Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TRIẾT HỌC KHOA HỌC VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY THỜI HIỆN ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.96 KB, 16 trang )

Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Khoa học ở phương Tây phát xuất và bùng nổ mạnh từ cuộc tranh đấu giữa
tôn giáo và các "triết gia thiên nhiên" trong thời Khai sáng. Chỉ từ thế kỷ 19 mới có
các từ "khoa học" và "khoa học gia" như ta hiểu hiện nay. Sự bùng nổ của khoa học
– kỹ thuật nhanh chóng được áp dụng vào đời sống sản xuất, làm tăng năng suất và
khắc phục nghèo đói bệnh tật. Tuy nhiên, những thành tựu đó cũng gây ra hậu quả
nghiêm trọng về sức tàn phá, sự hủy diệt đối với đời sống con người, làm tan biến
những giá trị truyền thống nhân loại. Con người lúc này nhìn về tương lại với những
kì vọng lẫn thất vọng. Tình hình này đã thôi thúc các nhà tư tưởng phương Tây đưa
ra những lối tư duy triết học mới – trào lưu triết học duy khoa học ra đời và đã có
những tác động mạnh mẽ làm thay đổi Xã hội phương Tây.
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 1
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
1. Hoàn cảnh ra đời
Đến giữa thế kỷ 19, giai cấp tư sản giành được chính quyền ở hầu hết các
nước Tây Âu. Từ đó xuất hiện một giai đoạn mới – giai đoạn thống trị, áp bức bóc
lột dã man của giai cấp này đối với tấng lớp vô sản và nhân dân lao động. Thời kỳ
này, tuy xã hội xảy ra nhiều mâu thuẫn nhưng đây cũng là thời gian khoa học kỹ
thuật phát triển mạnh mẽ nhất. Nó mang lại cho con người những kỳ vọng to
lớn về tương lai. Tuy nhiên, những thành tựu đó cũng gây ra
những hậu quả vô cùng nghiêm trọng, có sức tàn phá, hủy diệt lớn
đối với cuộc sống của con người, làm tan biến những giá trị truyền
thống của nhân loại. Khoa học - kỹ thuật - công nghệ cũng gây ra
những hoài nghi, bi quan, rồi lo sợ đến tuyệt vọng về tương lai
nhân loại. Con người đứng trước hiện thực phức tạp, nhìn về
tương lại với những kỳ vọng xen lẫn thất vọng, những lạc quan bị
che lấp bởi những bi quan, Tình hình này đã thôi thúc các nhà tư
tưởng phương Tây đưa ra những hình thức triết lý mới. Khoa học -
kỹ thuật - công nghệ, cuộc sống con người, tương lai nhân loại


được lý giải một cách duy tâm, siêu hình nên đã hình thành nên
trào lưu triết học duy khoa học, trào lưu nhân bản phi duy lý
2. Các trào lưu triết học duy khoa học
2.1. Nguồn gốc của trào lưu triết học duy khoa học
Triết học phương Tây ngoài mácxít hiện đại là một dòng của triết
học phương Tây hiện đại. Nó bao gồm nhiều trào lưu, khuynh
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 2
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
hướng, trường phái, quan điểm lý luận rất đa dạng, tuy nhiên
chúng ít nhiều đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp tư sản, từ
truyền thống của các dân tộc phương Tây tư bản chủ nghĩa.
Thực chất, đó là thế giới quan, ý thức hệ, nhân sinh quan của
giai cấp tư sản hiện đại trong giai đoạn thống trị xã hội của nó.
Sau một giai đoạn phát triển mạnh mẽ, giai cấp tư sản càng ngày
càng suy tàn; do vậy, triết học của họ càng xa rời truyền thống
duy vật và tư tưởng biện chứng, tinh thần cách mạng và giá trị
khoa học của triết học Anh, Pháp, Đức ở thế kỷ XVII - XIX để
chuyển sang chủ nghĩa duy tâm khá thông minh và phép siêu hình
tinh vi, tạo nên thế giới quan tiêu cực và nhân sinh quan phản
cách mạng.
Dòng triết học này có ba trào lưu chủ yếu là:
- Chủ nghĩa duy khoa học
- Chủ nghĩa nhân bản phi duy lý
- Triết học tôn giáo
Trào lưu triết học duy khoa học bao gồm 2 trào lưu nối tiếp nhau:
- Trào lưu thực chứng
- Trào lưu hậu thực chứng
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 3
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22

Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
2.1.1. Trào lưu thực chứng
Chủ nghĩa thực chứng ra đời vào những năm 30-40 của thế kỷ XIX ở
Pháp, sau đó ở Anh.
Các triết gia thực chứng cho rằng cần phải đi tìm những phương pháp hiệu
quả và đáng tin cậy nhất để có được tri thức khoa học thực chứng.
Chủ nghĩa thực chứng đã phát triển qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn thực chứng cổ điển xuất hiện vào thập niên 30 của thế kỷ
XIX, với những đại biểu là Côngtơ (Comte) ở Pháp, Spenxơ
(Spencer), Minlơ (Mill) ở Anh. Họ cho rằng chỉ có các hiện tượng
hoặc sự kiện mới là cái thực chứng, do đó, họ không thừa nhận bất cứ
cái gì ngoài hiện tượng, không thừa nhận bản chất của sự vật.
- Giai đoạn kinh nghiệm phê phán xuất hiện vào thập
niên 70 - 90 thế kỷ XIX. Đại biểu của giai đoạn này là
Makhơ (Mach) và Avênariút (Avenarius). Họ đề
xướng quan niệm duy tâm chủ quan về kinh nghiệm;
coi cảm giác của con người không quan hệ gì với thực
tại khách quan; coi khách thể không thể có được nếu
không có chủ thể; họ phủ nhận sự tồn tại của quy luật
cũng như của chân lý khách quan
- Giai đoạn thực chứng mới ra đời sau Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất và phát triển cao vào những năm 50.
Giai đoạn này có nhiều chi phái: Một là chủ nghĩa
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 4
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
nguyên tử lôgich xuất hiện từ 1920, đại biểu là Rútxen
(Russell) và Vítgenxtanh (Wittgenstein). Họ cho rằng,
yếu tố cấu tạo nên tự nhiên không phải là vật chất mà
là những phán đoán trên cơ sở tri giác, và họ gọi chúng

là những đơn vị lôgích. Hai là, chủ nghĩa thực chứng
lôgích và triết học phân tích - những môn phái đưa chủ
nghĩa thực chứng mới vào thời kỳ hưng thịnh nhất để
rồi sau đó rơi vào thời kỳ suy tàn. Đại biểu chính là
Cácnáp (Camap), Slích (Shelich)
2.1.2. Trào lưu phản thực chứng
Trào lưu phản thực chứng: Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai,
triết học khoa học phương Tây chuyển từ trào lưu thực chứng
sang trào lưu phản (hậu) thực chứng. Các vấn đề tăng trưởng tri
thức, thay đổi lý luận, phát triển khoa học được nghiên cứu gắn
liền với thực trạng khoa học lúc bấy giờ theo tinh thần phủ chứng
và quan điểm lịch sử.
Các nhà triết học nổi tiếng thời kỳ đó: Popper, Kuhn, Lakatos, Feyerabend.
2.2. Một số nhà triết học của trào lưu duy khoa học
Karl Popper
Pốppơ (Karl Popper) đã kế thừa chủ nghĩa lôgích đang suy tàn
và tìm kiếm một hình thức mới - chủ nghĩa phủ chứng. Theo ông,
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 5
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
một lý luận được gọi là khả phủ chứng nếu từ nó rút ra ít nhất một
trần thuật có thể xung đột với một vài sự kiện nào đó. Nếu sự
xung đột đã xảy ra thì lý luận này là lý luận bị phủ chứng, còn nếu
sự xung đột chưa xảy ra thì lý luận này là lý luận vị phủ chứng.
Lý luận bị phủ chứng bị đào thải, lý luận vị phủ chứng tạm thời
được giữ lại tạo thành nội dung của khoa học.
Với Pốppơ ông luôn tìm tính sai lầm để phủ chứng lý luận. Lý luận được
bác bỏ càng nhanh càng tốt, càng làm cho tính tinh xác và tính
phổ quát của các trần thuật lý luận ngày càng cao.
Ông đã nâng khái niệm phủ chứng lên thành nguyên tắc phủ

