Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN Đọc hiểu văn bản nghị luận trong trường phổ thông theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.76 KB, 19 trang )

PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm
1.1. Chương trình Ngữ Văn đến nay đã trải qua 9 năm thực hiện đổi mới
sách giáo khoa của Bộ Giáo dục Đào tạo. Bên cạnh việc lựa chọn các tác phẩm văn
học mang tính hình tượng, sử dụng hư cấu với một số thể loại chính như: thơ,
truyện, tiểu thuyết (gọi chung là văn bản nghệ thuật) là việc sử dụng tác phẩm văn
học không hư cấu được viết bằng nhiều thể loại khác nhau theo mỗi giai đoạn như:
nghị luận, sử kí, văn tế, phú, dân ca lịch sử,…Nếu như chương trình sách giáo
khoa trước đây ít chú ý thể loại văn nghị luận (đọc văn nghị luận) thì chương trình
mới xuất hiện khá nhiều loại này.
1.2. Chương trình sách giáo khoa trước đây trình bày các văn bản văn học
theo tiến trình lịch sử, nặng về văn học sử, minh họa cho văn học sử. Chương trình
sách giáo khoa Ngữ văn mới lựa chọn văn bản tác phẩm theo thể loại và tổ chức
dạy học theo đặc trưng thể loại. Các văn bản nghị luận, do đó, cũng đựơc trình bày
theo trục thể loại này. Vì vậy, nắm được đặc trưng của thể loại nghị luận và các
phương pháp dạy học văn nghị luận phù hợp là yêu cầu tất yếu.
1.3. Mục đích của văn bản nghị luận: phát ngôn cho một tư tưởng, một quan
điểm, một chủ trương, một lập trường xã hội nhất định. Đặc điểm: khô khan, ít phù
hợp với tâm lí và nhận thức của học sinh; ít tính văn chương, khó đi vào cảm xúc
của người đọc; ý tưởng thâm thuý khó nắm bắt,…; nguồn tư liệu bổ trợ khan hiếm.
1.4. Thực tế giảng dạy cũng cho thấy nghị luận là thể loại có nhiều văn bản
đang được dạy trong nhà trường THPT. Tuy nhiên, trong thực tế có không ít giáo
viên tiến hành những giờ dạy văn bản nghị luận khô khan, ít kích thích hứng thú
cho học sinh. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do họ chưa nắm thật chắc
đặc trưng của thể loại nghị luận kéo theo việc không có phương pháp dạy phù hợp.
Do vậy, như một tất yếu, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giáo dục trí
tuệ, đạo đức, thẩm mĩ cho học sinh. Cũng do đó, giáo viên và học sinh sẽ không
có cái nhìn đầy đủ về nền văn học Việt Nam.
3
Từ thực tiễn ấy, với yêu cầu giảng dạy theo hướng phát triển năng lực, tích
cực hóa vai trò của học sinh, tôi quyết định chọn sáng kiến kinh nghiệm “Đọc hiểu


văn bản nghị luận trong trường phổ thông theo đặc trưng thể loại” với mong
muốn đóng góp một cách tiếp nhận có hiệu quả với văn bản nghị luận. Và đây
cũng là bước chuẩn bị cho việc giảng dạy văn sau này của giáo viên Ngữ văn.
2. Thời gian thực hiện và triển khai sáng kiến kinh nghiệm
Từ tháng 4 năm 2014 đến tháng 02 năm 2015
4
PHN TH HAI: GII QUYT VN
1. C s lý lun ca vn
Vn ngh lun l mt th vn ra i t rt lõu. Trung Hoa, vn ngh lun
cú t thi Khng T (551- 479
TCN
). Vit Nam, vn ngh lun cng l mt th loi
cú truyn thng lõu i, cú giỏ tr v tỏc dng ht sc to ln trong trng kỡ lch s,
trong cụng cuc dng nc v gi nc. Cú th k t Chiu di ụ (1010) ca Lớ
Cụng Un (Lớ Thỏi T), Hch tng s (1285) ca Trn Quc Tun cho n Bỡnh
Ngụ i cỏo (1428) ca Nguyn Trói; t bi Ta Trớch dim thi tp (1497) ca
Hong c Lng, Chiu cu hin (1788) ca Ngụ Thỡ Nhm n bn iu trn
Xin lp khoa lut (1867) ca Nguyn Trng T; Tuyờn ngụn c lp (1945) n
My ý ngh v th sau ny
Cú th núi trong sut trng kỡ lch s dõn tc, vn ngh lun l mt th vn
phn ỏnh rừ nht i sng tinh thn, t tng, ý chớ v khỏt vng ca c mt dõn
tc. Do ú, vn ngh lun ngy cng phỏt trin mnh m, cng tr nờn a dng v
phong phỳ hn.
Khỏi nim: Văn bản nghị luận có thể hiểu một cách khái quát nhất là dạng
văn bản thuyết lý, trực tiếp trình bày các quan điểm, t tởng, đạo lí ở đời, bao gồm
các t tởng chính trị, triết học, đạo đức, xã hội, văn học nghệ thuật.
T in Ting Vit nh ngha: Ngh lun- bn v ỏnh giỏ cho rừ v mt
vn no ú. Vn ngh lun l th vn dựng lớ l v dn chng phõn tớch gii
quyt mt vn . Cũn T in thut ng vn hc nh ngha: Th vn ngh lun
vit v nhng vn núng bng thuc nhiu lnh vc i sng khỏc nhau: chớnh

