Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TRÀO LƯU TRIẾT HỌC KHOA HỌC VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NHẬN THỨC KHOA HỌC TRONG XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.11 KB, 17 trang )

K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH


Đề tài tiểu luận triết học:

TRÀO LƯU TRIẾT HỌC KHOA HỌC VÀ SỰ ẢNH
HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NHẬN THỨC KHOA HỌC TRONG
XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI

HỌC VIÊN THỰC HIỆN: PHAN KHÁNH SƠN

- STT: 84

NHÓM 2 - LỚP ĐÊM 1- KHÓA 22
GIẢNG VIÊN PHỤ TRÁCH: TS. BÙI VĂN MƯA

TP.HCM, tháng 12 năm 2012


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

TRÀO LƯU TRIẾT HỌC KHOA HỌC VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA
NÓ ĐẾN NHẬN THỨC KHOA HỌC TRONG XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
HIỆN ĐẠI

Lời mở đầu:
Trong thế giới tồn cầu hóa hiện nay, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập tổ


chức thương mại thế giới WTO, xu hướng giao lưu hội nhập quốc tế ngày càng
cấp bách và là tất yếu cho quá trình đổi mới và phát triển của đất nước. Điều đó
địi hỏi chúng ta cần chủ động nghiên cứu khơng chỉ các trào lưu triết học
phương Đơng mà cịn cả các trào lưu triết học phương Tây. Việc nghiên cứu đề
tài “các trào lưu triết học khoa học và sự ảnh hưởng của nó đến nhận thức
khoa học trong xã hội phương Tây hiện đại” giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về
thế giới quan, lối tư duy, phương pháp nghiên cứu khoa học,đặc biệt là nhận thức
khoa học trong xã hội phương Tây hiện đại...đã giúp họ đạt được những thành
tựu to lớn về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, phương pháp luận... Đây thực
sự là một phần cầu nối về tri thức trong quá trình hội nhập Đông - Tây. Bài tiểu
luận được viết dựa trên nguồn tài liệu chính từ giáo trình của TS.Bùi Văn Mưa Trưởng Tiểu ban Triết học Trường Đại học kinh tế TPHCM. Ngồi ra cịn tham
khảo các bài viết Những vấn đề về Triết học phương Tây của các tác giả thuộc
ĐH KHXH&NV-ĐHQGHN và các nguồn tài liệu khác. Với thời gian hạn hẹp
của một bài tiểu luận và sự hiểu biết có giới hạn trong biển kiến thức mênh mông
nhân loại, bài viết mong muốn nêu lên ảnh hưởng của trào lưu hậu thực chứng
đến nhận thức khoa học trong xã hội phương Tây thời hiện đại.

Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

1


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

I-Hoàn cảnh ra đời:
Sự phát triển như vũ bão của lực lượng sản xuất sau khi giai cấp tư sản ở các
nước châu Âu giành được chính quyền từ giữa thế kỷ XIX với nền sản xuất cơ
khí hóa, điện khí hóa, tự động hóa cao đã cung cấp cho xã hội một khối lượng
hàng hóa khổng lồ, giúp nâng cao mức sống cho con người... Khoa học - kỹ
thuật - công nghệ mang lại cho con người những kỳ vọng to lớn về tương lai

nhưng cũng gây ra những hậu quả vơ cùng nghiêm trọng, có sức tàn phá, hủy
diệt lớn đối với cuộc sống của con người, làm tan biến những giá trị truyền
thống của nhân loại, gây ra những hoài nghi, bi quan về tương lai. Con người
đứng trước hiện thực phức tạp, nhìn về tương lai với những kỳ vọng xen lẫn thất
vọng, những lạc quan bị che lấp bởi những bi quan,...
Chủ nghĩa khoa học dựa trên yêu cầu mới đó trong khoa học tự nhiên hiện đại
đã đưa ra các quan điểm triết học thực chứng của mình để đáp ứng nhu cầu củng
cố và phát triển khoa học.
II-Khái quát các trào lưu:
Triết học duy khoa học bao gồm 2 trào lưu nối tiếp nhau: Trào lưu thực
chứng và Trào lưu hậu thực chứng. Sự ra đời và phát triển của hai trào lưu triết
học này có quan hệ chặt chẽ với sự phát triển như vũ bão của khoa học ở phương
Tây thế kỷ XX.
II.1- Trào lưu thực chứng:
Chủ nghĩa thực chứng xuất hiện và phát triển trong điều kiện cuộc cách
mạng khoa học đầu thế kỷ XX phát triển mạnh mẽ,có ảnh hưởng sâu sắc đến xã
hội phương Tây hiện đại, nhất là sự phát triển của toán học, phương pháp toán
học và đến nhận thức khoa học.
Ra đời vào những năm 30-40 của thế kỷ XIX ở Pháp, sau đó ở Anh với khẩu
hiệu Bản thân khoa học đã là triết học; Tri thức về thế giới là đặc quyền của khoa
học thực chứng... Các triết gia thực chứng cho rằng, triết học không nên nghiên
cứu những vấn đề như bản chất của sự vật, các quy luật chung của thế giới... mà
cần phải đi tìm những phương pháp hiệu quả và đáng tin cậy nhất để có được tri
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

