Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
LỜI MỞ ĐẦU
Nền văn minh Hy Lạp cổ đại là một nền văn minh rực rỡ và để lại nhiều dấn ấn qua các
sử thi, tượng đài, truyền thuyết mà nhân loại còn lưu giữ đến ngày nay và có lẽ sẽ không
bao giờ bị phai nhạt. Nhưng nét đặc trưng nhất khiến cho nền văn minh hy Lạp còn lưu
truyền và phổ biến đến thế giới ngày nay không phải là các sử thi, tượng đài, công trình
hay truyền thuyết mà chính là hệ thống lý luận triết học của Hy Lạp thời xưa. Hệ thống lý
luận đó ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề về khoa học, sinh học, y học, tôn giáo, chính
trị và nhận thức của con người thời đó và hệ tư tưởng xã hội bây giờ, mà tiêu biểu cho hệ
thống lý luận đó chính là các nhà triết học lỗi lạc như Aristote, Platon, Socrate,
Theophratos
Trong những nhà triết học lỗi lạc đó, Aristote được xem như là nhà triết học vĩ đại nhất,
là học trò của Platon, thầy dạy của Alexander đại đế. Ông được mọi người ví như “Người
thầy của tất cả các nhà triết học”. Các Mác đã gọi ông là :”Nhà tư tưởng vĩ đại nhất”.
Với hệ thống lý luận của ông, ông đã để lại cho hậu thế một kho tàng triết học đồ sộ và
giá trị và những lý luận của ông vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay.
Do đó, để làm rõ hơn những ảnh hưởng của triết học Aristote đến hệ tư tưởng đời sau, tác
giả đã thực hiện đề tài: “Triết học Aristote và ảnh hưởng của nó đến xã hội phương Tây”.
Đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của lý luận của Aristote đến các mặt của đời sống, chủ yếu
là ảnh hưởng đến con người và chính trị cùng các ngành khoa học.
Các tài liệu được sử dụng: : Triết học Phần I : Đại cương về lịch sử triết học của TS.
Bùi Văn Mưa (chủ biên); Triết học và Bức Tranh Vật Lý Học Về Thế Giới của TS Bùi
Văn Mưa; Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật, Chương 3 tác phẩm Phê Bình Văn Học Thế
Kỷ XX của Thụy Khuê – Thi học Aristote , Chính Trị Luận của Aristote.
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
1
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY.
I. Tiểu sử của Aristote, bối cảnh và điều kiện lịch sử ra đời của triết học Aristote
I.1 Bối cảnh lịch sử của xã hội thời bấy giờ :
Thời cổ Hi Lạp bao gồm nhiều thành phố được tổ chức như những quốc gia gọi là
Thị-Quốc chứ không phải là một nước thống nhất, mỗi Thị-Quốc có cách tổ chức chính
trị khác nhau và độc lập với nhau. Nổi tiếng gồm có Athens, Thebes, và Sparta. Tuy cùng
một chủng tộc nhưng dân Thị-Quốc này lại coi dân Thị-Quốc kia như thù địch và chém
giết lẫn nhau. Sparta và Athens là hai thái cực. Dân Sparta được huấn luyện để sống khắc
khổ từ nhỏ, sống đời sống giản dị và cực kỳ trọng võ. Trái lại, dân Athens sống xa hoa,
theo công nghệ và yêu chuộng thương mại. Về chính trị các Thị Quốc ở Hy Lạp đều theo
chế độ quân chủ. Khi vua Alcmaeon băng hà vào năm 753 TCN, Athens được tổ chức
theo dân chủ nghị viện: công dân được quyền bầu nghị viên, nhưng chức vụ thẩm phán
vẫn dành cho quý tộc. Đến thế kỷ thứ 5 TCN, Athens hoàn toàn theo thể chế dân chủ trực
tiếp. Mọi công dân đều trực tiếp tham gia việc nước: nghị luận, bàn cãi, bầu bán, biểu
quyết, … Do đó, nơi đây được coi là nơi có chế độ dân chủ đầu tiên. Nhưng đây cũng là
nhược điểm, vì “quyết định của chính phủ thường chậm trễ, dân chúng quen thói bàn bạc,
cãi cọ nhau, mồm mép giỏi mà hành động dở, dễ chia rẽ vì những lẽ nhỏ nhặt”. Nhờ tính
chất tự do tư tưởng mà Athens trở thành một môi trường thuận lợi cho các triết gia như
Socrates và sau đó, học trò ông là Plato phát triển mọi ngành học thuật. Từ đó, Athens trở
thành trung tâm tư tưởng và học thuật của cả Hy Lạp, sau này chính là cái nôi văn hóa và
tư tưởng của Tây phương.