tr, xó hi, trit hc, vn hoỏ. Mc ớch ca vn chớnh lun l bn bc, tho lun,
phờ bỡnh hay truyn bỏ tc thi mt t tng, mt quan im no ú. c trng c
bn nht ca vn chớnh lun l tớnh cht lun thuyt. Vn chớnh lun trỡnh by t
tng v thuyt phc ngi c ch yu bng lp lun, lớ l.
Núi túm li, vn ngh lun l mt th loi nhm phỏt biu t tng, tỡnh cm,
thỏi , quan im ca ngi vit mt cỏch trc tip v cỏc vn vn hc, chớnh
5
trị, đạo đức, lối sống và được trình bày bằng một thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng
hồn với những lập luận chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục Do đó văn bản
nghị luận sẽ bào hàm những đặc trưng cở bản trong quá trình đọc - hiểu.
Phân loại văn nghị luận căn cứ vào nội dung, người ta có thể xếp những bài
văn nghị luận ra làm hai loại: nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Trong đó,
nghị luận văn học là những bài nghị luận về một vấn đề văn học nào đó: một chi
tiết, một hình ảnh nghệ thuật; một tác giả, một tác phẩm; một vấn đề lí luận văn
học còn nghị luận xã hội (ta thường gọi là văn chính luận) là những bài nghị luận
về một vấn đề chính trị, đạo đức, lối sống nào đó. Căn cứ vào các giai đoạn văn
học, người ta chia thành ba loại: nghị luận dân gian, nghị luận trung đại, nghị luận
hiện đại. Tất nhiên, vì ở những giai đoạn lịch sử cụ thể khác nhau mà ba loại văn
nghị luận này sẽ có hình thức biểu đạt, mục đích biểu đạt khác nhau, song chúng
đều giống nhau là ở chỗ là cùng sử dụng phương thức nghị luận, tức là trong văn
bản của mỗi loại này đều có tính tranh biện, tranh luận đúng sai về một vấn đề.
Nội dung và cấu trúc của một văn bản nghị luận được hình thành từ các yếu
tố cơ bản là: Vấn đề cần nghị luận (còn gọi là luận đề), luận điểm, luận cứ và lập
luận (còn gọi là luận chứng). Như vậy, do văn nghị luận trình bày tư tưởng và
thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lí lẽ và lập luận nên hệ thống các luận điểm
hết sức chặt chẽ và luận cứ cũng phải xác đáng. Cho nên khi dạy loại văn bản này,
người dạy nhất thiết bao giờ cũng phải khai thác hệ thống luận điểm, luận cứ và
cách lập luận của văn bản. Tuy nhiên nếu chỉ đơn thuần khai thác các hệ thống
luận điểm như lâu nay chúng ta vẫn làm thì bài học trở nên khô khan, khó gợi được
hứng thú tích cực cho học sinh. Hơn nữa theo tinh thần đổi mới toàn diện của Bộ

Giáo dục và Đào tạo, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo cũng như
phát triển năng lực học sinh, thì trong khuôn khổ của một giờ đọc hiểu văn bản
nghị luận giao viên không chỉ cho học sinh khai thác hệ thống luận điểm, luận cứ
và cách lập luận mà con định hướng cho các em nắm bắt văn bản theo đúng đặc
trưng thể loại. Vì vậy trong phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm nhỏ, tôi xin được
đề xuất một số giải pháp mang tính bổ trợ để những giờ đọc – hiểu văn bản nghị
6
luận thêm sinh động, học sinh dễ hiểu cũng như hứng thú hơn với giờ đọc hiểu văn
nghị luận vốn được coi là khô khan.
2. Thực trạng của vấn đề
Hệ thống văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn THPT chiếm khối
lượng khá nhiều lớp 10 (tập 2) với 5 tác phẩm; lớp 11 (tập 2) với 12 tác phẩm; lớp
12 (tập 1 và tập 2) với 9 tác phẩm.
2.1. Kết quả khảo sát và những nhược điểm còn tồn tại trong dạy và học:
Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là một vấn đề mang tính thời sự của
nước ta hiện nay. Các nhà chiến lược giáo dục đã và đang đưa ra nhiều phương
pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn để góp phần đưa nền giáo
dục nước ta bắt kịp sự phát triển của giáo dục thế giới. Hệ thống các phương pháp
dạy học văn đó có thể nói là đã khá phong phú, đa dạng, song dạy học văn theo đặc
trưng thể loại vẫn là phương pháp dạy học căn bản.
Trước thực tế đó, tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía học sinh. Cụ thể,
tôi đã phát câu hỏi cho 407 học sinh lớp 10,11,12 của trường để các em phát biểu
những cảm nhận và nêu ý kiến, nguyện vọng của mình khi tiếp cận các văn bản
nghị luận. Nội dung câu hỏi là: Em có cảm nhận như thế nào khi học những văn
bản nghị luận?
Kết quả:
Học sinh trả lời Tỉ lệ
Văn bản nghị luận có ý nghĩa, thực tế nhưng đa phần dài, khô khan,
khó nhớ nên không thích học bằng các văn bản thuộc thể loại khác
75,24%

