Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tư tưởng triết học của đêmôcrít và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của thời đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.59 KB, 16 trang )

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
SVTH: Nguyễn Công Danh
LỚP:

D1 K19


MỤC LỤC
I. Mở đầu ..................................................................................... 3
II. Nội dung ................................................................................. 7
1. Thuyết nguyên tử ...............................................................................7
2. Quan niệm về nguồn gốc con người ..................................................8
3. Quan niệm về nhận thức....................................................................9
4. Quan niệm về đạo đức – xã hội. ......................................................10

5. Quan điểm chính trị .............................................................. 11
6. Logic học................................................................................ 11
III. Tính tất yếu và ngẫu nhiên ............................................... 13
IV. KẾT LUẬN ....................................................................................15
V. Tài liệu tham khảo ...........................................................................16


ĐÊMƠCRÍT (460-370 TCN)
NHÀ TRIẾT HỌC, NHÀ BÁC HỌC VỀ THUYẾT NGUYÊN
TƯ THÔ SƠ THỜI HY LẠP CỔ ĐẠI.
I. Mở đầu:
Cách đây hàng nghìn năm, các nhà Triết học, các nhà Bác học từ
Đông sang Tây đã hằng cố gắng đi tìm lời giải đáp và làm sáng tỏ “Bản
nguyên vật chất của thế giới cấu tạo như thế nào?”, “vạn vật xung quanh
ta thiên hình vạn trạng nhưng phải chăng đều do một số yếu tố nào đấy cấu
tạo nên?”


Các triết gia thời Trung Quốc cổ đại đề xướng thuyết âm, dương Ngũ
hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ.
Thời Ấn Độ Cổ đại có phái Samkhya cho rằng vật chất do: khơng
khí, lửa, nước, đất và ête cấu tạo nên.
Các triết gia thời Hy Lạp cổ đại: Héraclite (thế kỷ VI TCN) cho rằng
bản nguyên của thế giới là lửa. Anaximène, người đương thời với
Héraclite, cho rằng bản chất của thế giới là khơng khí. Thalès (625 - 647
TCN) được mệnh danh là một trong bảy "Người hiền triết" thời Hy Lạp cổ
đại chủ trương rằng nguyên bản của thế giới vạn vật là nước, Ông lập luận:
nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của vạn vật, vạn vật bắt đầu từ n ước
và luôn quay trở về với nước, khơng có nước thì khơng có gì cả. Nước tồn
tại vĩnh viễn, còn .
Trong số các nhà triết học và khoa học thời xưa bàn về cấu tạo của vật
chất, người phát biểu đúng đắn hơn cả là nhà Bác học thời Hy Lạp cổ đại
Đêmơcrít, Ơng cho rằng vạn vật muôn màu muôn vẻ, nhưng cuối cùng đều
cấu tạo bởi nhưng phân tử nhỏ nhất là nguyên tử (Tiếng Hy Lạp Atom là


ngun tử, có nghĩa là khơng thể chia cắt được nữa). Thuyết của Đêmơcrít
được gọi là thuyết ngun tử thơ sơ. Trước chúng ta gần 2500 năm
Đêmơcrít đã viết: "Chúng ta nói nóng, chúng ta nói lạnh, chúng ta nói ngọt,
chúng ta nói đắng, chúng ta nói màu số nhưng thực ra chỉ có ngun tử và
chân khơng".

Đêmơcrít (460 – 370 TCN) là nhà triết học duy vật vĩ đại trong thế
giới cổ đại, là đại biểu kiệt xuất nhất của chủ nghĩa duy vật và tầng lớp chủ
nô dân chủ thời cổ Hi Lạp. Ông sinh ra ở một trong những thành phố
thương mại sầm uất là Abdère thuộc xứ Thrace, là miền đất thuộc một
phần của Hy Lạp và nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, phía nam nước Bulgaria.