chứng mang tinh thần lý tính phê phán. Nguyên tắc này đòi hỏi:
- Nêu ra tất cả các giả thuyết có thể có, và buộc chúng
phải đối mặt với mọi sự phê phán nghiêm khắc để làm
bộc lộ ra những sai lầm khiếm khuyết mà không được
dựa vào bất cứ một kết luận quy nạp nào để làm tiền đề
cho lý luận
- Biết học tập từ trong sai lầm và dũng cảm phạm sai
- Phải dám phê phán và dám phủ định.
Tất cả mọi thuyết và phương pháp khoa học phải khách quan. Popper cho là
luật thiên nhiên và vũ trụ là phổ quát, ông tin là lý thuyết khoa học phải cạnh tranh
trong môi trường phản nghiệm. Lý thuyết phải có tính chất phản nghiệm, mạnh dạn
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 6
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
cấp tiến trong tiên đoán và qua nguyên lý phản nghiệm để có và được thay thế bởi
các lý thuyết nào gần với sự thật hơn. Vì thế, khoa học là một chuỗi các lý thuyết bị
đổ để đến lý thuyết gần hơn. Chủ nghĩa thực chứng và thuyết Popper chủ yếu dựa
vào vật lý học như mô hình triết lý khoa học. Trái với các thuyết thật sự khoa học
có tính phản nghiệm và mạnh dạn đứng ra chịu sự thử thách tiên đoán, các thuyết
"ngụy khoa học" hay bán khoa học đều dùng kế hoạch tự phòng thủ nhằm tránh bị
phê bình, chỉ trích, qua các chắp vá.
Pốppơ đã mắc phải sai lầm cơ bản khi ông quá coi trọng tính phủ chứng của
kinh nghiệm. Sau đó, Lakatos – môn đồ của Pốppơ đã khắc phục bằng chủ nghĩa
phủ chứng tinh tế.
Imre Lakatos
Lacatốt (Lakatos) cho rằng tính chất cơ bản của lý luận khoa
học không phải là tính khả phủ chứng mà là tính mềm dẻo chịu
đựng và tính phụ thuộc lẫn nhau. Khi sự thật kinh nghiệm và lý
luận xung đột nhau thì rất khổ xác định lý luận sai hay tri thức
cồng kềnh không đúng. Nếu biết điều chỉnh thích đáng tri thức bối

cảnh thì lý luận khoa học có thể sống sót từ sự phản bác kinh
nghiệm.
Khi xung đột với sự thật kinh nghiệm. Lý luận không nhất thiết phải bị đào
thải mà đòi hỏi phải điều chỉnh lại để cứu vãn nó.
Lacatốt coi sự tăng trưởng liên tục của tri thức khoa học là do sự sản sinh và
cạnh tranh của các hệ lý luận khoa học chứ không phải do sự phản bác dẫn đường
hay sự bất thường xảy ra trong khoa học. Ông đã đưa ra “Cương lĩnh khoa học”.
Cương lĩnh này được tạo thành từ bốn yếu tố: hạt cứng, dây bảo hộ, quy tắc gợi ý
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 7
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
phản diện và quy tắc gợi ý chính diện.
Lacatốt cho rằng sự điều chỉnh dây bảo hộ sẽ làm cho cương
lĩnh nghiên cứu thay đổi theo hướng tiến bộ - khi nội dung kinh
nghiệm tăng lên và giải thích, dự đoán được nhiều sự thực kinh
nghiệm hơn, hay theo hướng thoái bộ - các trường hợp còn lại.
Trong giai đoạn tiến bộ, cương lĩnh nghiên cứu không bị lung lay
hay lẩn tránh các sự kiện bất thường, bất lợi mà chủ động thu hút,
đồng hóa để biến chúng thành cái bình thường, có lợi. Tuy nhiên,
sau giai đoạn tiến bộ, cương lĩnh nghiên cứu sẽ chuyển sang giai
đoạn thoái bộ; khi ấy, các sự kiện bất thường, bất lợi sẽ ngày càng
tăng và thu hút sự chú ý của các nhà khoa học. Một cương lĩnh
nghiên cứu thoái bộ chỉ bị phủ chứng khi xuất hiện một cương
lĩnh nghiên cứu mới T tiến bộ hơn.
Sau này khi xuất phát từ thực trạng của khoa học và các yếu tố bên ngoài của
khoa học như tín niệm tập thể của cộng đồng khoa học , Cun (Kuhn) đã làm cho
chủ nghĩa lịch sử xuất hiện với một sức sống mãnh liệt.
Thomas Samuel Kuhn
Ông cho rằng, trong sự nghiệp khoa học luôn tồn tại các khối cộng đồng
khoa học độc lập nhau, bị chi phối bởi các kiểu mẫu mực khác nhau. Khối cộng