2


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1


thức khoa học thực chứng. Chủ nghĩa thực chứng đã phát triển qua 3 giai
đoạn:Giai đoạn thực chứng cổ điển xuất hiện vào thập niên 30 của thế kỷ XIX,
với những đại biểu là Côngtơ (Comte) ở Pháp, Spenxơ (Spencer), Minlơ (Mill) ở
Anh. Giai đoạn kinh nghiệm phê phán xuất hiện vào thập niên 70 - 90 thế kỷ
XIX. Đại biểu của giai đoạn này là Makhơ (Mach) và Avênariút (Avenarius).Giai
đoạn thực chứng mới ra đời sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và phát triển cao
vào những năm 50 với nhiều chi phái như chủ nghĩa ngun tử lơgích xuất hiện từ
1920 với đại biểu là Rútxen (Russell) và Vítgenxtanh (Wittgenstein);chủ nghĩa
thực chứng lơgích và triết học phân tích với đại biểu chính là Cácnáp (Camap), Slích
(Shelich)...
Khi mới ra đời, chủ nghĩa thực chứng đã đáp ứng được nhu cầu củng cố và
phát triển khoa học nên được giai cấp tư sản khuyến khích và tuyên truyền rộng
rãi. Mặc dù chủ nghĩa thực chứng có vai trị tích cực giúp một số ngành khoa học
tự nhiên thoát khỏi một số tình trang bế tắc và thúc đẩy sự phát triển của tri thức
khoa học,nhưng do coi thường tư duy lý luận nên nó khơng thể thúc đẩy sự phát
triển của khoa học tự nhiên hiện đại ngày càng mang tính lý luận được.
II.2 - Trào lưu hậu thực chứng:
Như đã trình bày ở trên, những thành tựu của chủ nghĩa thực chứng trong xây
dựng lý thuyết khoa học đã có ảnh hưởng đến sự phát triển khoa học trong xã
hội hiện đại. Nhiều lý thuyết khoa học của nhiều ngành khoa học ra đời như lý
thuyết toán học. lý thuyết cơ học, vật lý học, hoá học, sinh học, xã hội học, kinh
tế học, tâm lý học v.v... Tuy nhiên, với sự phát triển ngày càng nhanh của khoa
học trong xã hội phương Tây vào những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, chủ nghĩa
thực chứng với mong muốn quy mọi lý thuyết khoa học về kinh nghiệm khoa học
của nó ngày càng trở nên lạc hậu hơn và khơng thích hợp được nữa với sự phát triển
khoa học. Điều đó địi hỏi quan điểm của chủ nghĩa thực chứng phải thay đổi.
Q trình phê phán sai lầm đó của chủ nghĩa thực chứng đưa đến sự ra đời
chủ nghĩa hậu (phản) thực chứng, về mặt này, có thể xem chủ nghĩa hậu thực
chứng xuất hiện với tư cách là trào lưu triết học đối lập với chủ nghĩa thực chứng
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa


3


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Các vấn đề tăng trưởng tri thức, thay đổi
lý luận, phát triển khoa học... được nghiên cứu gắn liền với thực trạng khoa học
lúc bấy giờ theo tinh thần phủ chứng và quan điểm lịch sử.
Trên thực tế, vào những năm 60 - 70 của thế kỷ XX chủ nghĩa hậu thực
chứng đã hình thành một cách căn bản, mà người đặt nền móng là Karl Poppermột nhà triết học Anh. Những người tiếp tục phát triển tư tưởng của Karl Popper
là Imre Lakatos, Thomas Kuhn, Paul Feyarabend,...Dưới đây chúng ta sẽ tìm
hiểu kỹ hơn về ảnh hưởng của trào lưu hậu thực chứng đến nhận thức khoa học
trong xã hội phương Tây thời hiện đại.
III- Trào lưu hậu thực chứng và sự ảnh hưởng của nó đến nhận thức khoa
học trong xã hội phương Tây hiện đại:
III.1-Chủ nghĩa phủ chứng của Karl Popper (Pốppơ):
Karl R. Popper (1902-1994) là một nhà triết học, xã hội học, logic học người
Áo. Ông được coi là một trong những triết gia vĩ đại nhất thế kỉ XX. Ban đầu,
Karl R. Popper chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa thực chứng logic, song ông cũng là
một trong những người đầu tiên phê phán trường phái đó, và xây dựng trường
phái triết học của riêng mình. Là người đặt nền móng cho trào lưu hậu thực
chứng.Tuy xuất thân từ phái thực chứng, Popper đã vượt qua những khuyết điểm
của phái này và có nhiều đóng góp vào triết lý khoa học hiện đại. Trái với thực
chứng, ông cho rằng tất cả những quan sát (observations) đều khơng trung tính,
mà đầy lý thuyết (theory laden). Ơng nghĩ rằng khơng có các môn đề (subject
matters) như tâm lý, xã hội, thiên nhiên mà chỉ có các vấn đề (problems) và ước
muốn của chúng ta để giải thích chúng. Đối với Popper, câu hỏi then chốt là: làm
sao chúng ta có thể xác định một lý thuyết là khoa học hay không khoa học (mà
ông gọi là ngụy khoa học).