I.2 Giới thiệu về nhân thân và cuộc đời Aristote
Aristote (384TCN – 322 TCN), sinh ra ở tại Stagira, xuất thân từ một gia đình trí
thức, cha của Aristote là ngự y của vua Macedonia nên từ nhỏ, Aristote đã được học về
thiên nhiên và sinh vật qua quan sát cũng như qua các tài liệu y học.Aristote tới Athens
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
2
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
du học vào năm 17 tuổi và theo học tại học viện của Platon.Aristote theo học tại học viện
dưới sự dạy dỗ của Platon trong vòng 20 năm. Aristote chú trọng đặc biệt đến siêu hình
học (metaphysics).Sau khi Platon qua đời, Aristote từ giã Athens, bắt đầu du hành đây đó
và đem sở học ra áp dụng trong suốt 12 năm dài. Trên cuộc hành trình này, ông liên lạc
với các bạn đồng môn sống rải rác khắp bán đảo Hy Lạp, nhằm truyền bá học thuật của
Platon. Trong quá trình dù hành, Aristote trở thành bạn thân của Hermias vua của
Aterneous và được nhà vua gả cháu gái cho làm vợ. Sau một thời gian, Aristote dọn sang
đảo Lesbos, và từ Lesbos Aristote được vua Philip của xứ Macedonia vời đến Pella, thủ
đô của Macedonia để dạy học cho hoàng tử Alexander từ lúc mới 13 cho đến khi 19 tuổi.
Năm 335, Aristote trở về Athens và mở trường Lyceum.Sau khi Alexander băng hà,
Aristote đành phải bỏ Athens sang tị nạn tại xứ Chalcis. Ông qua đời tại đây vào năm
322.
I.3 Điều kiện ra đời của triết học Aristote :
Xuất thân từ một gia đình trí thức có cha là ngự y của xứ Macedonia nên từ nhỏ
Aristote đã được học về thiên nhiên và sinh học.
Khi ông lên Athens để đi học vừa đúng thời điểm Thị-Quốc này hồi sinh sau cuộc
chiến với Sparta và là trung tâm văn hoá của toàn thể vùng Hy Lạp. Ông được học tại
Học viện của Platon và trở thành trợ giáo cho Platon tại học viện. Tại đây ông đã nghiên
cứu đủ mọi ngành học thuật từ toán học, văn học, sinh vật học cho đến triết học và đặc
biệt là siêu hình học (metaphysics)-môn học nghiên cứu về "ý tưởng," những gì bên
ngoài và ở bên kia thực tại, không phụ thuộc vào giác quan- cùng thiên văn học và chính
trị học. Học Viện Platon không chỉ dạy những môn học và nghiên cứu có tính lý thuyết;
đây cũng là nơi huấn luyện chính trị và đào tạo các chính trị gia, đặc biệt về phương diện
lập pháp. Plato không phải chỉ là một triết gia, một học giả trong tháp ngà. Ông đặc biệt
chú trọng tới tính ứng dụng của chính trị học. Plato tin rằng chỉ có triết học chân chính
mới hướng dẫn đúng đắn cách hành xử của con người.
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
3
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
Những tư tưởng trong Luật Pháp, một tác phẩm và những năm cuối đời của Platon,
đã phần nào ảnh hưởng đến tác phẩm Chính Trị Luận của Aristote sau này. Đối với
Aristote, Plato là một người thầy vĩ đại. Sau khi Plato qua đời, Aristote cùng bạn đồng
môn là Xenocrates đã đi khắp các bán đảo ở Hy Lạp để truyền bá tư tưởng của Plato. Khi
đến Thị-Quốc Atarneus do nhà độc tài Hermias cai trị, Aristote cùng các bạn đồng môn
đã lập ra một học viện thu hút các học sinh của các miền lân cận. Aristote trở thành bạn
thân của Hermias và được Hermias gả cháu gái cho. Nhờ đó mà ông đã có cơ hội quan
sát và học tập được nhiều điều về thương mại và ngân hàng ở Atarneus.
Năm 343 TCN, Aristote nhận lời của Philipe Đệ Nhị - quốc vương xứ Macedonia
làm thầy giáo cho hoàng tữ Alexander khi ấy 13 tuổi cho đến khi Alexander 19 tuổi.