Ông đã từng đi nhiều nước Ai Cập, Babilon, Ba Tư, Ấn Độ và sau đó về
sống tại Aten. Ở những nơi ơng đi qua, ơng đã tìm hiểu và tiếp thu những
tri thức khoa học và triết học. Ông nhiệt thành ủng hộ phái chủ nô dân chủ,
phản đối kịch liệt phái chủ nô quý tộc, tán d ương tầng lớp thương nhân và
coi họ là tầng lớp tiến bộ thời bấy giờ.
Cũng giống như thầy của mình là Pácmêníc và Lơxíp (500 - 440
TCN) cho rằng cái tồn tại (nguyên tử) tồn tại, nhưng khác với nguyên tử và
chân không cùng là khởi nguyên của thế giới. Trong vũ trụ, ln có những
cơn lốc xốy của các ngun tử xảy ra trong chân không, do vậy mà các
nguyên tử cùng kích thước tụ lại với nhau theo từng loại để tạo nên đất,
nước, lửa, khơng khí. Từ đó tạo ra vùng đất và bầu trời cùng các tinh tú rực
sáng – sự kết tự của nhiều nguyên tử có tốc độ vận động rất lớn. Vạn vật
trong vũ trụ đều sinh, diệt theo luật nhân quả,...
Những tư tưởng về ngun tử của Lơxíp đã được người học trị xuất
sắc của mình là Đêmơcrít hệ thống hóa và phát triển thêm tạo thành một hệ
thống lý luận chặt chẽ và có sức thuyết phục của trường phái nguyên tử
luận – đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời cổ Hi Lạp.
Đêmơcrít sớm tiếp xúc với nhiều nền văn hóa trong khu vực, am hiểu
nhiều lĩnh vực khoa học, là Bác học uyên thâm về nhiều mặt, ông viết
khoảng 70 tác phẩm: ngồi triết học, ơng cịn viết nhiều tác phẩm về toán
học, đạo đức học, tâm lý học, sinh vật học, thi ên văn học, mỹ học, ngôn
ngữ học, âm nhạc và kỹ thuật…và một con người luôn tranh đấu, đầy lạc
quan, tư tưởng Đêmơcrít đã có ảnh hưởng lớn đối với nhiều triết gia đ ương
thời cũng như các thế kỷ tiếp theo.
Tác phẩm quan trọng và cũng rất có giá trị về khoa học mà ơng đã viết
ra là “Cấu trúc vĩ đại của thế giới”. Nh ưng tiếc rằng, sau này người ta chỉ


có thể phỏng đốn lại được nội dung của cuốn sách n ày mà thơi. Vì ngay

trong khi ơng cịn đang sống, thì các tác phẩm do ơng viết ra đã bị các học
trò của nhà triết học đối lập Platon phá hủy theo y êu cầu của thầy mình, và
cuốn sách trên cũng không tránh được số phận nghiệt ngã đó. Thật là bất
hạnh cho riêng ơng và cũng là một tổn thất nặng nề vô giá cho cả sự tiến
bộ của nền khoa học chân chính của nhân loại.
May mắn sau này, nhà triết học Điôgen Laecxơ (Diogene Laerce)
(sống vào nửa đầu thế kỉ thứ III sau công nguy ên) đã viết lại được những
quan điểm về vũ trụ của Đêmơcrít trong bộ sách lớn gồm 10 tập của mình
“Tiểu sử các nhà triết học”.


II. Nội dung:
Đêmơcrít đã xây dựng trường phái ngun tử luận mà nội dung lý
luận bao gồm:
1. Thuyết nguyên tử:
Mặc dù những ý tưởng đầu tiên về nguyên tử đã được Leucippe nêu ra
nhưng chỉ có Đêmơcrít mới làm cho các quan điểm về nguyên tử trở thành
một hệ thống lý luận chặt chẽ và có sức thuyết phục.
Theo ơng, vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên
tử và chân không.

Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, khơng nhìn thấy, khơng
phân chia được, không biến đổi, luôn vận động và tồn tại vĩnh viễn.
Nguyên tử giống nhau về chất nhưng khác nhau về hình dạng (hình cầu,
hình móc câu, hình tứ diện, hình lõm,..), về kích thước, về tư thế (nằm
ngang, đứng, nghiêng). Cũng giống như sự kết hợp giữa các chữ cái tạo
thành các từ ngữ, thì ở đây, sự kết hợp của các nguyên tự tạo thành các sự
vật trong thế giới.



