Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

hoạt động giải quyết tranh chấp của ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.96 KB, 8 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua hơn 40 năm thành lập và phát triển, ASEAN đã ngày càng hoàn thiện
và vững mạnh hơn, sự hợp tác giữa các quốc gia được đẩy mạnh không ngừng, góp
phần nâng cao vị thế của ASEAN trên trường quốc tế. Tuy nhiên trong quá trình hợp
tác cùng phát triển của các nước thành viên thì để đi đến một ý chí thống nhất về xây
dựng và phát triển ASEAN. ASEAN đã phải cố gắng giải quyết những tranh chấp, bất
đồng xảy ra trong các lĩnh vực giữa các quốc gia thành viên, trong đó có những tranh
chấp kinh tế- thương. Vì vậy hoạt động giải quyết tranh chấp của ASEAN cũng đã dần
được thể chế hóa và hoàn thiện trong khuôn khổ pháp lí của tổ chức này.
NỘI DUNG
I. Phân tích và đánh giá ưu nhược điểm của hệ thống cơ quan giải quyết
tranh chấp
1. Hệ thống các cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại
- Hội nghị quan chức kinh tế cao cấp SEOM
Hội nghị quan chức cao cấp SEOM có thẩm quyền thành lập ban hội thẩm; Thông
qua báo cáo của Ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm; Giám sát việc thực hiện các phán
quyết đã được SEOM thông qua; Cho phép việc hoãn thi hành các nhượng bộ hay các
nghĩa vụ khác theo quy định của các hiệp định của ASEAN.
- Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN
Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN có thẩm quyền thành lập cơ quan phúc thẩm
gồm 3 thành viên trong số 7 thành viên của Cơ quan phúc thẩm thường trực do AEM bổ
nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm.
- Ban thư ký ASEAN
Ban thư ký ASEAN có trách nhiệm giúp cho Ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm,
đặc biệt trong các vấn đề pháp lý, dịch sử có liên quan cũng như những trợ giúp về mặt kỹ
thuật; trợ giúp cho SEOM trong việc giám sát quá trình thực thi các phán quyết, đồng thời
là nơi tiếp nhận tất cả các tài liệu có liên quan đến vụ tranh chấp.
2. Phân tích và đánh giá ưu nhược điểm của hệ thống cơ quan giải quyết
tranh chấp.
a. Về ưu điểm
Thứ nhất, Nghị định thư năm 2004 đã sử dụng các nguyên tắc đồng thuận phủ quyết


cho việc thành lập Ban Hội thẩm, thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và cơ quan phúc
thẩm. Điều này là một cải tiến quan trọng so với Nghị định thư năm 1996 vì nó đảm bảo
1
cho việc tất cả các tranh chấp đã thông qua tham vấn mà không có kết quả thì đều có thể
giải quyết tại Ban Hội thẩm. Hơn nữa, trong Nghị định thư năm 2004, Ban Hội thẩm là cơ
quan trực tiếp xem xét và giải quyết tranh chấp, đưa ra các khuyến nghị và kết luận cho
tranh chấp đó, chứ không chỉ dừng lại ở mức độ xem xét và tìm kiếm các tài liệu liên quan
đến vụ tranh chấp, rồi trình báo cáo lên SEOM để cơ quan này xem xét và ra quyết định.
Thứ hai, ASEAN còn có Cơ chế tham vấn giải quyết các vấn đề thương mại và
đầu tư (ACT) dựa theo mô hình của EU. Đây là một nỗ lực nhằm tăng cường hiệu quả
của cơ chế giải quyết tranh chấp trong ASEAN. Theo cơ chế này, các doanh nghiệp
có thể chủ động khiếu nại trực tiếp tới các cơ quan quản lý Nhà nước qua mạng
Internet khi gặp phải trở ngại trong quá trình thực thi các hiệp định của ASEAN. ACT
còn cho phép doanh nghiệp bảo vệ lợi ích từ các chương trình hội nhập kinh tế trong
ASEAN như chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT), chương trình
ưu đãi hội nhập (AISP).
Theo cơ chế này các nước thành viên ASEAN sẽ cử ra một cơ quan đầu mối
nhận và xử lý khiếu nại của doanh nghiệp và điều phối, hợp tác với cơ quan hữu quan
trong quá trình xử lý thông tin. Ở Việt Nam cơ quan đầu mối là Vụ chính sách thương
mại đa biên. Ưu điểm lớn nhất của cơ chế này là thời hạn giải quyết khiếu nại. Theo
quy định nước nhận đơn khiếu nại phải có phản hồi cho doanh nghiệp trong vòng bảy
ngày xem liệu có chấp nhận đơn không. Một khi được chấp nhận thì nước bị khiếu nại
phải giải quyết trong vòng 30 ngày. Với thời gian linh hoạt cho phép tối đa thêm 30
ngày. Như vậy việc giải quyết có thể nhanh hơn nhiều so với một quy trình khiếu nại
thông thường qua đường công văn.
b. Về nhược điểm
Thứ nhất, phạm vi hoạt động của Cơ quan Phúc thẩm còn hẹp và chưa rõ ràng.
Theo như cơ chế giải quyết tranh chấp hiện nay của ASEAN, cơ quan Phúc thẩm chỉ xem
xét việc áp dụng và giải thích pháp luật của Ban Hội thẩm chứ không xem xét toàn bộ các
vấn đề liên quan đến vụ tranh chấp.