có thích học nhưng chưa thật sự hiểu 10,25%
không hiểu gì, không thích học. 14,51%
Kết quả trên cho thấy, phần đa học sinh không thích học văn bản thuộc thể
loại nghị luận. Tuy nhiên, có đến 75,24% học sinh nhận ra ý nghĩa của văn bản
nghị luận, nghĩa là nguyên nhân các em không thích học các văn bản này là do
chưa thực sự hứng thú với giờ học mà thôi.
7
Từ thực trạng trên, cộng với kinh nghiệm giảng dạy cá nhân, tôi nhận thấy
trong dạy và học văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn còn tồn tại những
nhược điểm sau:
2.2. Phía người dạy:
Với tâm lý giờ dạy văn bản nghị luận học sinh ít hứng thú, nên giáo viên
chưa coi trọng, chưa đầu tư vào giờ dạy nên chưa tạo được hào hứng nơi học sinh.
Do vậy trong cách truyền đạt giáo viên chỉ chú ý đến tính nội dung văn bản
nhiều hơn tính nghệ thuật, vì thế, giờ dạy thiên về lí trí hơn việc biểu đạt những
xúc cảm thẩm mĩ.
Cho nên kết quả của giờ dạy chủ yếu nghiêng về những thông tin văn bản
hơn là để lại dư âm của những rung cảm thẩm mĩ cho người học.
2.3. Phía người học:
Với tâm lí tiếp nhận chủ yếu nghiêng về tìm hiểu, nắm bắt những thông tin
văn bản nhiều hơn là việc biểu lộ cảm xúc.
Do vậy cách tiếp nhận chủ yếu của học sinh nghiêng là về mặt xã hội, chính
trị, theo định hướng của giáo viên là chính.
Cho nên kết quả giờ học đọc hiểu văn bản nghị luận chủ yếu trở thành giờ
tìm hiểu lịch sử (nếu giáo viên không nắm bắt được tinh thần của các nhà soạn
sách, của văn bản nghị luận được đưa vào chương trình).
Với khối lượng văn bản khá nhiều và thực tế dạy - học nêu trên, tôi đề xuất
một số giải pháp bước đầu mà bản thân thấy có hiệu quả trong quá trình giảng dạy.
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
3.1. Nắm chắc đặc trưng của thể loại văn nghị luận

3.1.1 Nêu lên ý kiến, thể hiện quan điểm, thái độ của người viết trước một vấn đề
của cuộc sống.
Ở nước ta, văn nghị luận là một thể loại văn giàu truyền thống, có giá trị và
tác dụng to lớn trong trường kì lịch sử, trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Có thể nói, trong suốt quá trình lịch sử đó, văn nghị luận là nơi phản ánh rõ nhất
đời sống tinh thần, tư tưởng, ý chí và khát vọng của cả dân tộc. Đó là lòng yêu
nước nồng nàn trong Hịch tướng sĩ – Trần Quốc Tuấn. Đó là lòng tự hào, tự tôn
8
dân tộc, khẳng định vị thế ngang bằng của dân tộc với đế quốc phương Bắc trong
Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi. Đó là tư tưởng trọng người hiền tài, đãi kẻ sĩ:
“hiền tài là nguyên khí của đất nước. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và vươn
cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp” thể hiện rõ trong bài văn bia
khắc ở Văn miếu Quốc Tử Giám do Thân Nhân Trung soạn thảo (1442). Đó còn là
những nhận thức thẩm mĩ của cha ông ta về vẻ đẹp và ý nghĩa của văn chương
nghệ thuật trong Lời Tựa “Trích diễm thi tập” – Hoàng Đức Lương. Hay là sự trân
trọng vai trò của những người có tài, có đức và tư tưởng “chiêu hiền đãi sĩ” của
vua Quang Trung trong Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm soạn thảo
Như vậy, về mục đích biểu đạt, văn nghị luận trung đại xuất hiện trong những
thời điểm khác nhau của đời sống lịch sử đất nước, được viết bởi những người giữ
trọng trách của đất nước để bàn bạc, giải thích, chứng minh, khẳng định những vấn
đề chính trị, xã hội liên quan đến đời sống cộng đồng.
Bước sang thế kỉ XX, đội ngũ sáng tác văn chương nghệ thuật mở rộng ra mọi
tầng lớp nhân dân. Chính vì thế, văn học nói chung, văn nghị luận nói riêng có sự phát
triển vượt bậc hơn bao giờ hết. Hàng loạt tên tuổi các nhà chính luận, văn luận xuất
sắc với những áng văn nghị luận bất hủ, mà tiêu biểu nhất là Hồ Chí Minh với bản
Tuyên ngôn độc lập (1945); Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng
Tiếp đó là những nhà cách mạng, nhà văn hoá lớn như: Trường Chinh, Lê Duẩn,
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp cùng rất nhiều nhà viết văn nghị luận nổi tiếng
sau đó như: Hải Triều, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên
Đó là tiếng nói đau đớn của một chí sĩ cách mạng trước sự mất mát thui chột