Chân khơng (khơng gian trống rỗng) khơng có kích thước và hình
dáng, nhưng vơ tận; chân khơng chính là khoảng khơng gian trống rỗng. nó
là điều kiện cần thiết cho sự vận động của nguyên tử.
Trong chân không, nguyên tử vận động theo nhiều hướng, theo nhiều
kiểu: lúc chúng cố kết tụ lại, lúc chúng tách rời tán rộng ra. Các nguyên tử,
khi cố kết tụ lại thì sự vật được tạo thành, và khi chúng tách rời nhau thì sự
vật biến mất. Khi chuyển động chúng sẽ va chạm vào nhau để tạo thành
một cơn xoáy lốc nguyên tử. Cơn xoáy này đẩy các nguyên tử nhỏ nhẹ ra
bên ngồi, cịn các ngun tử to nặng thì được quy tụ vào tâm; nhờ đó mà
các tầng lớp nguyên tử cùng kiểu dáng, kích thước và trọng lượng như đất,
nước, lửa, khơng khí, … được tạo thành; và từ đây, hình thành Trái đất, sự
sống, con người cùng các thiên thể trên bầu trời, trong vũ trụ,..
2. Quan niệm về nguồn gốc con người
Theo Đêmơcrít, sự sống phát sinh từ những vật thể ẩm ướt, dưới tác
dụng của nhiệt độ. Sinh vật sống đầu tiên được hình thành từ nước bùn,
chúng sống dưới nước, sau đó lên sống trên cạn và tiến hóa dần đưa đến sự
xuất hiện của con người.
Chỉ có sinh vật mới có linh hồn, linh hồn cũng được tạo thành từ các
nguyên tử, nhưng đó là các ngun t ử hình cầu, nhẹ, nóng và chuyển động
nhanh. Linh hồn khả tử, nó sẽ rời thể xác và tan rã ra thành các nguyên tử
dạng lửa khi sinh vật chết.
Nguyên tử vận động trong chân không theo luật nhân quả mang tính
tất nhiên tuyệt đối. Trong thế giới, mọi sự vật, hiện tượng xảy ra đều theo
lẽ tất nhiên; vì vậy, bản tính thế giới là tất nhiên. Sự thiếu hiểu biết, sự bất
lực trong nhận thức của con người mới sinh ra cái ngẫu nhiên; ngẫu nhiên
mang tính chủ quan.


Như vậy, vạn vật trong thế giới, dù là vô sinh hay hữu sinh, đều xuất
hiện và mất đi một cách tự nhiên, khơng do thần thánh hay ai đó sáng tạo

ra. Thậm chí, nếu có thần thánh thì họ cũng được tạo ra từ nguyên tử và
tồn tại trong chân khơng. Mặc dù Đêmơcrít khơng lý giải được nguồn gốc
của vận động, không biết được linh hồn là hiện tượng tinh thần; nhưng việc
ông khẳng định bản chất thế giới là vật chất – nguyên tử luôn vận động
theo quy luật nhân quả; vũ trụ vật chất là vô hạn và đa dạng, không được
sáng tạo và không bị hủy diệt bởi các thế lực siêu nhiên,.. là quan niệm duy
vật, vơ thần dũng cảm đương thời. Đêmơcrít đã cống hiến cho khoa học tự
nhiên và chủ nghĩa duy vật tư tưởng nổi tiếng về nguyên tử.
3. Quan niệm về nhận thức:
Đêmơcrít cho rằng, mọi nhận thức của con người đều có nội dung
chân thực, nhưng mức độ rõ ràng, đầy đủ của chúng khác nhau. Ông chia
nhận thức chân thực của con người ra làm hai dạng có liên hệ mật thiết với
nhau là nhận thức mờ tối do giác quan mang lại, tức nhận thức cảm tính, và
nhận thức sáng suốt do suy đoán đem đến, tức nhận thức lý tính. Nhận
thức mờ tối chỉ cho ta biết được dáng vẻ bề ngoài của sự vật. Muốn khám
phá ra bản chất của sự vật cần phải tiến hành nhận thức lý tính. Nhận thức
lý tính đáng tin cậy, nhưng đó lại là một q trình đầy khó khăn, phức tạp
và địi hỏi phải có một năng lực tư duy tìm tịi khám phá của con người
khao khát hiều biết.
Như vậy, theo Đêmơcrít, nhận thức cảm tính là tiền đề của nhận thức
lý tính, muốn nắm bắt bản chất thế giới không thể không sử dụng nhận
thức lý tính. Khi đề cao nhận thức lý tính, Đêmơcrít tiến hành xây dựng
các phương pháp nhận thức lơgích như quy nạp, so sánh, giả thuyết, định
nghĩa. Ông được Arixtốt coi là nhà lơgích học đầu tiên phát biểu về nội
dung lơgích học.


