Khi nước bẩn chảy vào nguồn
nước sẽ làm thay đổi những đặc tính cơ bản của nguồn nước tự nhiên. Ví dụ như thay
đổi tính chất cảm quan của nước, làm cho nước có màu, mùi đặc biệt, hoặc thay đổi
thành phần hoá học của nước, làm tăng hàm lượng chất hữu cơ, muối khoáng xuất hiện
các hợp chất độc hại, hoặc thay đổi hệ sinh vật trong nước, xuất hiện các loại vi khuẩn
và virus gây bệnh. Ngày nay, với mật độ dân đô thị ngày càng tăng, chính phủ và cộng
đồng ngày càng quan tâm tới lĩnh vực bảo vệ môi trường, mối liên quan giữa chất
lượng môi trường và sức khoẻ ngày càng được hiểu rõ, đồng thời những tổn thất kinh
tế do ô nhiễm nước gây ra cũng được đánh giá chính xác hơn nên đã thúc đẩy cải thiện
các biện pháp áp dụng nhằm kiểm soát ô nhiễm.
3.2. Nguồn gây ô nhiễm nước
Nước có thể bị nhiễm bẩn bởi nhiều nguồn gốc khác nhau và mỗi nguồn gây ra
ô nhiễm nước lại có nhiều tác nhân ô nhiễm. Thông thường nước bị nhiễm bẩn bởi cả

nguồn gốc tự nhiên (như mưa bão, lũ lụt, núi lửa, xâm nhập mặn, hay do các yếu tố tự
nhiên trong đất như asen, sắt v.v.) và các nguồn gốc nhân tạo (nước thải và chất thải
sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, dịch vụ, giao thông, du lịch, chiến
tranh v.v.). Phần này tập trung mô tả các nguồn ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo.
• Chất thải trong sinh hoạt hàng ngày
Nước thải sinh hoạt chiếm tỉ lệ lớn trên tổng lưu lượng thải tại các lưu vực sông
lớn ở Việt Nam như sông Cầu, sông Nhuệ-Đáy, sông Đồng Nai, với tải lượng các chất
ô nhiễm hữu cơ cao, làm cho chất lượng nước tại các hệ thống sông này bị ô nhiễm
chất hữu cơ nghiêm trọng. Ngoài ra nước thải sinh hoạt cũng chứa nhiều coliform, các
virut và vi khuẩn gây bệnh. Chất thải trong sinh hoạt hàng ngày bao gồm:
- Nước dùng để tắm, rửa, giặt quần áo
- Nước qua chế biến thức ăn uống
- Nước lau cọ nhà cửa
- Nước tiểu, nước từ các hố xí tự hoại
- Rác bẩn trong nhà
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường






168

- Phân người và gia súc
Ở Việt Nam, hầu hết nước thải sinh hoạt đều không được xử lý mà đổ thẳng vào các
nguồn tiếp nhận làm mức độ ô nhiễm tại các con sông trên toàn quốc đang ngày càng
ở mức đáng báo động.
• Chất thải trong công nghiệp
Các ngành công nghiệp đã thải ra một khối lượng nước thải và rác thải rất lớn.