đi nền luân lí xã hội trong Về luân lí xã hội ở nước ta – Phan Châu Trinh. Đó còn
là những lời bình tinh tế của Hoài Thanh – nhà phê bình văn học nổi tiếng của nền
văn học hiện đại Việt Nam – về tinh thần thơ mới và bi kịch tâm hồn của các nhà
Thơ mới (1932 -1945) trong Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh. Đó là những bài
nghị luận văn học đầy súc tích, tài hoa, uyên bác
Các nhà chính luận, văn luận nói trên đề cập đến nhiều vấn đề vừa mang tính
thời sự, vừa mang tính khoa học lâu dài trong xã hội hiện đại. Nhưng dù bàn luận
đến những vấn đề nào thì mục đích chung của người viết nghị luận hiện đại vẫn là
9
hướng sự quan tâm của đông đảo người đọc đến những vấn đề có ý nghĩa quan
trọng và thiết thực đối với đời sống cá nhân và cộng đồng, từ đó xây dựng nhận
thức và hành động tích cực của họ trong hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy văn
nghị luận thời hiện đại trở thành một trong những phương tiện tuyên truyền và học
tập, cổ vũ và phấn đấu tích cực cho mọi người.
3.1.2. Thuyết phục người đọc bằng hệ thống lí lẽ và cách lập luận chặt chẽ, hùng hồn.
Để bài văn có sức thuyết phục cao, người viết phải đưa ra những lí lẽ, những lập
luận tiêu biểu, phù hợp, những bằng chứng xác đáng. Lí lẽ và lập luận giúp người
đọc hiểu, còn bằng chứng làm người đọc tin vào vấn đề người viết nêu ra. Đây là
mục đích và là động lực cao nhất khi người viết viết một bài nghị luận.
3.1.2.1. Lí lẽ của bài văn nghị luận thể hiện ở hệ thống luận điểm của bài viết. Cho
nên luận điểm chính là linh hồn của bài văn nghị luận. Luận điểm thể hiện rõ tư
tưởng, quan điểm, chủ trương, đánh giá của người viết đối với một vấn đề cần
thuyết phục và làm sáng tỏ. Luận điểm của bài văn nghị luận thường được thể hiện
dưới hình thức những câu văn ngắn gọn với những phán đoán có tính chất khẳng
định hoặc phủ định “Trong một bài văn nghị luận, luận điểm là một hệ thống: có
luận điểm chính (dùng làm kết luận của bài, là cái đích của bài viết) và luận điểm
phụ (dùng làm luận điểm xuất phát hay luận điểm mở rộng)” (Ngữ văn 8, tập 2,
NXBGD, H, 2004, tr.75). Chẳng hạn như:
- Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác.
- Xin lập khoa luật.

Một thành phần không thể thiếu của luận điểm là luận cứ. “Luận cứ là lí lẽ và
dẫn chứng làm cơ sở cho luận điểm” (SGV Ngữ văn 7, tập 2, NXBGD, H, 2003, tr.
28). Ví dụ, để làm rõ luận điểm “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị
áp bức” nhà báo Nguyễn An Ninh đã nêu ra 4 lí lẽ với hàng loạt dẫn chứng: Lí lẽ
thứ nhất (thói học đòi Tây hoá của một bộ phận trí thức đương thời) được dẫn kèm
với những dẫn chứng xác đáng (thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý
tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình; cóp nhặt những thói tầm thường của
phong hoá châu âu; trang trí và kiến trúc lai căng; từ bỏ tiếng mẹ đẻ và văn hoá
cha ông). Lí lẽ thứ hai (tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của
10
dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị) đựơc
cụ thể bằng hai dẫn chứng (“nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn và ra sức làm
cho tiếng nói ấy phong phú việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vần đề
thời gian”; “từ chối tiếng mẹ đẻ là từ chối sự tự do”). Lí lẽ thứ ba (khẳng định
tiếng “nước mình” không nghèo nàn) được chứng minh bằng các dẫn chứng không
thể chối cãi (nhiều người “chỉ biết những từ thông dụng mà còn nghèo nàn hơn cả
bất kì người phụ nữ và nhân dân An Nam nào”; so sánh với “ngôn ngữ Nguyễn
Du”; do con người bất tài hay ngôn ngữ nghèo nàn). Lí lẽ thứ tư đó là mối quan
hệ giữa ngôn ngữ nước ngoài và ngôn ngữ “nước mình”.
“Lí lẽ là những đạo lí, lẽ phải đã được thừa nhận, nêu ra là được đồng tình.
Dẫn chứng là sự việc, số liệu, bằng chứng để xác nhận cho luận điểm. Dẫn chững
phải xác thực, đáng tin cậy, không thể bác bỏ” (Ngữ văn 7, tập 2, SGV, NXBGD,
H, 2003, tr.28).
3.1.2.2. Nếu như lí lẽ của bài văn nghị luận thể hiện ở hệ thống luận điểm thì lập
luận là cách thức trình bày lí lẽ. Nên yếu tố đặc trưng tiếp theo của văn nghị luận là
lập luận. Lập luận là cách tổ chức lí lẽ và dẫn chứng để làm nổi rõ luận điểm. “Lập
luận là cách nêu luận điểm và vận dụng lí lẽ, dẫn chứng sao cho luận điểm được
nổi bật và có sức thuyết phục [ ]. Lập luận bao gồm các cách suy lí, quy nạp,
diễn dịch, phân tích, chứng minh, so sánh, tổng hợp sao cho luận điểm đưa ra là
hợp lí, không thể bác bỏ [ ], lập luận có ở khắp trong bài văn nghị luận”.