Thứ hai, có thể thấy, thủ tục giải quyết tranh chấp bao gồm 4 giai đoạn: Tham
vấn, hội thẩm, phúc thẩm và thi hành phán quyết. Nhưng Trên thực tế kể từ khi có
Nghị định thư đến nay, một số vấn đề tranh chấp đã phát sinh giữa các nước ASEAN,
trong đó có những vụ liên quan đến Việt Nam, các vụ tranh chấp đều được giải quyết
ngay từ giai đoạn tham vấn, hoà giải mà chưa bao giờ phải thành lập ban hội thẩm.
Trong khi cơ quan giải quyết tranh chỉ thực hiện thẩm quyền của mình đến khi vụ
2
việc được trình lên SEOM. Vì vậy, các cơ quan này không phát huy hết được chức
năng giải quyết tranh chấp của mình. Mặt khác, cần tăng cường vai trò của hệ thống
cơ quan giải quyết tranh chấp trong khâu tham vấn, hòa giải để có những phán quyết
đúng đắn cho những vụ tranh chấp.
Thứ ba, một thực tế là cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN đã ưu tiên trong
việc lựa chọn thành viên của Ban Hội thẩm trong các nước thành viên ASEAN, bên cạnh
đó là triển vọng cho các ứng cử viên khác đến từ quốc gia ngoài ASEAN. Quy định này
không tạo ra được một lợi thế gì trong mối quan hệ giữa các cá nhân đó, tuy nhiên nếu quá
coi trọng điều này, sẽ bỏ qua các cá nhân thực sự có năng lực và trình độ hơn, cũng như
làm hạn chế cơ hội để học hỏi những cá nhân có điều kiện kinh nghiệm đến từ các quốc
gia khác, đặc biệt là từ các quốc gia phát triển.
II. Phân tích và đánh giá ưu điểm và hạn chế của trình tự thủ tục giải quyết
tranh chấp:
1. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp
Giai đoạn thứ nhất tham vấn, trung gian, hòa giải:
Ở giai đoạn này giai quyết hòa bình các tranh chấp thong qua thương lượng
hữu nghị giữa các bên. Khi có ý kiến phẩn đối của các nước thành viên khác về bất cứ
vấn đề nào ảnh hưởng đến việc thực hiện, giải thích, áp dụng hiệp định hoặc áp dụng
hiệp định liên quan, các nước thành viên phải tạo cơ hội thỏa đáng cho việc giải quyết
tham vấn và giải quyết những bất đồng đó trên cơ sở thiện chí, hữu nghị giữa các bên.
Yêu cầu tham vấn này phải được trả lời trong thời gian quy định. Trước khi yêu cầu
thành lập ban hội thẩm, các bên tiến hành hòa giải hoặc thông qua bên thứ ba để giải
quyết tranh chấp. Biện pháp trung gian, hòa giải hoặc dàn xếp có thể diễn ra bất cứ lúc

nào khi các bên đồng ý tiến hành nó .
Giai đoạn thứ hai, Giải quyết tranh chấp tại ban hội thẩm:
Nếu các nước thành viên được yêu cầu tham vấn không trả lời yêu cầu trong
vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, hoặc không tiến hành tham vấn trong
vòng 30 ngày kê từ ngày nhận được yêu cầu hoặc cuộc tham vấn giữa các bên tranh
chấp không giải quyết được trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham
vấn thì vấn đề này sẽ được trình lên SEOM. Ban hội thẩm sẽ được thành lập trong
vòng 45 ngày dù tại cuộc họp SEOM hay bằng cách gửi văn bản lấy ý kiến kể từ ngày
tranh chấp được trình lên SEOM gồm 3 thành viên để xem xét khách quan vụ tranh
chấp theo nguyên tắc họp kín.
3
Giai đoạn thứ ba, giải quyết tranh chấp tại cơ quan phúc thẩm:
AEM là cơ quan phúc thẩm và bổ nhiêm các thành viên của cơ quan này. Cơ
quan phúc thẩm không xem xét lại nội dung tranh chấp mà chỉ giới hạn các vấn đề
pháp luật trong báo cáo của ban hội thẩm và các giải thích pháp lý của ban hội thẩm.
cơ quan phúc thẩm xem xét và giải quyết kháng cáo trong thời hạn 60 ngày (có thể
được gia hạn nhung không quá 90 ngày) kể từ ngày các bên tranh chấp thông báo
chính thức về quyết định kháng cáo đến ngày cơ quan phúc thẩm trình báo cáo. Cơ
quan phúc thẩm có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc bác bỏ các kết luận và kiến nghị của
ban hội thẩm.
Giai đoạn thứ tư, thi hành phán quyết
Ta thấy cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN được hoàn thiện dần từ nghị
định thư 1996 đến nghị định thư 2004 và hiến chương ASEAN với mục đích là giải
quyết hòa bình các tranh chấp phát sinh, ngăn ngừa những tình thế có thể đe dọa hòa
bình, an ninh khu vực.
2. Ưu điểm
Thứ nhất, Nghị định thư 2004 đã sử dung nguyên tắc đồng thuận phủ quyết cho
việc thành lập ban hội thẩm, thông qua báo cáo của ban hội thẩm vào cơ quan phúc
thẩm, đây là điểm cải tiến so với nghị định thư 1996. Nguyên tắc này đảm bảo cho tất
cả các tranh chấp đã được thông qua tranh chấp mà không có kết quả thì đều có thể