4. Quan niệm về đạo đức – xã hội.
Đêmơcrít cho rằng, đạo đức học giúp làm rõ số phận, cuộc sống và
hướng dẫn hành vi, thái độ của từng con người. Sự hiểu biết là cơ sở của

hành vi đạo đức. Sống đúng mực, ơn hịa, khơng gây hại cho mình và cho
người là sống có đạo đức. Hạnh phúc của con người là trạng thái mà trong
đó con người sống trong sự hưởng lạc vừa phải trong sự thanh thản của
tâm hồn tự do. Mặc dù Đêmơcrít coi hạnh phúc hay bất hạnh, tốt hay
xấu,… đều phải dựa trên nghề nghiệp, nhưng ơng ln phản đối sự giàu có
q đáng, phản đối sự trục lợi bất lương, bởi vì chúng là cội nguồn dẫn tới
sự bất hạnh cho con người. Ơng ln đề cao những hành động vị nghĩa cao
thượng của con người. Bởi vì chỉ có những hành vi đầy nghĩa khí mới làm
cho con người trở thành vĩ đại.
Theo Đêmơcrít, con người lúc đầu sống theo bầy đàn, ăn long ở lỗ
nhưng do nhu cầu giao tiếp mà có tiếng nói, do nhu cầu ăn ở mà có nhà
cửa, quần áo, biết chăn ni, săn bắn, trồng trọt,… nghĩa là, nhu cầu vất
chất để tồn tại và phát triển của con người là động lực phát triển xã hội.
Là đại biểu của tầng lớp chủ nô dân chủ, Đêmơcrít ln xuất phát từ
quan niệm duy vật để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp mình, bảo vệ chế độ
dân chủ chủ nô. Theo ông, chế độ dân chủ chủ nô phải gắn liền với nền
thương mại và sản xuất thủ cơng, nhưng nó cũng phải gắn liền với tình
thân ái, với tính ơn hịa và lợi ích chung của công dân tự do, chứ không
phải của nô lệ. Nô lệ cần phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ. Nhà nước
cộng hòa dân cử là nền tảng của chế độ dân chủ chủ nô phải biết tự điều
hành hoạt động của mình theo các chuẩn mực đạo đực và pháp lý. Quản lý
nhà nước phải coi như một nghệ thuật mang lại cho con người hạnh phúc,
vinh quang, tự do và dân chủ.


Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế nhưng với những thành tựu đạt được,
Đêmơcrít đã nâng chủ nghĩa duy vật Hi Lạp cổ đại lên đỉnh cao, làm cho
nó đủ sức đương đầu chống lại các trào lưu duy tâm đang th ịnh hành bấy
giờ.


5. Quan điểm chính trị
Đêmơcrít đứng trên lập trường của phái chủ nô dân chủ, kịch liệt
chống lại phái chủ nơ q tộc. Ơng bảo vệ chế độ dân chủ của chủ nơ trong
đó thể hiện quyền lợi của họ gắn với sự phát triển của thương mại và cơng
nghiệp. Ơng ca ngợi tình thân ái, tính ơn hịa, lợi ích chung và quyền lợi
chung của công dân tực do. Đương nhiên, do xuất thân và bản thân ông
thuộc giai cấp chủ nô, nên ông chỉ đấu tranh để bảo vệ cho nền dân chủ và
quyền lợi của chủ nô, cũng như của công dân tự do. Ông cho rằng “cái
nghèo trong chế độ dân chủ cũng quý hơn cái hạnh phúc của công dân
dưới thời quân chủ, đại ý là tự do quý hơn nô lệ”. Ông coi nhà nước là trụ
cột của xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật
hay các chuẩn mực đạo đức. Ông khẳng định, hạnh phúc là sự thanh thản
trong tâm hồn và được tự do.

6. Logic học
Đêmơcrít chưa phải là người sáng lập lơgic học, nhưng ơng đã đặt nền
móng cho nó, xem nó như cơng c ụ “giải mã” tự nhiên. Khi phân loại lơgic
học, Aristote liệt Đêmơcrít vào hàng tiền bối của lơgic quy nạp, khác với
lơgic diễn dịch của mình. Đêmơcrít từng viết một vài tác phẩm bàn về
lơgic học, trong đó tranh luận với tr ường phái Pythagore, trường phái Elée,
những nhà biện thuyết, nêu ra hàng hoạt quy tắc, giả thiết, khái niệm, nhấn
mạnh vai trò hàng đầu của phép quy nạp. Sau này vào thế kỷ XVII
F.Bacon, người chủ trương phương pháp luận kinh nghiệm - quy nạp, đánh
giá cao Đêmơcrít. Ở tác phẩm “cơng cụ mới” (Novum Organum) F.Bacon


hoan nghênh Anaxagore, Đêmơcrít đã “đi vào tận chiều sâu thăm thẳm của
giới tự nhiên”, đồng thời than phiền rằng truyền thống tốt đẹp đó đ ã bị làm
hoen ố vào thời Trung cổ, khi người ta chỉ tuyên truyền một cách ồn ào tư
tưởng của Platon và Aristote mà quên đi những giá trị tinh thần đích thực

khác.