Nghệ thuật lập luận phụ thuộc rất nhiều vào cách nêu vấn đề, cách dẫn dắt
người đọc, người nghe, cách phân tích bằng nhiều thủ pháp nhỏ như so sánh, liên
hệ, đối chiếu, nêu dẫn chứng thực tế, đưa số liệu thống kê Tuyên ngôn độc lập
của Hồ chủ tịch là một mẫu mực như thế.
Không phải ngẫu nhiên, ngay từ đầu, Người đã dẫn ra hai bản tuyên ngôn của
Pháp và Mĩ. Từ chỗ khẳng định quyền tự do, độc lập của mỗi dân tộc, mỗi cá nhân
mà “đó là nhưng lẽ phải không ai chối cãi được”, Người đặt lại vấn đề: “Thế mà
hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến
cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân
11
đạo và chính nghĩa ”. Luận điểm này đã được Người chứng minh rất cụ thể và
sáng tỏ ở nhiều phương diện: Về chính trị; Về kinh tế
Sau khi chứng minh một cách hùng hồn bản chất vô nhân đạo của bọn thực
dân Pháp, Người khẳng định một sự thật: “Từ mùa thu năm 1940, nước ta đã
thành thuộc địa của Nhật chứ không là thuộc địa của Pháp nữa. Sự thật là nhân
dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”.
Đây cũng là một luận điểm hết sức quan trọng trong hệ thống lập luận của tác
giả bản Tuyên ngôn. Bởi vì xuất phát từ đây mà Người tuyên bố thoát ly hẳn quan
hệ với thực dân Pháp.
Kết luận bản Tuyên ngôn được rút ra như một lẽ tất yếu, một lôgic tự nhiên,
một lẽ phải thông thường, ai cũng phải công nhận: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.
Nghệ thuật lập luận còn phụ thuộc vào việc hành văn, giọng văn, vào cách
dùng từ, đặt câu. Do nhu cầu lập luận, văn nghị luận thường phải dùng đến những
từ như: thật vậy, thế mà, tuy nhiên, vả lại, mà còn, có nghĩa là, giả sử, nếu như,
trước hết, tóm lại, nói chung gọi là hệ thống từ lập luận. Chẳng hạn:
“Hiền tài là nguyên khí của đất nước. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và
vươn cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp. Bởi lẽ […] Không
những […] lại […] Không những […] còn […].

Để viết được một bài văn nghị luận hay là rất khó. Tạo nên bài văn nghị luận
cần phải có nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, luận điểm và lập luận là những yếu
tố quan trọng, quyết định hàng đầu đến chất lượng bài văn nghị luận. Thiếu các
yếu tố này không thể tạo nên một bài văn nghị luận đích thực.
3.2. Nắm chắc vai trò của việc dạy văn theo đặc trưng thể loại
Mục tiêu của sách giáo khoa Ngữ văn THPT là nhằm giúp các em “tiếp xúc
với những giá trị tinh thần phong phú và những đặc sắc về văn hoá, cảnh vật, cuộc
sống, con người Việt Nam và thế giới thể hiện trong các tác phẩm văn học và
trong các văn bản được học” , “có kĩ năng nghe,đọc một cách thận trọng, biết
cách phân tích, nhận xét tư tưởng, tình cảm, và một số giá trị nghệ thuật của các
12
văn bản được học, để từ đó hình thành ý thức và kinh nghiệm ứng xử thích hợp đối
với những vấn đề được nêu ra trong các văn bản đó” (Bộ GD&ĐT, Chương trình
SGK THPT môn Ngữ văn, NXBGD, H, 2005).
Tuy nhiên, môn Ngữ văn THPT không tự giới hạn ở mục tiêu riêng và chung đó.
Với tư cách là môn học công cụ, môn Ngữ văn THPT còn phải hướng tới mục tiêu
hình thành cho học sinh phương pháp đọc-hiểu các kiểu, loại văn bản, nhất là các văn
bản ở dạng thức sáng tạo nghệ thuật trong và cả ngoài sách giáo khoa, nhưng bắt đầu
từ sách giáo khoa phổ thông. Học sinh “biết đọc các kiểu văn bản theo đặc trưng kiểu
văn bản, nâng cao năng lực tích hợp đọc và viết các văn bản thông dụng” (Bộ
GD&ĐT, Tài liệu bồi dưỡng GV dạy SGK Ngữ văn 11, NXBGD, H, 2005).
Khi đã nắm được đặc trưng riêng của từng kiểu loại văn bản thì người học thể
tiếp nhận được dễ dàng hơn những văn bản văn học cùng thể loại trong chương
trình sách giáo khoa Ngữ văn. Điều này cho thấy, dạy học văn theo đặc trưng thể
loại là con đường khoa học để chiếm lĩnh các văn bản Ngữ văn nói riêng, các văn
bản văn học nói chung.
Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học văn bản Ngữ văn THPT chính là dạy
học văn bản Ngữ văn phù hợp với đặc trưng thể loại. Đó được xem như là nguyên
tắc dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình sách giáo khoa cấp học này.
3.3. Nắm chắc nguyên tắc đảm bảo đặc trưng thể loại