đồng khoa học là một tập hợp các con người cùng làm công tác khoa học, có sự tiếp
thụ văn hóa cơ bản giống nhau, có sự giao lưu nội bộ tương đối đầy đủ, có sự nhất
trí về quan niệm chuyên môn, có những bài học kinh nghiệm và phong thái tư duy
gần nhau Những khối cộng đồng khoa học khác nhau luôn chú ý đến những vấn
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 8
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
đề khoa học khác nhau, hay cùng chú ý đến một vấn đề nhưng theo những cách
khác nhau. Vì vậy, giữa các khối cộng đồng khoa học khác nhau khó có sự trao đổi
chuyên môn, còn nếu có sự trao đổi chuyên môn thì rất dễ dẫn đến hiểu lầm. Và
kiểu mẫu mực trong mỗi cộng đồng khoa học rất bền vững nên một sự thật đơn lẻ
không đủ để xác chứng hay phủ chứng nó, mà chỉ có cách mạng khoa học mới làm
thay đổi kiểu mẫu mực này bằng kiểu mẫu mực khác, về mặt nội dung, các kiểu
mẫu mực hoàn toàn khác nhau, do đó chúng không thể so sánh được.
Cun coi khoa học là kết quả hoạt động của các khối cộng đồng khác nhau, có
sử dụng các kiểu mẫu mực không giống nhau nhưng luôn thay đổi để hoàn thiện
chính mình;
Từ đó, ông đưa ra lý luận “Động thái phát triển khoa học”, trong đó khẳng
định mỗi chu trình phát triển của khoa học phải trai qua bốn thời kỳ là:
- Tiền khoa học là thời kỳ hình thành dần các quan điểm,
lý luận, phương pháp cơ bản thống nhất đưa đến sự ra
đời một kiểu mẫu mực….
- Khoa học bình thường là thời kỳ cả khối cộng đồng khoa học công
nhận và kiên định sử dụng một kiểu mẫu mực để tập
trung tinh lực giải quyết các vấn đề nảy sinh trong
nghiên cứu mà không cần kiếm tra phê phán hay thay
đổi nó. Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu phức tạp bị
gò ép theo một kiểu mẫu mực đơn điệu, nên những sự
kiện bất thường xuất hiện.
- Khủng hoảng khoa học là thời kỳ mà sự kiện bất thường

Học viên: Võ Xuân Sang Trang 9
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
xuất hiện ngày càng nhiều và càng gay gắt, còn sự điều
chỉnh bổ sung lý luận về phương pháp không còn tác
dụng nữa. Lúc này, lý luận trở nên mơ hồ, phương
pháp trở nên kém hiệu quả, khoa học mất phương
hướng, kiểu mẫu mực hiện hành bị nghi ngờ.
- Cách mạng khoa học là thời kỳ phá bỏ kiểu mẫu mực
cũ, xây dựng kiểu mẫu mực mới đầy sức sống, và cơ
cấu lại khối cộng đồng khoa học. Nhờ vậy mà các sự
kiện bất thường nhất cũng biến thành bình thường. Khi
kiểu mẫu mực mới được khẳng định, tín niệm mới
đựợc hình thành, củng cố rộng trong khối cộng đồng
khoa học thì cuộc cách mạng khoa học chấm dứt. Một
thời kỳ khoa học bình thường mới được xác lập.
Paul Feyerabend
Paul Feyerabend nhà triết học đã làm cho chủ nghĩa lịch sử phát
triển.
Với phương pháp khôi phục lại lịch sử, ông coi lịch sử khoa học tiến lên phía
trước nhưng cũng lùi về phía sau, bởi vì một lý luận khoa học vững chắc nhất phải
là lý luận có bề dầy lịch sử và thấm sâu vào lịch sử. Khi coi sự phát triển tiến lên
của khoa học đòi hỏi chúng ta phải quay trở về thời kỳ đầu của nó với những lý luận
mơ hồ có nội dung kinh nghiệm ít ỏi, ông yêu cầu phải chỉ rõ bằng cách nào mà
những thần thoại hoang đường hôm qua lại biến thành những lý luận khoa học vững
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 10
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
chắc hôm nay, và những trí thức khoa học vững chắc hôm nay sẽ biến thành thần
thoại buồn cười của ngày mai. Với quan điểm này, ông kêu gọi con người phải giữ