Nếu chủ nghĩa thực chứng lơgích trước đó coi khoa học là cái gì có thể kiểm
chứng được, bằng quan sát, dữ liệu, theo một số quy luật và những gì khơng thể
kiểm chứng được một cách lơgích là siêu hình học, hay "ngụy khoa học". Điều
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

4


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

này đã bộc lộ nhiều giới hạn như lắm khi một lý thuyết (thí dụ như thuyết nguyên
tử với các điện tử) dù không quan sát được với kỹ thuật đương thời nhưng rồi đã
được kiểm nghiệm với kỹ thuật tiến bộ hơn thì với Karl Popper,ơng đã đưa ra
quan điểm mới tốt hơn triết lý thực chứng lơgích. Theo ơng, để phân biệt "khoa
học thật" sự với "ngụy khoa học" và siêu hình học, ta cần tiêu chuẩn: một lý
thuyết chỉ mang tính khoa học khi nó có thể chứng nghiệm là sai. Đây là tính
phản nghiệm (falsification) nổi tiếng của Popper, có nhiều ảnh hưởng vào thập
niên 1970. Chủ nghĩa phủ chứng của Karl Popper cho rằng, một lý luận được gọi
là khả phủ chứng nếu từ nó rút ra ít nhất một trần thuật có thể xung đột với một
vài sự kiện nào đó. Một lý thuyết khoa học mới chỉ xứng đáng thay thế một lý
thuyết đang có khi lý thuyết mới ấy tổng quát hơn, giải thích được hết những gì
lý thuyết cũ có khả năng giải thích, và hơn nữa, giải thích được nhiều trường hợp
mà lý thuyết cũ đã bị phản nghiệm. Rồi, bản thân lý thuyết mới ấy tự nó phải cho
nhiều cơ hội phản nghiệm. Và sau cùng, khoa học "thực sự" phải có những tiên
đốn về các hiện tượng chưa quan sát nhưng sẽ xảy ra, và có thể kiểm chứng.
Theo ơng, lý luận được bác bỏ càng nhanh càng tốt, càng làm cho tính tinh
xác và tính phổ quát của các trần thuật lý luận ngày càng cao.
Pốppơ đã nâng khái niệm phủ chứng lên thành nguyên tắc phủ chứng mang
tinh thần lý tính phê phán.
Theo Pơppơ, khoa học là một sự nghiệp mang tính thể nghiệm nên sai lầm

khó tránh khỏi. Nhà khoa học không phải chỉ biết phủ định lý luận của người
khác mà phải dám và tìm mọi cách phủ định lý luận của chính mình.
Ơng cho rằng, khoa học bắt đầu phát triển từ vấn đề khoa học và tri thức khoa
học sẽ tăng trưởng theo sơ đồ. Quan niệm về quá trình phát triển tri thức khoa
học Pơppơ có mặt hợp lý ở chỗ nó đã mơ tả được thực tế phát triển khoa học ở
trình độ lý thuyết, góp phần làm sáng tỏ một vấn đề quan trọng là: lý thuyết khoa
học xét về nguyên tắc không thể quy về tri thức kinh nghiệm như quan niệm của
chủ nghĩa thực chứng mới. Sự phát triển các lý thuyết khoa học có tính độc lập
tương đối, khơng hồn tồn phụ thuộc vào việc tổng kết kinh nghiệm, mà còn do
các yếu tố khác quy định.
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