III. Tính tất yếu và ngẫu nhiên:
Từ những phần đã trình bày trên có thể rút ra mấy nét chính của
ngun tử luận:
1. Đêmơcrít cho rằng các ngun tử và khoảng khơng - “bể chứa các
ngyên tử” - là bản nguyên thế giới;
2. Tính đa dạng của các nguyên tử dẫn đến tính đa dạng của thế giới,
kể cả thế giới con người;
Nguyên tử luận cũng được triển khai vào việc giải thích mối quan hệ
tất yếu - ngẫu nhiên - một trong những mối quan hệ nền tảng của các sự
vật, hiện tượng, quá trình diễn ra khắp nơi.
Trước nay, nhiều nhà viết sử cổ đại vẫn đinh ninh rằng, Đêmơcrít loại
bỏ khái niệm “ngẫu nhiên” ra khỏi học thuyết của mình, căn cứ vào nhận
định: khơng một sự vật nào sinh ra một cách vô nguyên cớ mà tất cả đều
tuân theo mối quan hệ nhân quả và tính tất yếu. Trên thực tế vấn đề phức
tạp hơn nhiều. Trước hết với sự phê bình cái ngẫu nhiên của Đêmơcrít gắn
liền với sự phê bình phi lý. Người ta nghĩ ra cái ngẫu nhiên nhằm dùng nó
như chiếc lọng che đậy tính chất phi lý n ơi mình. Con người cho một hiện
tượng nào đó là ngẫu nhiên, vì họ lười suy nghĩ, khơng muốn truy t ìm
ngun nhân của nó. Đêmơcrít khơng phản bác khái niệm ngẫu nhiên, mà
chỉ loại ra khỏi đời sống cái ngẫu nhi ên - số mệnh mang tính chất tơn giáo
- thần thoại. Từ gốc độ triết lý ngẫu nhiên, theo Đêmơcrít, là cái gì đó xảy
ra khơng theo tự nhiên, khác với tất yếu là cái tồn tại theo tự nhiên. Những


gì diễn ra khơng theo tự nhiên thường thuộc về trạng thái ban đầu của sự
vật. Trong “Thần khúc” A.Dante, nh à thơ và nhà tư tưởng cuối thời Trung
viết: “Đêmơcrít - người chủ trương vũ trụ tn theo may rủi”. Sự đối lập
tất yếu - ngẫu nhiên, xét cho cùng, là sự đối lập cái xảy ra “theo tự nhi ên”

với cái xảy ra “không theo tự nhiên”, cái đóng vai trị là kết quả của những
ngun nhân bên trong với cái biểu thị sự trùng hợp các sự kiện “khơng
chủ đích”, kết quả của những ngun nhân bên ngoài.
Nguồn gốc thế giới cũng được lý giải theo quan hệ tất yếu - ngẫu
nhiên. Trước khi có thế giới như tình trạng hiện tại các ngun tử cịn vận
động hỗn độn trong chuổi thời gian bất tận. Thế giới xuất hiện, chấm dứt
sự ngự trị của cái hỗn độn, ngẫu nhi ên. Tất cả giờ đây đều diễn ra theo tính
tất yếu, dịng xốy lốc các ngun tử trở thành ngun nhân xuất hiện các
vật thể. Khơng cịn tự do theo nghĩa tuỳ tiện; tất cả điều tuân theo tính tất
yếu.
Nhưng trên nền chung của tính tất yếu, cái ngẫu nhi ên vẫn hiện diện
dưới những hình thức khác nhau. Sự tồn tại cái ngẫu nhi ên trong bức tranh
về thế giới được quy định bởi tính đa dạng các khuynh hướng vận động
ban đầu của nguyên tử, bởi số lượng vô cùng lớn của chúng, và bởi sự tồn
tại một khơng gian rỗng vĩ đại.
Nói đến vận động của vũ trụ, Đêmơcrít ln nhấn mạnh tính quy luật
và tính tất yếu của nó. Bản thân từ “vũ trụ” (theo tiếng Hy Lạp kosm os) đã
hàm chứa một cái gì đó chuẩn xác, trật tự, là mơi trường rộng lớn, nơi mỗi
thực thể điều chiếm một vị trí nhất định. Tuy nhi ên thử hỏi: làm sao có thể
có sự vận động chuẩn xác, trật tự của cả một phức hợp không đếm xuể các
nguyên tử, tạo nên vũ trụ nói chung, cùng tồn bộ các sự vật trong vũ trụ
ấy, nếu vận động ban đầu (tr ước khi vũ trụ xuất hiện) mang tính chất hỗn
độn? Nếu vận động ngay từ đầu đ ã là vận động hỗn độn (ngẫu nhiên), thì
nó cũng khơng thể đưa cái gì đến vận động chuẩn xác, hài hoà được. Thêm