Dạy đọc- hiểu văn bản nghị luận phải xuất phát từ những đặc trưng cơ bản
của văn nghị luận. Điều đó có nghĩa là ta phải xem văn bản nghị luận ấy có hệ
thống luận điểm ra sao, luận điểm ấy được xây dựng trên lí lẽ, dẫn chứng xác đáng
như thế nào? Sức thuyết phục vào tư duy, lí trí ra sao? Qua đó thể hiện được quan
điểm, tư tưởng và thái độ đánh giá của tác giả như thế nào? Khi nắm vững được
đặc trưng thể loại văn bản nghị luận sẽ tạo ra hiệu quả cao trong giờ đọc- hiểu văn
bản, bởi nó quy định cách thức tổ chức giờ dạy cũng như phương pháp, cách thức
triển khai bài học một cách hợp lí nhất. Điều đó cũng yêu cầu một năng lực sư
phạm và tính sáng tạo của ngơì thầy.
Trong giờ đọc-hiểu văn bản nghị luận trước hết người giáo viên phải cho
học sinh nắm rõ được đặc trưng của chính đối tượng mình tìm hiểu. Ta có thể thực
13
hiện công việc đó bằng hệ thống câu hỏi đưa đến cho học sinh: Em hãy nêu rõ đặc
trưng cơ bản của một văn bản nghị luận ? Cho học sinh tự trả lời câu hỏi, sau đó
giáo viên khái quát lại cách thức chung khi tìm hiểu một văn bản nghị luận:
- Xác định hệ thống luận điểm của văn bản.
- Luận điểm đó được triển khai qua các luận chứng, dẫn chứng.
- Nhận xét về đặc sắc nghệ thuật của văn bản nghị luận: hệ thống lập luận,
ngôn ngữ, lí lẽ, cú pháp, từ ngữ.
- Sức tác động và thuyết phục của văn bản đối với người đọc qua đó thấy rõ
được thái độ, tư tưởng của tác giả.
Việc đọc - hiểu văn bản nghị luận dựa vào đặc trưng của nó cho phép khai
thác triệt để và khoa học các văn bản. Muốn khai thác thấu đáo các giá trị văn bản
theo đặc trưng của nó, ta cần phải huy động một cách thức tổ chức giờ đọc – hiểu
hợp lí nhất, phát huy vai trò của chủ thể dạy và học một cách chủ động, tích cực,
tạo ra hiệu quả cao trong giờ đọc hiểu văn bản .
Sỡ dĩ dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận phải đảm bảo nguyên tắc đặc trưng
thể loại vì xuất phát từ nguyên tắc dạy học nói chung và dạy học Văn nói riêng là
phải tôn trọng đặc trưng bộ môn. Một nguyên tắc không thể không lưu ý trong dạy
học là phải nắm vững đối tượng cần tìm hiểu. Có nắm vững đối tượng mới có một

phương pháp, cách thức phù hợp để khám phá đối tượng đó.
3.4. Nắm chắc định hướng dạy văn nghị luận theo đặc trưng thể loại
Mục tiêu phân tích tác phẩm không đặt ra sự cần thiết phải đi theo một quy
trình nào bởi lẽ có nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Có thể nói mỗi một cá nhân
tiếp nhận là một hướng tiếp cận riêng bởi mỗi người tuỳ trình độ, vốn sống, sở
thích mà có khả năng, có cách tiếp nhận khác nhau. Nhưng mục tiêu đọc-hiểu
văn bản với yêu cầu giúp học sinh vừa chiếm lĩnh được nội dung văn bản văn học,
vừa có kiến thức công cụ về mặt đặc trưng thể loại của văn bản văn học đó cho
phép nghĩ tới các bước của hoạt động đọc-hiểu này.
Tiến trình một giờ dạy học văn bản văn nghị luận có thể diễn ra theo quy trình
như sau:
Bước 1: Đọc-hiểu cấu trúc văn bản
14
Nội dung của hoạt động này là giúp học sinh tiếp nhận các dấu hiệu chính về
đặc trưng thể loại văn nghị luận. Đó là đọc để phát hiện ra các luận điểm và cách
lập luận của tác giả. Tức là đọc để xác định được đó có phải là văn bản nghị luận
hay không, tại sao?
Đây là bước quan trọng mà bất kì giờ Đọc-hiểu văn bản nào cũng phải thực
hiện. Song, trước đây, do nhận thức sai lầm về bản chất của quá trình dạy học mà
giáo viên là chủ đạo, là trung tâm, còn học sinh thụ động lắng nghe và ghi chép,
mà nhiều giáo viên đã bỏ qua bước này hoặc chỉ thực hiện mang tính chiếu lệ, qua
loa, không phát huy được tác dụng của nó.
Bước 2: Đọc-hiểu nội dung văn bản
Đây là bước tiếp theo của quá trình đọc-hiểu nhằm phát hiện, phân tích, đánh
giá văn bản từ các yếu tố nội dung - hình thức nổi bật. Khái niệm nội dung văn bản
được dùng theo cách hiểu biện chứng về mối quan hệ nội dung - hình thức, nghĩa
là nội dung mang tính hình thức và ngược lại. Không có nội dung nào nằm ngoài
hình thức của nó.
Đọc-hiểu nội dung văn bản nghị luận là đi làm sáng tỏ, cụ thể các luận điểm
và cách thức tổ chức các luận điểm (lập luận) của văn bản - những nội dung đã