5


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

Đi từ phản nghiệm, Popper cũng đã có nhiều đóng góp quý báu qua “duy lý
luận phê bình” với tác phẩm "The Open Society and its Enemies" ("Xã hội mở và
các kẻ thù của nó"). Ơng cho rằng trong cộng đồng khoa học cũng như trong xã
hội, để có tiến bộ và phát triển, phải chấp nhận có phê phán, mở rộng phê bình
các lý thuyết, chủ thuyết cạnh tranh qua duy lý để đi đến "sự thật". Thái độ trong
“duy lý luận phê bình” có thể được diễn tả là "anh có thể đúng, tơi có thể sai,
nhưng với một chút cố gắng, chúng ta có thể đến gần với sự thật". “Duy lý luận
phê bình” mạnh dạn cho rằng có "sự thật" tuyệt đối, và chấp nhận có sự thiếu
hiểu biết trong kiến thức của con người. Nó kêu gọi cộng tác và cạnh tranh để
đưa đến ý niệm mới, kiến thức mới gần với sự thật, có lợi cho tất cả mọi người
trong xã hội qua quá trình chỉ trích khơng giới hạn.
Tuy vậy chủ nghĩa phủ chứng có những khúc mắc, nhất là với những nhà
khoa học xã hội. Theo những người này thì tiêu chuẩn ấy quá cứng nhắc, áp

dụng nó một cách rạch rịi thì ngay cả thuyết tiến hố của Darwin cũng khơng là
khoa học.
III.2- Chủ nghĩa phủ chứng tinh tế của Lakatos (Lacatốt):
Cơ bản quan điểm của Kuhn và Feyarabend là phản ứng lại “mơ hình cứng”
của Popper, Lakatos cũng là một phản ứng khác, nhưng khơng q khích, "vơ trật
tự" hay "vơ chính phủ" như Feyarabend. Chỉ ra sai lầm cơ bản của chủ nghĩa phủ
chứng thô sơ Pốppơ là quá đề cao tính phủ chứng của kinh nghiệm, Lacatốt đã
khắc phục nó bằng chủ nghĩa phủ chứng tinh tế.
Triết gia này kết hợp quan điểm của Kuhn với phương pháp phản nghiệm (có
cải tiến) của Popper, cho rằng khoa học là một chuỗi những chương trình nghiên
cứu, từng bước tiến lên từ một vấn đề này đến vấn đề khác. Quan điểm của
Lakatos có vẻ hợp lý nhất đối với đa số các ngành khoa học hiện đại (kể cả các
ngành khoa học xã hội).
Lakatos cho thấy thêm những khuyết điểm của thuyết phản nghiệm Popper:
một lý thuyết bị phản nghiệm là sai (do bằng chứng) vẫn có thể được giữ lại nếu
có sự thay đổi về các giả định đằng sau bằng chứng ấy. Ơng chỉ trích thuyết
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

6


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

Popper vì theo thuyết này thì chỉ cần một phản nghiệm duy nhất có tính quyết
định là phải vứt bỏ ngay một giả thuyết khoa học. Ơng cho rằng, tính chất cơ bản
của lý luận khoa học khơng phải là tính khả phủ chứng mà là tính mềm dẻo chịu
đựng và tính phụ thuộc lẫn nhau. Nếu biết điều chỉnh thích đáng tri thức bối cảnh
thì lý luận khoa học có thể sống sót từ sự phản bác kinh nghiệm. Ơng kết luận:
Sự thật kinh nghiệm không thể xác chứng hay phủ chứng một trần thuật lý luận nào.
Khi xung đột với sự thật kinh nghiệm, lý luận không nhất thiết phải bị đào

thải mà đòi hỏi phải điều chỉnh lại để cứu vãn nó.Muốn đánh giá đúng một lý
luận nào đó cần phải đặt nó trong mối liên hệ với những lý luận khác hay với
những giả thuyết phụ trợ của nó, phải đặt nó trong điều kiện, hồn cảnh mà nó
xuất hiện, nghĩa là phải có quan điểm tồn diện, lịch sử - cụ thể.
Lacatơt cho rằng, tính khoa học chỉ là thuộc tính của một hệ nhiều lý luận
liên kết chặt chẽ với nhau mà ông gọi là “Cương lĩnh nghiên cứu khoa học” được
tạo thành từ bốn yếu tố là: hạt cứng, dây bảo hộ, quy tắc gợi ý phản diện và quy
tắc gợi ý chính diện. Một cương lĩnh nghiên cứu chỉ bị phủ chứng khi xuất hiện
một cương lĩnh nghiên cứu mới T’ tiến bộ hơn.
Nói tóm lại, phản nghiệm kiểu Lakatos là dựa vào sự liên hệ giữa các thuyết
khoa học, trong khi phản nghiệm kiểu Popper chỉ xem xét một lý thuyết nào đó
có khoa học hay không.
Dựa trên chủ nghĩa phủ chứng tinh tế, Lacatốt xây dựng lại lịch sử khoa học
và thuyết minh quá trình tăng trưởng tri thức khoa học một cách hợp lý. Ơng
cịn dùng lịch sử khoa học để đánh giá các phương pháp luận cạnh tranh nhau
trong trào lưu triết học khoa học bấy giờ.
Theo ông, lịch sử khoa học chỉ được xây dựng hợp lý khi biết kết hợp lịch sử
bên trong với lịch sử bên ngoài (các yếu tố tâm lý, lịch sử, xã hội) của khoa học,
đặc biệt là biết vận dụng lý tính tự do vơ hạn để hóa dễ mọi khó khăn.
Như vậy, nếu chủ nghĩa phủ chứng thô sơ chỉ quan tâm đến khía cạnh
lơgích, lý tính mà ít hay khơng chú trọng đến lịch sử, sự kiện hiện thực, thì chủ
nghĩa phủ chứng tinh tế đã bàn đến vai trò của lịch sử hiện thực, nhưng lịch sử
hiện thực lại bị che đậy kín đáo bởi lý tính tự do vơ hạn. Điều này nói rằng, chủ
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