lấy mọi ý tưởng, quan niệm, lý luận đã được phát hiện ra để cân nhắc, bổ sung, hoàn
chỉnh lý luận, quan điểm, ý tưởng mới của mình, mà không có cái gì phải vứt vào
sọt rác của lịch sử cả.
Với phương pháp phi lý tính, ông coi yếu tố thúc đẩy sự tiến bộ của khoa
học. Vì vậy, cần phải hạn chế, thậm chí xóa bỏ lý tính để tạo điều kiện cho các yếu
tố phi lý tính trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy khoa học tiến bộ.
“Nguyên tắc thế nào cũng được” của Feyerabend: chủ trương tạo ra một bầu
không khí thật dân chủ tự do để khai thác triệt để tính năng động sáng tạo của giới
khoa học làm cho lý luận không ngừng tăng trưởng
Phương pháp luận đa nguyên: định hướng để ông xây dựng lý luận về khoa
học tự do trong một xã hội tự do. Theo ông, không có một tiêu chuẩn tuyệt đối nào
để phân giới khoa học và các hình thái ý thức phi khoa học, mà chúng đan xen thâm
nhập vào nhau, vì vậy, không nên dành cho khoa học một quyền uy trước các hình
phải là mục tiêu quan trọng. . Khi nào khoa học còn có quá nhiều quy tắc, chuẩn
mực cứng nhắc thì khi đó tính thích ứng của nó với hoàn cảnh lịch sử càng ít, tính
giáo điều của nó càng nhiều, khi đó nó đang tự giết chết chính mình. Vì vậy, cần
phải phấn đấu xây dựng khoa học tự do trong một xã hội tự do.
3. Sự ảnh hưởng của trào lưu khoa học đến xã hội phương Tây
Pốppơ
Tác phẩm chính về triết học của khoa học "Lôgíc của nghiên cứu" cuối cùng
đã được phát hành trong các tập san của "Nhóm Wien" mặc dù trong đó Popper đã
phê phán chủ nghĩa thực chứng của nhóm này. Luận bản của Popper đã được thành
viên của Nhóm Wien đánh giá như là một tác phẩm thành hình từ các thảo luận của
nhóm. Ngày nay, tính khả phản bác được trình bày trong tác phẩm của Popper được
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 11
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
xem như là cơ sở cho việc nghiên cứu khoa học hiện đại.
Lacatốt
Lakatos không cho rằng lý thuyết khoa học bắt nguồn từ quy nạp các dữ