Trong suốt thời gian ấy ông trở thành thầy, người cố vấn và là bạn tâm giao của
Alexander, nhờ đó mà tình nghĩa của họ rất thắm thiết. Chính Alexander là người đã tài
trợ cho các hoạt động của Aristote, nhờ sự chu cấp toàn diện này đã tạo ra một điều kiện
vô cùng thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu của Aristote.
Sau khi trở về Athens, Aristote đã thành lập trường riêng là trường Lyceum. Từ năm
335 TCN, trường này cùng với thư viện lớn của nó là nơi Aristote xây dựng các công
trình nghiên cứu và dạy dỗ học trò.
I.4 Sự phát triển của nền văn minh phương Tây trong và sau thời kỳ Aristote :
Trong cuộc đời nghiên cứu của mình, Aristote luôn trung thành với phương pháp lý
tính – một phương pháp mà cho đến ngày nay chúng ta vẫn cần phải học tập. Với phương
pháp đó, Aristote đã đi ngược lại truyền thống với những nghi lễ và mê tín. Trước các
hiện tượng tự nhiên ông khuyên con người không nên hoảng loạn mà nên quan sát, phân
tích logic để có kết luận cụ thể.
Trong các lĩnh vực khoa học mà Aristote nghiên cứu thì ông nổi bật nhất với tư cách
là nhà triết học. Marx đã nhận xét về ông “nhà tư tưởng vĩ đại nhất của phương Tây cổ
đại”. Theo ông, so với lịch sử thì văn học nghệ thuật “càng đậm màu sắc triết học”. Ông
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
4
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
cho rằng văn nghệ (mô phỏng) cần phù hợp với nhân tính, có tác dụng xã hội tích cực để
đem lại cho con người trí thức và cả những khoái cảm về tinh thần. Ông đã tổng kết các
thực tiễn nghệ thuật cổ đại và tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống về những đặc
điểm của nghệ thuật bi kịch. Những nghiên cứu này là tiền đề quan trọng cho cho sự phát
triển của lý luận bi kịch ở phương Tây.
Trình độ bao quát khoa học của ông còn được thể hiện ở việc, sáng lập ra hệ thống
thuật ngữ khoa học và triết học. Hệ thống thuật ngữ này vẫn luôn hiện diện trong các
ngành khoa học thời nay. Toàn bộ trí thức khoa học mà Aristote để lại được phương Tây
coi là cơ sở đáng tin cậy trong mọi lĩnh vực học vấn kinh điển.
Aristote là người không thể thay thế trong tiến trình phát triển của loài người bởi
ông là người đã tạo lập nên một hệ thống nghiên cứu khoa học nhiều ngành đồ sộ. Ông
đã đưa nền khoa học của Hy Lạp thoát khỏi tình trạng sơ khai. Nhờ sự giúp sức của tiền
bạc và nhân lực từ Alexander Đại Đế, ông đã cho xây dựng cho mình một vườn động vật
đầu tiên trên thế giới.
Sau khi Aristote qua đời, nền Triết Học của ông được giảng dạy tại Trường Lyceum
do các môn đệ thuộc nhiều thế hệ sau. Một trong các nhà triết học này là Critolaus đã qua
kinh thành Rome vào năm 155 trước Tây Lịch nhờ đó người La Mã được biết tới nền
Triết Học Hy Lạp. Vào năm 50 trước TL, Andronicus người đảo Rhodes, đã ấn hành các
tác phẩm của Aristote nhờ đó nhiều học giả đã học tập và phân tích nền Triết Học kể trên,
đặc biệt tại xứ Alexandria. Sau khi Đế Quốc La Mã suy tàn, kiến thức về nền Triết Học
của Aristote bị hầu như quên lãng, nhất là trong khoảng thời gian từ năm 500 sau TL tới
thế kỷ thứ 9. Sang thế kỷ 9 này, các học giả người Ả Rập đã dịch các tác phẩm của
Aristote sang ngôn ngữ của họ và đưa chúng vào thế giới Hồi giáo. Nhà triết học người
Tây Ban Nha gốc Ả Rập tên là Averroes thuộc thế kỷ 12 là học giả danh tiếng nhất, đã
nghiên cứu và nhận xét về Aristote. Qua thế kỷ 13, các tác phẩm của Aristote lại được
quan tâm do các học giả Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo, và Thánh Thomas
Aquinas, một trong các nhà triết học gây ảnh hưởng lớn mạnh nhất, đã dùng nền Triết
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
5
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
Học của Aristote làm căn bản cho các tư tưởng Thiên Chúa giáo thời đó. Dante Alighieri,
nhà thơ bậc nhất của thời Trung Cổ, đã gọi Aristote là “Bậc Thầy của những người hiểu
biết”. Lý thuyết về ngành Động Vật Học của Aristote đã không thay đổi và được giảng
dạy tại tất cả các trường học trong nhiều thế kỷ cho tới khi nhà khoa học người Anh
Charles Darwin đề cập tới Thuyết Tiến Hóa vào thế kỷ 19. Học thuyết của Aristote cũng
giữ một vai trò quan trọng trong bộ môn Thần Học và trước thế kỷ 20, môn Luận Lý
(Logic) được coi là của Aristote.