được tìm ra một cách khái quát ở bước thứ nhất.
3.5. Nắm chắc phương pháp dạy văn nghị luận
Như đã nói ở phần Đặc trưng của văn nghị luận, văn nghị luận là một thể tài
đặc biệt, nó mang những đặc điểm riêng, khác biệt so với các văn bản văn học
mang tính “hư cấu”. Do vậy, phương pháp dạy văn nghị luận ngoài việc tuân thủ
những phương pháp dạy học văn nói chung nó còn sử dụng những phương pháp
chung đó theo cách riêng, phù hợp với đặc trưng của mình.
- Phương pháp đọc diễn cảm
- Phương pháp tái tạo, tái hiện
- Phương pháp đàm thoại gợi mở
- Phương pháp giảng bình
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
4.1. Áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
15
Lựa chọn đối tượng thực nghiệm là học sinh trường THPT Hồng Quang
-Lục Yên - Yên Bái năm học 2014 - 2015.
- Lớp thực nghiệm: 11A3 (37 học sinh); 10A2 (44 học sinh)
- Lớp đối chứng: 11A1 (39 học sinh); 10A1 (39 học sinh)
Đây là những lớp có sức học Trung bình - Khá, phản ánh mặt bằng trình độ
học sinh của trường THPT Hồng Quang - Lục Yên - Yên Bái.
4.2. Thiết kế thực nghiệm:
4.2.1. Mục đích thực nghiệm
- Thiết kế thực nghiệm hai văn bản nghị luận: Hiền tài là nguyên khí của quốc
gia của Thân Nhân Trung (Ngữ văn 10 – tập 2) và Một thời đại trong thi ca của
Hoài Thanh Ngữ văn 11 - 2) để thể hiện và vận dụng những nội dung lí thuyết đã
nghiên cứu, đề xuất.
- Bước đầu xác lập được định hướng cũng như phương pháp dạy học văn bản
nghị luận theo hướng đổi mới của SGK Ngữ văn.
4.2.2. Văn bản dạy thực nghiệm
Văn bản được lựa chọn để thiết kế thực nghiệm là:

- Hiền tài là nguyên khí của quốc gia - Thân Nhân Trung (Ngữ văn 10 – tập 2)
- Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh (Ngữ văn 11 – tập 2)
Người viết lựa chọn hai văn bản này để thiết kế thực nghiệm bởi: Hai văn bản
này vừa đảm bảo được tính tiêu biểu về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thể văn
nghị luận, vừa bao quát được tính tiến trình lịch sử – Hiền tài là nguyên khí của
quốc gia là một trong những văn bản nghị luận mẫu mực thời trung đại, Một thời
đại trong thi ca lại là một trong những văn bản nghị luận văn học thuộc loại tiêu
biểu và xuất sắc nhất trong kho tàng tiểu luận, phê bình văn học Việt Nam hiện
đại. Thông qua sự thiết kế thể hiện này, chúng ta sẽ thấy sự linh hoạt trong việc sử
dụng các phương pháp dạy học đã đề xuất ở mỗi văn bản nghị luận thuộc mỗi thời
kì lịch sử.
Bài 1: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia – Thân Nhân Trung (tại Phụ lục 1)
Bài 2: Một thời đại trong thi ca – Hoài Thanh (tại Phụ lục 2)
4. 3. Đánh giá thực nghiệm
16
Từ thực tế dạy học của bản thân qua những năm gần đây ở các khối lớp ban
Cơ bản tại trường THPT Hồng Quang, tôi nhận thấy giải pháp này có những ưu
điểm sau đây:
Giờ học gây hứng thú thực sự cho học sinh, sự yêu thích tăng lên rõ rệt.
Không những học sinh hiểu văn bản mà còn hiểu thêm về lịch sử.
Phát huy được sự tích cực chủ động của học sinh trong giờ học. Giờ học tác
phẩm trở thành giờ phát hiện những thông tin, nuôi dưỡng cảm xúc và mĩ cảm
nghệ thuật, bày tỏ quan điểm, thái độ và cách nhìn mới mẻ của học sinh.
Phát huy năng lực nhiều mặt của học sinh: khả năng bình luận, thẩm bình,
ngôn ngữ và cách diễn đạt được nâng lên rõ rệt.
Kết quả: sau khi học xong các văn bản nghị luận có thực hiện các phương
pháp bổ trợ này, tôi đã thu được kết quả rất khả quan. Có 90,91% đến 91,89% học
sinh ở những lớp tôi giảng dạy trả lời là rất hứng thú với bài học, hiểu bài hơn, dễ
nhớ hơn tuy có vất vả hơn.
Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm, tối thấy kết quả số học sinh hiểu, làm bài

được thống kê như sau:
Kết quả cụ thể:
Thời gian Lớp Tổng
số bài
Thích Thích học nhưng
chưa thật sự hiểu
Không thích,
không hiểu
Lớp đối chứng
15/01/2015
11A1 39 6 = 15,38% 3 = 7.7% 30 = 76,92%
10A1 39 8 = 20,51% 3 = 7,7% 28 = 71,79%
Lớp thực nghiệm
24/01/2015
11A3 37 34 = 91,89% 2 = 5,40% 1 = 2,71%
10A2 44 40 = 90,91% 2 = 4,55% 2 = 4,55%
Kết quả bài kiểm tra:
Kết quả Điểm 8-9 Điểm 6-7 Điểm 4-5 Điểm 1-3 So sánh
11A1 15/39 12/39 4/39 8/39 Còn tồn tại
điểm 1 - 3
10A1 12/39 12/39 4/39 9/39
11A3 18/39 12/37 5/39 2/39 Điểm 5 - 9
tăng
10A2 20/44 18/44 2/44 2/44
* Tiểu kết:
17
Khi soạn giảng và dạy các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn theo
cách trên, tôi nhận thấy có một số khó khăn sau:
Tốn khá nhiều thời gian tìm hiểu lịch sử phục vụ cho từng bài giảng.
Đôi khi xảy ra tình trạng “cháy” giáo án, những câu trả lời của học sinh ngoài