7


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1


nghĩa phủ chứng cố vượt ra khỏi chủ nghĩa lơgích, nhưng nó vẫn cịn bị ràng
buộc với lý tính lơgích và chủ nghĩa lịch sử mới chỉ nhú mầm chứ chưa bám rễ
vững chắc.
III.3- Chủ nghĩa lịch sử của Thomas Kuhn (Cun):
Xuất phát từ thực trạng của khoa học và các yếu tố bên ngoài của khoa học,
Cun đã làm cho chủ nghĩa lịch sử xuất hiện với một sức sống mãnh liệt.
Trong cuốn sách nổi tiếng của Thomas Kuhn, Cấu trúc các cuộc Cách mạng
Khoa học được xuất bản vào năm 1962. Khác với quan niệm về tính phản
nghiệm của Karl Popper, Kuhn muốn chứng minh rằng các lý thuyết khoa học
trong lịch sử không hề bị loại bỏ khi chúng tỏ ra sai, mà chỉ đến khi nào chúng
được thay thế. Sự thay thế này là một hiện tượng "xã hội" địi hỏi phải có sự
tham gia của cả một cộng đồng các nhà nghiên cứu, cùng thống nhất với nhau
về một quy trình xoay quanh việc giải thích một số hiện tượng hoặc một số thí
nghiệm nhất định. Cộng đồng này có một cấu trúc đặc thù riêng (các cuộc tọa
đàm, hội thảo, các ấn phẩm...) độc lập nhau, bị chi phối bởi các kiểu mẫu mực
khác nhau. Kuhn còn lập luận rằng , về mặt nội dung, các kiểu mẫu mực hồn
tồn khác nhau, do đó chúng khơng thể so sánh được.
Ngày nay khái niệm kiểu mẫu mực được sử dụng khá rộng rãi trong hầu
khắp các lĩnh vực, đặc biệt ở các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, với cách
hiểu hoặc trùng khớp hoặc không xa lắm với cách hiểu của Thomas Kuhn và có
thể nói chính Cun là cha đẻ của khái niệm đó.
Thomas Kuhn đặt khoa học trong diễn trình phát triển năng động hơn là
trong một sơ đồ tĩnh tại. Chính kích thước lịch sử của khoa học giúp ta đến gần
hơn với thực tiễn nghiên cứu.Theo Kuhn, việc nghiên cứu lịch sử khoa học
khơng chỉ nhằm giải thích sự năng động của các khoa học dưới góc độ nhận
thức mà còn phải xét đến các nhân tố xã hội. Tuy không phải là người đầu tiên
đứng trên lập trường này (trước đó, vào những năm l920 và 1930, đã có những
cố gắng của các nhà triết học maxist như Nicolai Bukharin, Boris Hesen và John
D. Bernal nhằm phát triển một quan điểm lụy ngoại [externalist] về lịch sử khoa
học, nhấn mạnh vào các yếu tố quyết định của xã hội và của hệ tư tưởng đối với

Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

8


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

các sản phẩm tri thức), nhưng Thomas Kuhn nhìn chung được mọi người coi
như người sáng lập đích thực của cách tiếp cận mới.
Cun không chỉ liên kết kiểu mẫu mực với cộng đồng khoa học mà còn cố
gắng kết hợp lịch sử bên trong với lịch sử bên ngoài của khoa học, cố gắng kết
hợp lịch sử khoa học với xã hội học và tâm lý học khoa học... nhằm vạch ra và
khảo sát các yếu tố chi phối sự phát triển khoa học. Do tình hình phát triển khoa
học vào thập niên 50 thế kỷ XX đòi hỏi phải tổng hợp tri thức khoa học chuyên
ngành, đòi hỏi phải làm rõ tính chỉnh thể thống nhất, của khoa học hiện đại, và
do hoạt động của nhà khoa học luôn chịu sự chi phối bởi một kiểu quan điểm,
một loại nguyên tắc, một kiểu khn mẫu nào đó nhất định... mà định hướng
nghiên cứu đúng đắn này của Cun đã được giới khoa học phương Tây nhiệt
thành hưởng ứng.
Cun coi khoa học là kết quả hoạt động của các khối cộng đồng khác nhau, có
sử dụng các kiểu mẫu mực khơng giống nhau nhưng ln thay đổi để hồn thiện
chính mình; coi lịch sử khoa học không chỉ là lịch sử trừu tượng của tư tưởng
mà còn là lịch sử của khối cộng đồng khoa học, luôn bị chi phối bởi các quy luật
nội tại và những áp lực lớn từ bên ngoài khoa học như các tư tưởng triết học,
các yếu tố lịch sử - xã hội, các yếu tố tâm lý cá nhân... Khi khái quát nhận định
này ông đưa ra lý luận “Động thái phát triển khoa học”, trong đó khẳng định mỗi
chu trình phát triển của khoa học phải trải qua bốn thời kỳ Tiền khoa học, Khoa
học bình thường , Khủng hoảng khoa học và Cách mạng khoa học. Lý luận này
của Cun ảnh hưởng không những khoa học-kỹ thuật mà xã hội học, triết học,
thần học, khoa học xã hội và cả tôn giáo cũng thấy sự liên quan. Có thể nhắc tới

vài gợi suy sau: Khi thấy có nhiều “ngoại lệ”, cần nghĩ ngay đến việc xem xét
lại kiểu mẫu mực cịn thích hợp.Đầu tư quá nhiều vào khoa học “thông thường”
trong khi kiểu mẫu mực đã lạc hậu sẽ không hiệu quả bằng tìm ra kiểu mẫu mực
mới. Nếu cứ cố tìm cách cải tiến cái đèn dầu hỏa thì khó có thể phát minh ra đèn
điện. Các nhà khoa học đầu ngành của thế giới thường dự đoán được: hướng
nghiên cứu sắp bế tắc và khơng cịn chỗ cho khoa học “thơng thường”. Những
suy nghĩ, trăn trở của họ, mặc dù có thể chỉ là những mảnh ghép lẻ tẻ, không hệ
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

9


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

thống, nhưng gợi mở rất nhiều về kiểu mẫu mực mới, quan niệm và cách nhìn
mới…Khi yếu tố tác động (hay điều kiện) thay đổi, Ví dụ: khi xuất hiện vật liệu
mới với những tính năng mới, khi xuất hiện cơng nghệ mới… cần thay đổi ngay
kiểu mẫu mực thì những nghiên cứu sau đó mới hiệu quả. Những sáng tạo, đột
phá trong khoa học-công nghệ thường xuất phát từ thay đổi kiểu mẫu mực.
Tóm lại, các lý luận về cách mạng khoa học, về vai trò của yếu tố lịch sử tâm lý - xã hội tác động đến việc xác lập kiểu mẫu mực (hay lý luận khoa học),
về vai trò của kiểu mẫu mực quy định quan điểm - lý luận - phương pháp cơ bản
của một khối cộng đồng khoa học, về sự cạnh tranh giữa các kiểu mẫu mực trong
q trình phát triển khoa học... ln là những giá trị to lớn của triết học Cun.
Ông xứng đáng là người khởi xướng chủ nghĩa lịch sử và làm cho nó tn ra
mạnh mẽ trong trào lưu triết học khoa học.
Tuy nhiên, bên cạnh thành công và những đóng góp có giá trị khơng thể chối
bỏ, những phê phán cho rằng dường như ông đã gán cho khoa học quá nhiều
màu sắc chủ quan và phi duy lý, quan niệm về khoa học theo chiều hướng tương
đối luận. Các nhà tư tưởng hậu hiện đại và hậu cấu trúc cho rằng Cun đã cố
chứng minh cho sự phụ thuộc thái quá của tri thức khoa học vào văn hóa và

hồn cảnh lịch sử của cộng đồng khoa học, mà quên đi khía cạnh nhận thức và
phương pháp.
III.4- Paul Feyarabend với Phương pháp luận đa nguyên (Phâyeraban):
Tiếp tục phát triển Chủ nghĩa lịch sử trong “Phương pháp luận đa nguyên” .
Trong tác phẩm nổi tiếng "Against method" ("Chống phương pháp"),
Feyerabend cho rằng khơng có một phương pháp khoa học nào là thích hợp cho
mọi trường hợp, và hơ hào "dân chủ" trong nghiên cứu khoa học. Ông định nghĩa
"khoa học là cái gì mà các nhà khoa học làm"! Feyarabend kêu gọi phân chia,
tách rời ảnh hưởng khoa học ra khỏi xã hội, giống như tách rời tôn giáo và nhà
nước, để tránh sự độc tôn của một chủ thuyết khoa học trong việc vận hành xã
hội.

Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

10


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

Đề cao phương pháp lựa chọn, Phâyeraban cho rằng: Nhà khoa học năng
động sáng tạo là người biết sử dụng phương pháp này để thu hút, kết hợp các
kiến giải khác với kiến giải của mình, biết so sánh tư tưởng của mình với tư
tưởng của người mà khơng nhất thiết phải đối chiếu với kinh nghiệm; mỗi cá
nhân đều có thể và cần phải đóng góp càng nhiều, càng tốt vào sự nghiệp văn hóa
chung của nhân loại.
Ơng cho rằng khơng một phương pháp hay phương thức nào có thể gọi là
chuẩn để tuân theo trong nghiên cứu khoa học. Nói cách khác, không nên loại bỏ
phương pháp nào. Kết quả của các nhà khoa học dựa vào các phương pháp khơng
phải lúc nào cũng thành cơng. Ta chỉ có thể đánh giá thành tựu sau kết quả của
nghiên cứu, và khơng thể tiên đốn chắc chắn về sự thành cơng của các phương

pháp. Về điểm này, Feyerabend, trong tư duy khoa học, dường như chia sẻ cùng
một cảm thức với Robbe-Grillet- nhà văn nổi tiếng Pháp trong lĩnh vực văn
chương: “Thế giới thế nào thì tơi khơng biết, nhưng nếu ta tiếp cận nó bằng hình
thức thích hợp, nó sẽ bộc lộ ra bằng nhiều cách khác nhau. Tất nhiên, đó khơng
phải là một lý thuyết theo nghĩa cũ mà là một bức tranh”.
Theo Feyarabend, có nhiều loại khoa học khi con người tiếp cận với thế giới
bên ngoài và học hỏi qua nhiều phong cách, quan niệm khác nhau. Thí dụ, ở
vùng sa mạc nam California xưa kia có cả ngàn thổ dân Cuahila mà ngày nay chỉ
có một vài gia đình da trắng có thể ở và tồn tại được. Dân tộc Cuahila sống được
là vì họ có những kiến thức mà họ tiếp thu qua con đường khác phương pháp mà
chúng ta gọi là "khoa học". Khoa học của Tây phương hiện nay chỉ là một trong
nhiều loại khoa học mà thôi. Chúng ta phải chấp nhận và sử dụng thành quả kiến
thức của các xã hội bản địa để phục vụ và làm lợi cho họ chứ khơng phải áp đặt
thay thế hồn tồn những kiến thức ấy.
Cơ bản, khoa học là một hoạt động "vô tổ chức" và nhân bản, Feyarabend
khẳng định. Vì thế, theo ông, nên khuyến khích, thúc đẩy sự tiến bộ, thay vì ép
buộc khoa học vào một khn khổ được chỉ đạo theo "luật lệ và trật tự". Một
nguyên lý duy nhất không ngăn cản sự tiến bộ của con người là: tất cả đều được
cho phép và hoạt động. Feyarabend cho rằng nên bãi bỏ sự phân biệt giữa bối
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

11


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

cảnh của sự khám phá và bối cảnh của sự phản nghiệm, của tiêu chuẩn, của dữ
kiện quan sát. Cố gắng phân biệt chúng sẽ có những kết quả thảm hại khơng
lường được. Theo Feyarabend, chủ nghĩa duy lý phê phán của Popper thất bại là
vì thế. Trong xã hội dân chủ, khoa học phải được tách rời ra khỏi chính quyền

cũng như tơn giáo đã được tách ra khỏi chính quyền như hiện nay; không một
phương pháp hay một tôn giáo nào được độc tơn trong hệ thống chính quyền xã
hội.
Với phương pháp khôi phục lại lịch sử, ông kêu gọi con người phải giữ lấy
mọi ý tưởng, quan niệm, lý luận đã được phát hiện ra để cân nhắc, bổ sung, hoàn
chỉnh lý luận, quan điểm, ý tưởng mới của mình, mà khơng có cái gì phải vứt vào
sọt rác của lịch sử cả.
Với phương pháp phi lý tính, ơng coi lý tưởng thời hiện đại, điều kiện xã hội,
tâm lý quần chúng, lợi ích giai - tầng, sự nhạy bén của cá tính cá nhân, bối cảnh
tri thức và sự tuyên truyền của khoa học... là những yếu tố phi lý tính thúc đẩy sự
tiến bộ của khoa học. Khoa học và các hình thức phi khoa học như thần thoại, tơn
giáo, siêu hình học khơng cơ lập mà là thẩm thấu vào nhau, cùng thúc đẩy nhau
phát triển.
Khoa học phải được dân chủ hoá và những khoa học gia thiểu số có ý kiến,
phương thức khác với đa số phải được bảo vệ. Bằng nguyên tắc “thế nào cũng
được", ơng chủ trương tạo ra một bầu khơng khí thật dân chủ tự do để khai thác
triệt để tính năng động sáng tạo của giới khoa học.
Feyerabend tiếp tục phát triển chủ nghĩa lịch sử của Cun trong “phương pháp
luận đa ngun”. Nó là định hướng để ơng xây dựng lý luận về khoa học tự do
trong một xã hội tự do. Trong xã hội tự do, khơng có một tiêu chuẩn tuyệt đối
nào để phân giới khoa học và các hình thái ý thức phi khoa học, mà chúng đan
xen xâm nhập vào nhau, vì vậy khơng nên dành cho khoa học một quyền uy
trước các hình thái ý thức khác. Hơn nữa, mục tiêu của khoa học cũng không
phải là mục tiêu quan trọng nhất và khoa học không chi phối mọi sinh hoạt của
con người, mà mỗi con người đều có một điều kiện để sống, một niềm tin để theo
đuổi,một cơ hội để sáng tạo. Từ đây,ông khẳng định chủ nghĩa sôvanh khoa học
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