Tại một số nước phát triển, nước thải của các ngành công nghiệp đã chiếm một tỷ lệ
lớn, có nơi gấp 5 - 100 lần lượng nước thải sinh hoạt. Ví dụ, ở Pháp hàng năm thải ra
100 triệu m
3
nước thải, trong đó nước thải công nghiệp là 90 triệu m
3
. Tại Việt Nam,
tại một số lưu vực sông lớn, nước thải công nghiệp hiện có lượng thải đứng thứ 2 sau
nước thải sinh hoạt. Ví dụ, tỷ lệ các nguồn nước thải tính theo lưu lượng thải trong lưu
vực sông Nhuệ-Đáy là: sinh hoạt chiếm 56%, công nghiệp chiếm 24%, trồng trọt và
chăn nuôi chiếm 16%, nước thải làng nghề chiếm 4%. Theo dự báo của Bộ Tài nguyên
và Môi trường (2006) thì từ nay đến năm 2010, lượng nước thải công nghiệp tại các
tỉnh thuộc lực vực hệ thống sông Cầu, Nhuệ-Đáy và hệ thống sông Đồng Nai tiếp tục
gia tăng.
Nước thải công nghiệp hình thành do quá trình sử dụng nước trong sản xuất.
Điều kiện hình thành nước thải, số lượng và thành phần nước thải rất khác nhau. Cho
tới nay người ta biết tới trên 140 loại nước thải công nghiệp. Tại các lưu vực sông lớn
ở Việt Nam (ví dụ sông Cầu sông Nhuệ-Đáy), phần lớn nước thải công nghiệp là của
ngành khai thác mỏ và chế biến khoáng sản, ngành kim khí, ngành sản xuất giấy,
ngành chế biến thực phẩm và ngành sản xuất vật liệu xây dựng (xem Hình 6.12a và
6.12b.).
55%
29%
7%
4%
3%
2%
Khai thác mỏ, chế biến
khoáng sản
Luyện kim, cán thép, chế tạo

máy (nhóm ngành kim khí)
Sản xuất giấy
Chế biến nông sản, thực phẩm
và sản xuất rượu, bia
Sản xuất vật liệu xây dựng
Dệt may, bao bì
33%
15%
13%
13%
8%
18%
Cơ khí- chế tạo máy
Chế biến thực phẩm
Dệt nhuộm
Vật liệu xây dựng
Hoá chất và giấy
Các ngành sản xu ất
khác




Hình 6.12a. Tỷ lệ nư
ớc thải của một số nhóm
ngành sản xuất chính tại lưu vực sông Cầu
Nguồn: Cục Bảo vệ môi trường, 2005


Hình 6.12b. Tỷ lệ nư

ớc thải của một số
nhóm ngành sản xuất chính tại l
ưu
vực sông Nhuệ -Đáy
Nguồn: Cục Bảo vệ môi trường, 2006

Nước và Vệ sinh nước





169

Thành phần và tính chất của nước thải từ các ngành sản xuất khác nhau là khác
nhau và do đó cũng có tác động khác nhau tới chất lượng nước. Ví dụ, nước thải của
ngành cơ khí-chế tạo máy chứa nhiều dầu mỡ và chất rắn lơ lửng, nước thải của ngành
chế biến thực phẩm chứa nhiều chất hữu cơ, nước thải của ngành sản xuất dệt nhuộm
chứa nhiều loại hóa chất như xút, thuốc tẩy, phèn, nhựa thông, phẩm màu v.v. (Bộ Tài
nguyên môi trường 2006).
Rác thải công nghiệp: Trong quá trình sản xuất, nhiều phế thải, rác thải đã được
đưa vào môi trường xung quanh, trong đó có môi trường nước. Bã thải công nghiệp có
khối lượng khá lớn ví dụ như xỉ than của ngành nhiệt điện; vỏ hoa quả, bã mía
trong ngành công nghiệp thực phẩm, các hoá chất trong ngành công nghiệp hoá chất.
• Chất thải của ngành nông nghiệp và chăn nuôi
Trong nông nghiệp người ta đã sử dụng nhiều loại phân bón để tăng năng suất
cây trồng như phân người, phân gia súc, phân xanh, phân hoá học. Để bảo vệ hoa màu
người ta đã dùng nhiều loại hoá chất trừ sâu, diệt cỏ để tiêu diệt sâu bệnh và cỏ dại.
Sự dư thừa của phân bón và hoá chất trừ sâu diệt cỏ đã là những tác nhân gây ô nhiễm
nước.