dự định,…Dù vậy thì cách dạy này cũng là một trong những giải pháp khá hữu
hiệu cho nên ta có thể vận dụng. Chỉ cần giáo viên:
Chuẩn bị bài giảng kĩ.
Sưu tầm và chọn lựa những câu chuyện, bài thơ, giai thoại, chi tiết về văn hoá,
phong tục tập quán phù hợp với bài học cụ thể.
Thiết kế các bước lên lớp hợp lí, chặt chẽ, uyển chuyển.
Giao việc chuẩn bị phù hợp, vừa sức với từng đối tượng học sinh sẽ thu được
kết quả khả quan. Dĩ nhiên giáo viên cũng không nên lạm dụng quá dễ gây phản
tác dụng, dẫn tới khả năng hiểu trọn vẹn văn bản của học sinh bị hạn chế.
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
18
KẾT LUẬN
Việc giảng dạy các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn có một ý
nghĩa quan trọng: không chỉ là việc mở rộng phạm vi hiểu biết về các thể loại văn
học, hiểu biết về các vấn đề chính trị xã hội, văn hoá (trong nhiều không gian, thời
gian khác nhau)…mà còn nhằm xây dựng cho học sinh thái độ đúng, quan điểm
tiến bộ về các vấn đề chính trị xã hội, văn hoá, hình thành những phẩm chất cao
đẹp, năng lực ứng xử, biết phát hiện và giải quyết các vấn đề một cách thoả đáng,
hợp lí, bồi dưỡng các kĩ năng cần thiết cho hành trang tương lai của học sinh: ngôn
ngữ, diễn đạt, lập luận, óc phê phán, tinh thần phản bác trước các hiện tượng tiêu
cực trong đời sống hiện tại.
Thể loại văn nghị luận giữ một vị trí khá quan trọng trong chương trình sách
giáo khoa Ngữ văn THPT. Các văn bản nghị luận trong sách giáo khoa đều có tính
tư tưởng cao và giàu tính nghệ thuật. Do đó, đảm bảo một giờ dạy văn nghị luận có
hiệu quả là một yêu cầu và cũng là một “thử thách” đối với giáo viên dạy văn.
Vì vậy, việc nghiên cứu để nắm vững đặc điểm của thể loại nghị luận và
những phương pháp dạy học văn nghị luận ở trường THPT có một ý nghĩa thực
tiễn quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy học nghị luận.
Thực tiễn giảng dạy văn bản nghệ thuật nói chung, văn bản nghị luận nói
riêng, việc tuân thủ nguyên tắc: bám sát hoàn cảnh nảy sinh tác phẩm (hoàn cảnh

xã hội, hoàn cảnh cảm hứng), bám sát văn bản ngôn từ tác phẩm, dựa vào đặc điểm
cá tính sáng tạo của nhà văn, những tri thức về văn hoá và quy luật tâm lí, xã hội
… vẫn là những căn cứ khoa học vững chắc trong việc chiếm lĩnh và triển khai nội
dung, hình thức, ý nghĩa và các giá trị tác phẩm.
Việc giảng dạy các văn bản nghị luận gặp không ít khó khăn về nhiều mặt
(tầm hiểu biết về chính trị, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, tài liệu tham khảo, thời
gian, không gian của văn bản, tâm lí giảng dạy của giáo viên và tiếp nhận của học
sinh…). Vì vậy, đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực rèn luyện không ngừng mới mong có
những giờ học hiệu quả thật sự theo tinh thần đổi mới hiện nay. Phương pháp dạy
học không phải là mở “lý thuyết trừu tượng” mà là sự cụ thể hoá bằng việc thiết kế
bài giảng, quá trình hiện thực hoá bài giảng trên lớp.
19
KIẾN NGHỊ
+ Nhà trường nên tạo điều kiện cho Giáo viên có năng lực không chỉ trong
lĩnh vực kĩ thuật, mà trong tất cả các lĩnh vực khác có điều kiện để nghiên cứu
+ Có sự hỗ trợ về kinh phí và có sự động viên kịp thời khi giáo viên đưa ra
những ý tưởng, sáng kiến, đề tài có tính khả thi cao
+ Nên có những buổi sinh hoạt chuyên đề nhằm trao đổi kinh nhiệm về
chuyên môn và những vấn đề có liên quan trong việc chế tạo đồ dùng, từ đó có thể
rút ra các giải pháp phù hợp với từng môn học và với đối tượng học sinh.
Việc đưa ra một vài giải pháp có tính bổ trợ thêm như trên chỉ là những kinh
nghiệm có tính chất cá nhân được rút ra trong quá trình giảng dạy của bản thân. Vì
thế, khó tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế nhiều mặt. Rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến tích cực từ phía quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
, tháng 02 năm 2015
Người thực hiện

ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
20
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRÊN


21

×