12



K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

không củng cố sức mạnh và ưu thế cho khoa học mà là trói buộc tính sáng tạo và
tự do lựa chọn của nó. Vì vậy, cần phải phấn đấu xây dựng khoa học tự do trong
một xã hội tự do.

Kết luận:
Xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển từ sau chiến tranh thế
giới thứ II của trào lưu hậu thực chứng phương Tây, đi từ Karl Popper -người
đặt nền móng cho chủ nghĩa hậu thực chứng với Chủ nghĩa phủ chứng, rồi đến
Chủ nghĩa phủ chứng tinh tế của Lakatos, Chủ nghĩa lịch sử của Thomas Kuhn,
Phương pháp luận đa nguyên của Paul Feyarabend nối tiếp nhau phát triển một
cách mạnh mẽ, đặc biệt là vào những năm 60 - 70 của thế kỷ XX giúp chúng ta
có cái nhìn tổng quan về đóng góp và sự ảnh hưởng cũng như hạn chế của nó
đến nhận thức khoa học, thế giới quan, lối tư duy, phương pháp nghiên cứu
khoa học trong xã hội phương Tây thời hiện đại giải thích phần nào sự phát triển
của họ trên nhiều mặt... để làm phong phú thêm vốn kiến thức hiểu biết của
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

13


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

chúng ta. Tìm hiểu điều này là cần thiết khơng những trong q trình hội nhập
với thế giới, mà từ đó cịn giúp chúng ta tìm kiếm, lựa chọn cho mình một lối tư
duy, nhận thức, phương pháp luận phù hợp trong sự vận động phát triển năng
động nhưng cũng đầy thách thức, biến động của thế giới ngày nay.


Tài liệu tham khảo:
- Triết học-phần I, Trường Đại học kinh tế TPHCM- TS.Bùi Văn Mưa(chủ biên)ĐH KinhTế TP HCM
- Triết học và bức tranh vật lý học về thế giới- TS.Bùi Văn Mưa - ĐH KinhTế TP
HCM.
- Những vấn đề về Triết học phương Tây-Quan Niệm của chủ nghĩa thực chứng
mới và chủ nghĩa hậu thực chứng về nhận thức khoa hoc- TS.Dương Văn ThịnhĐH KHXH&NV-ĐHQGHN.
- Những vấn đề về Triết học phương Tây-Phương pháp tiếp cận và các trào lưu
chủ yếu- TS.Nguyễn Vũ Hảo- ĐH KHXH&NV-ĐHQGHN.
- Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học Tác giả: Thomas Kuhn Dịch giả: Chu
Lan Đình NXB: Tri thức
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

14


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

- Tri thức khách quan- K.Popper- Chu Đình Lan dịch- NXB Tri Thức.
- Feyerabend, P. Science in a Free Society. New Left Books, London. 1978/82
- P. K. Feyerabend, Khoa học như là Nghệ thuật, Frankfurt / M, 1984, tr. 29
-

Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa

15


K22 – Quản trị kinh doanh – Đêm 1

Mục lục:


Lời mở đầu:..................................................................................................................................1
I-Hoàn cảnh ra đời:.......................................................................................................................2
II-Khái quát các trào lưu:..............................................................................................................2
II.2 - Trào lưu hậu thực chứng:................................................................................................3
III- Trào lưu hậu thực chứng và sự ảnh hưởng của nó đến nhận thức khoa học trong xã hội
phương Tây hiện đại:....................................................................................................................4
III.1-Chủ nghĩa phủ chứng của Karl Popper (Pốppơ):..............................................................4
III.2- Chủ nghĩa phủ chứng tinh tế của Lakatos (Lacatốt):.......................................................6
III.4- Paul Feyarabend với Phương pháp luận đa nguyên (Phâyeraban):................................10
Tài liệu tham khảo:.....................................................................................................................14



×