được giải quyết tại ban hội thẩm. Hơn nữa ban hội thẩm là cơ quan trực tiếp xem xét
và tìm kiếm các tài liệu liên quan đến vụ tranh chấp rồi trình báo lên SEOM để cơ
quan này xem xét và ra quyết định, những thành viên của ban hội thẩm là những cá
nhân được tuyển chọn từ những người có đủ tài năng, trình độ cũng như cơ chế hoạt
động để đảm bảo tính khách quan, vô tư khi xem xét, giải quyết, cùng với việc cơ
quan phúc thẩm được thành lập chuyên trách và thường trực sẽ giúp cho việc giải
quyết tranh chấp được thực hiện một cách chính xác, hiệu quả và tạo được long tin
của các bên tranh chấp.
Thứ hai, Các giai đoạn giải quyết tranh chấp này được thiết kế gần giống nhu
các giai đoạn của hoạt động xét xử, điều này làm cho hoạt động giải quyết tranh chấp
có tính pháp lý hơn.
Thứ ba, Cơ chế giải quyết tranh chấp của Asean về kinh tế- thương mại vừa
mang tính hòa giải, vừa mang tính tài phán
4
Ngoài ra, các lĩnh vực áp dụng biện pháp này cũng được mở rộng và quy định thực
hiện theo trình tự, nguyên tắc cụ thể, câc biện pháp giám sát quá trình thực thi câc phán
quyết được đưa ra. Đây sẽ là một sân chơi lành mạnh cho các nước thành viên để giải
quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, hiệu quả và sẽ là đòn bẩy cho những quốc gia
kém phát triển hơn trong việc đàm phán với các quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh hơn
trong ASEAN với niềm tin mạnh mẽ rằng các thỏa thuận sẽ được thực thi.
3. Hạn chế của trình tự giải quyết tranh chấp
Như đã nêu ở trên, ASEAN đã mô phỏng gần như hoàn toàn các giai đoạn giải
quyết tranh chấp của WTO, chỉ có một số sự thay đổi không mang tính sang tạo, điều
này làm cho cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN gặp phải những hạn chế mà
WTO gặp phải. Đó là, thời gian giải quyết tranh chấp quá dài, tổng thời gian giải
quyết tranh chấp là gần 15 tháng (ngoài ra một số trường hợp có thể ra hạn). Điều này
làm cho tình trạng vi phạm pháp luật theo các hiệp định được ký kết trong ASEAN sẽ
bị duy trì gây thiệt hại cho các nước thành viên, khiến cho các bên tranh chấp tốn kém
về tài chính trong việc duy trì quá trình giải quyết tranh chấp.
Mặc dù 9/10 các nước thành viên của ASEAN là thành viên của WTO, nhưng

việc mô phỏng gần như hoàn toàn các giai đoạn giải quyết tranh chấp của tổ chức này
làm cho cơ chế giải quyết của ASEAN thiếu đi sự độc đáo riêng của nó.
Trong quá trình họp của Ban hội thẩm hay của cơ quan phúc thẩm để giải quyết
tranh chấp đều phải họp kín, các nước thành viên chỉ tham dự các phiên họp khi được
mời. Điều này sẽ dẫn đến việc nghi ngờ tính công khai, minh bạch trong quá trình giải
quyết.
Khá nhiều thủ tục pháp lý. Gây ra nhiều vướng bận về khâu giải quyết.
III. So sánh cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Theo đại từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản văn hóa – thông tin năm 1998
định nghĩa “cơ chế” là cách thức sắp xếp, tổ chức để làm đường hướng cơ sở theo đó
mà thực hiện. Trên cơ sở đó có thể hiểu cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương
mại là tổng hợp các yếu tố làm cơ sở đường hướng cho việc giải quyết tranh chấp
kinh tế - thương mại.
Như chúng ta đã biết thì cơ chế giải quyết tranh chấp bao gồm các yếu tố cấu
thành cơ bản sau: cơ quan giải quyết tranh chấp; các nguyên tắc giải quyết tranh chấp;
trình tự, thủ tục và thi hành phán quyết. Về cơ bản thì cơ chế giải quyết tranh chấp
kinh tế - thương mại của ASEAN được quy định trong Nghị định thư năm 2004 có
5

×