nữa, trong quan niệm về tất yếu của Đêmơcrít có sự lầm lẫn cơ bản. Thay
vì xem tính nhân quả như cơ sở của tính tất yếu, thì ơng lại quy tính tất yếu
về tính nhân quả. Nhưng khơng phải nguyên nhân nào cũng tất yếu dẫn
đến kết quả nấy. Trong thực t ế để đạt được một kết quả nào đó cần hội đủ

những điều kiện tương ứng. Thơng thường mỗi kết quả có thể do một hoặc
nhiều nguyên nhân sinh ra, và ngược lại. Mối liên hệ nhân quả, do vậy,
khơng đơn giản. Càng ít ảnh hưởng của điều kiện, hồn cảnh, thì ngun
nhân sinh ra kết quả càng gắn nhiều hơn với tính tất yếu, càng ít đi vai trị
của ngẫu nhiên. Song điều này chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện
tối ưu - thực nghiệm, kiểm chứng.
Ở các nhà nguyên tử thì cái gì có ngun nhân điều được xem xét từ
gốc độ tính tất yếu. Tất cả mọi biến cố điều có nguy ên nhân này hay
nguyên nhân khác, tất cả vạn vật trong vũ trụ điều diễn ra một cách tất yếu.
Xét theo nghĩa đó, cái gì xảy ra mà ta chưa biết ngun nhân, thì gọi là
ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên hố ra là cái có tính chất chủ quan, bị đồng nhất
với phi nhân quả. Tính chất mâu thuẫn v à khập khiễng của học thuyết tất
yếu - ngẫu nhiên ở Đêmơcrít đã q rõ ràng. Chỉ đứng vững trên phương
pháp luận biện chứng thực sự mới t ìm hiểu một cách sâu sắc mối li ên hệ và
chuyển hoá lẫn nhau giữa tất yếu và ngẫu nhiên, đồng thời chỉ ra giới hạn
thể hiện của chúng.

IV. KẾT LUẬN:
Triết học Đêmơcrít là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao các
quan điểm duy vật (của trường phái Milê) và tư tưởng biện chứng (của
Hêraclít) trước đó, đưa triết học của ông trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa
duy vật Hy Lạp thời cổ đại. Làm cho nó đủ sức đương đầu chống lại các
trào lưu duy tâm đang thịnh hành bấy giờ, mà sau đó là trào lưu duy tâm
nổi tiếng của Platon.


Sau này, Êpiquya và Lucơrexơ đã khắc phục những hạn chế của ông và
phát triển học thuyết nguyên tử hơn nữa. Lơxíp, Đêmơcrít, Êpiquya tr ở
thành những tên tuổi đại biểu cho phái nguyên tử luận thời cổ đại Hy Lạp La Mã.



V. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Giáo trình Đại cương Lịch sử Triết Học, TS. Bùi Văn Mưa, TS.
Nguyễn Ngọc Thu và tập thể tác giả, NXB Tổng hợp TP. HCM –
2003

2.

Lịch sử Triết Học, Bùi Thanh Quất và Vũ Tình, NXB Giáo Dục –
1999.

3.

Triết học Mác – Lênin (Hệ thống câu hỏi – đáp án gởi mở & hướng
dẫn viết tiểu luận, Bộ Môn Triết học, Ban triết học – xã hội học
trường Đại học Kinh tế TP. HCM, NXB Đại Học Quốc gia TP. HCM
2005.

4.

Đại cương lịch sử Triết học phương tây, TS. Đỗ Minh Hợp, TS.
Nguyễn Thanh, TS. Nguyễn Anh Tuấn, NXB Tổng hợp TP. HCM –
2006.

5.

Cùng nhiều nguồn thơng tin khác, tạp chí, mạng Internet.




×