• Nước thải y tế
Theo quy định, nước thải y tế là loại nước thải nguy hại, cần phải được xử lý triệt để
trước khi thải vào nguồn tiếp nhận. Tuy nhiên trong thực tế, hầu hết các cơ sở y tế trên
cả nước chưa có hệ thống xử lý nước thải, hoặc nếu có thì cũng ở quy mô nhỏ, công
suất chưa đáp ứng với lượng nước thải thải ra hằng ngày (Bộ Tài nguyên và Môi
trường 2006). Một số bệnh viện và trung tâm y tế đã có hệ thống xử lý nước thải
nhưng chưa triệt để. Ví dụ, theo Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí
Minh (2006) thì tổng lượng nước thải y tế thải ra trên toàn thành phố là 17.000
m
3
/ngày, trong đó đã có 13.000 m
3
/ngày đã được xử lý (chiếm khoảng 78%). Tuy
nhiên, tỷ lệ nước được xử lý đạt tiêu chuẩn TCVN 6772-2000 mới chỉ đạt 26% so với
tổng lượng nước thải. Phần lớn nước thải y tế đều được thải trực tiếp vào hệ thống tiếp
nhận nước thải sinh hoạt và đổ vào nguồn nước mặt trong lưu vực các sông làm gia
tăng nguy cơ lây lan dịch bệnh ra cộng đồng.
• Các nguồn gây ô nhiễm khác
Ngoài các nguồn gốc kể trên, nước còn bị ô nhiễm bởi các chất thải trong ngành
giao thông đường thuỷ. Các chất thải hàng ngày trên con tàu như phân, nước tiểu, rác,
nước rửa sàn tàu, dầu mỡ v.v. đều được đổ xuống sông biển. Không khí bẩn tại các
khu công nghiệp, đất bẩn bởi rác, phân trong các khu dân cư cũng là nguồn gốc gây ra
ô nhiễm nước và ô nhiễm môi trường.
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường







170

Rất nhiều con sông chảy qua các thành phố lớn ở những nước đang phát triển
đã và đang đóng vai trò như là hệ thống cống rãnh mở dẫn các loại nước thải của thành
phố. Rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp đã gia tăng tổng lượng ô nhiễm vượt xa
khả năng tự làm sạch của những con sông này. Theo Báo cáo Môi trường Quốc gia
2006 thì 3 lưu vực sông bị ô nhiễm vào loại nặng nhất Việt Nam là lưu vực sông Cầu,
sông Nhuệ-Đáy và hệ thống sông Đồng Nai (Bộ Tài nguyên Môi trường 2006). Trên
ba lưu vực sông này có hai vùng kinh tế trọng điểm và cũng là vùng tập trung đông
dân cư nhất. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các con sông đang ở mức báo động và
nhiều đoạn đã trở thành sông chết.

3.3. Các yếu tố gây ô nhiễm nước
• Do các chất hữu cơ dễ phân huỷ
Các chất hữu cơ tháo vào sông hồ có nguồn gốc từ thực vật như xác cây cỏ, hoa
quả, các chất mùn. Nguyên tố cơ bản của chất bẩn là cacbon. Các chất hữu cơ có
nguồn gốc động vật do các chất thải của con người như nước chế biến thức ăn, nước
tắm giặt, nước từ các nhà tiêu tự hoại, nước thải của các nhà máy chế biến thực phẩm,
lò giết mổ, trại chăn nuôi v.v. Nguyên tố cơ bản trong chất bẩn là nitơ. Các loại vi
khuẩn hoại sinh trong nước đóng vai trò chính trong việc phân huỷ các chất hữu cơ
thành các chất vô cơ vô hại, đồng thời cũng làm tăng thêm lượng vi khuẩn trong 1 đơn
vị thể tích nước.
Trong nước bị ô nhiễm ít, hàm lượng ôxy hoà tan trong nước ở trên mức giới
hạn cho phép, các chất hữu cơ sẽ được phân huỷ bởi các vi khuẩn hiếu khí để tạo thành
các sản phẩm cuối cùng như nitrat sunphát, phốt phát, CO
2
v.v. Khi nguồn nước bị ô
nhiễm nặng và liên tục bởi các chất hữu cơ, hàm lượng oxy hoà tan trong nước giảm
xuống còn rất thấp và quá trình phân huỷ các chất hữu cơ do các vi khuẩn yếm khí
đảm nhiệm và tạo thành các sản phẩm trung gian, làm cho nước có mùi hôi, mầu đen,