kiện. Tuy vậy, ông (cũng như Kuhn) không cho rằng động cơ của tiến bộ khoa học
là sự phủ nhận qua phản nghiệm các lý thuyết khoa học hiện tại, song là sự phát
triển của cái mà ông gọi là những "chương trình nghiên cứu khoa học". Thật ra
"chương trình nghiên cứu khoa học" cũng tương tự như khái niệm "mô thức"
(paradigm) của Kuhn. Theo phương pháp này, các giả thuyết khoa học
chỉ bị loại bỏ khi về lâu dài chúng không mang lại kết quả, chứ
không dựa vào chỉ một thử nghiệm duy nhất. Ông cho rằng khoa
học là sự phát triển có kế tục của cái mà ông gọi là các "chương
trình nghiên cứu" (research programs). Cụ thể, một chương trình
nghiên cứu được cho là có "tiến bộ lý thuyết" nếu mỗi lý thuyết
của chương trình đó hàm chứa nhiều nội dung (content) thực
nghiệm hơn chương trình trước, và "tiến bộ thực nghiệm" nếu một
số nội dung thực nghiệm này được phối hợp kiểm chứng. Nói tóm
lại, phản nghiệm kiểu Lakatos là dựa vào sự liên hệ giữa các
thuyết khoa học.
Kuhn
Tác phẩm Cấu trúc của các cuộc Cách mạng khoa học là một trong số các
đầu sách được trích dẫn nhiều nhất trong mọi thời đại.” Nghiên cứu lịch sử phát
triển của các ngành khoa học mà theo cách hiểu của ông chủ yếu là khoa học tự
nhiên, Kuhn đưa ra các qui luật mà ngay chính ông cũng không ngờ là đã tác động
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 12
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
mạnh và thậm chí làm thay đổi toàn bộ ngành khoa học xã hội trong nửa sau của thế
kỷ 20. Triết học cách mạng trong khoa học của Kuhn cũng tương tự như qui luật
lượng biến thành chất trong triết học Mác.
Tính cách mạng được Kuhn phân tích kỹ trong tác phẩm về con đường khoa
học của Nicolaus Copernicus. Và cứ như thế, chính bản thân Kuhn
cũng tạo ra khủng hoảng mang tính cách mạng cho các ngành
khoa học xã hội và nhân văn, để hôm nay các lý thuyết gia trong

ngành này không thể nào không đọc và không nhắc tới Thomas
Samuel Kuhn trong công trình của mình. Khái niệm paradigm trở
thành thuật ngữ quen thuộc được nhiều ngành học nhắc tới. Lý
thuyết của ông cũng có thể coi là cầu nối cho hai hệ thống ngành
học vốn được coi là hoàn toàn khác nhau. Thậm chí trước đó
Kuhn còn không coi các ngành xã hội và nhân văn là khoa học.
Sau Kuhn, các nhà khoa học xã hội phải hướng tới các chuẩn mực
mới để xây dựng ngành của mình thành một bộ môn khoa học.
Qua tác phẩm của Kuhn, chuyên gia từ các ngành tự nhiên cũng
dễ dàng tìm thấy con đường để cân chỉnh và bước chân vào các
ngành xã hội và nhân văn một cách chuyên nghiệp.
Feyerabend
Feyerabend cho rằng không có một phương pháp khoa học nào là thích hợp
cho mọi trường hợp, và hô hào "dân chủ" trong nghiên cứu khoa học. Với tác
phẩm lừng danh Against Methode - Chống lại sự cưỡng chế của
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 13
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
phương pháp (1975) đã gây ra sự gây chấn động và tạo ra phương
hướng cho sự phát triển khoa học cũng như sự sáng tạo cho nền
văn học của xã hội phương Tây giai đoạn đó.
4. Kết luận
Thông qua bốn nhà triết gia tiêu biểu của trào lưu triết học hậu thức chứng
trên đây, chúng ta có thể khái quát được trào lưu triết học này và qua đó có thể thấy
được sự ảnh hưởng của trào lưu đối với xã hội phương Tây để làm phong phú thêm
vốn kiến thức của chúng ta. Mặc khác, khi tìm hiểu sâu vào những trao lưu triết học
có thể giúp chúng ta tăng khả năng tư duy, nhận thức…
PHỤ LỤC
- Chu Đình Lan dịch – Tri thức khách quan. NXB Tri Thức,
- Bùi Văn Mưa – Triết học. Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học, Đại

Học Kinh Tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2010.
-
-
-
-
phuong-tay-hien-dai.html
- www.vientriethoc.com.vn
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 14
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
1. Hoàn cảnh ra đời 2
2. Các trào lưu triết học duy khoa học 2
3. Sự ảnh hưởng của trào lưu khoa học đến xã hội phương Tây 11
4. Kết luận 14
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 15
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22
Giảng viên: Ts. Bùi Văn Mưa
Học viên: Võ Xuân Sang Trang 16
Nhóm 2 – Lớp Đêm 1 – K22

×