xuất hiện các khí thối như H
2
S, NH
3
, CH
4
và andehyt.
Để đánh giá mức độ nhiễm bẩn trong nước bởi các chất hữu cơ, người ta
thường dùng các chỉ số sau:
- Nồng độ ôxy hoà tan trong nước
- Nhu cầu ôxy về hoá học (COD)
- Nhu cầu ôxy về hoá sinh học (BOD)
Trong đó:
Nước và Vệ sinh nước





171

DO là lượng ôxy hoà tan trong nước cần thiết cho sự hô hấp của các sinh vật
sống trong nước như cá, lưỡng cư, động thực vật thuỷ sinh, côn trùng v.v. DO thường
được tạo ra do sự hoà tan ôxy từ khí quyển hoặc do quang hợp của tảo. Nồng độ ôxy
hoà tan trong nước thường nằm trong khoảng 8-10 ppm. Tuy nhiên, nồng độ này thay
đổi phụ thuộc vào nhiệt độ, sự phân huỷ các chất và sự quang hợp của tảo v.v. Khi
nồng độ DO thấp, các loài sinh vật sống trong nước giảm hoạt động hoặc thậm chí có
thể bị chết. Do vậy, DO là một chỉ số quan trọng để đánh giá sự ô nhiễm nước của các
thủy vực.
BOD (Biological Oxygen Demand) là lượng ôxy cần thiết để vi sinh vật oxy

hoá các chất hữu cơ theo phản ứng
Vi khuẩn
Chất hữu cơ + O
2
CO
2
+ H
2
O + tế bào mới + sản phẩm trung gian
Trong môi trường nước, khi quá trình ôxy hoá sinh học xảy ra thì các vi sinh
vật sử dụng ôxy hoà tan, vì vậy xác định tổng lượng oxy hoà tan cần thiết cho quá
trình phân huỷ sinh học là phép đo quan trọng đánh giá ảnh hưởng của một dòng thải
đối với nguồn nước. BOD cho ta biết lượng chất thải hữu cơ trong nước có thể bị phân
huỷ bằng các vi sinh vật.
COD (Chemical Oxygen Demad) là lượng ôxy cần thiết để ôxy hoá các hợp
chất hoá học trong nước bao gồm cả vô cơ và hữu cơ. Như vậy, COD là lượng oxy cần
thiết để oxy hoá toàn bộ các chất hoá học trong nước, trong khi đó BOD là lượng ôxy
cần thiết để ôxy hoá một phần các hợp chất hữu cơ dễ phân huỷ bởi vi sinh vật.
Toàn bộ lượng ôxy sử dụng cho các phản ứng trên được lấy từ ôxy hoà tan
trong nước (DO). Do đó, nếu nhu cầu ôxy hoá học và ôxy sinh học cao thì sẽ làm giảm
nồng độ ôxy hoà tan trong nước, có hại cho sinh vật sống trong nước và hệ sinh thái
nước nói chung. Nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp và nông nghiệp là các tác
nhân làm gia tăng giá trị BOD và COD của môi trường nước.
• Do các yếu tố sinh học
Nước là môi trường trung gian truyền bệnh, đặc biệt là các bệnh đường ruột.
Các yếu tố sinh học làm ô nhiễm nước gồm có các loại virut, vi khuẩn, động vật
nguyên sinh và các loại giun sán (xem Bảng 6.4.). Nước thải và chất thải sinh hoạt, y
tế, nông nghiệp và chăn nuôi là các nguồn chính gây ô nhiễm vi sinh vật.
Bảng 6.4. Các sinh vật gây bệnh chính sống trong nước

×