II. Nội dung cơ bản của triết học Aristote
II.1 Giới thiệu những nét chính của triết học Platon :
Có thể nói Aristote là một trong những học trò nổi tiếng nhất của Platon, mặc dù đã
có những bất đồng trong quan niệm triết học của Aristote và Platon nhưng điều đó không
phủ nhận vai trò của Platon trong việc định hướng và phát triển của tư duy triết học
Aristote. Do đó, để hiểu rõ hơn về tư tưởng triết học của Aristote, ta trước hết tìm hiểu về
quan điểm triết học của Platon.
Platon là nhà triết học duy tâm khách quan trong đó nổi bật là học thuyết về ý niệm.
Ông đưa ra hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế giới các ý niệm. Trong
đó thế giới các sự vật cảm biết là không chân thực, không đúng đắn vì các sự vật không
ngừng sinh ra và mất đi, thay đổi và vận động, không ổn định, bền vững, hoàn thiện; còn
thế giới ý niệm là thế giới phi cảm tính phi vật thể, là thế giới đúng đắn, chân thực, các sự
vật cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người không phải là phản ánh
các sự vật cảm biết của thế giới khách quan mà là nhận thức về ý niệm.
Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết. Từ đó có khái
niệm "tồn tại" và "không tồn tại". "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết
được bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất, cái
có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất.
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
6
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
Theo ông tri thức là cái có trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh
nghiệm trong quá trình nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh
các sự vật của thế giới khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái
đã quên trong quá khứ. Tri thức được phân làm hai loại: Tri thức hoàn toàn đúng đắn và
tri thức mờ nhạt. Loại thứ nhất là tri thức ý niệm có đựơc nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai là
tri thức nhận được nhờ vào nhận thức cảm tính, lẫn lộn đúng sai không có chân lí.
Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhà nước lí tưởng trong đó sự tồn tại và phát
triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài
hoà các ngành nghề và giải quyết các mâu thuẫn xã hội.
Không thể phủ nhận, Platon là một nhà triết học vĩ đại với những tư tưởng bất hủ
vẫn còn được lưu truyền tới ngày nay. Tuy nhiên, Aristote lại dựa trên sự phê phán chủ
nghĩa duy tâm của Platon và cho rằng nguyên tắc lý tính tồn tại trong các sự vật cảm tính.
II.2 Triết học Aristote
II.2.1 Thuyết nguyên nhân :
Đối với Aristote, bản chất của thiên nhiên là thay đổi và ông đã định nghĩa môn
triết học của thiên nhiên là sự khảo sát các sự vật đổi thay. Trong tác phẩm Physics (Vật
Lý), Aristote đã phân biệt “hình thể” (form) với “chất liệu” (matter) của một vật, chẳng
hạn như khi một nhà điêu khắc tạc ra một bức tượng bán thân bằng đồng, chất liệu là
đồng và hình thể là hình nửa người. Aristote đã nghiên cứu các nguyên nhân (causes) của
sự thay đổi và phân biệt bốn loại:
(1) nguyên nhân chất liệu (material cause) là thứ mà một vật được làm ra.
(2) nguyên nhân hữu hiệu (efficient cause) là hành động của nhà điêu khắc, là
nguồn gốc của chuyển động (source of motion).
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
7
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
(3) nguyên nhân hình thể (formal cause) là hình dáng bên ngoài, là loại (kind,
type) để xếp hạng.
(4) nguyên nhân cuối cùng (final cause) là chương trình (plan), là kiểu mẫu
(design) hay mục đích của người sáng tạo hay phát minh.
II.2.2 Thuyết Siêu hình học :
Siêu hình học (tiếng Anh: Metaphysics bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp là "lý thuyết vật
chất, hay Vật lý". Do đó, từ này có nghĩa là "Sau Vật lý"). Lưu ý, từ "Vật lý" ở đây ám
chỉ những công trình nghiên cứu vật chất của Aristote trong thời cổ đại là một nhánh triết
học quan tâm đến việc giải thích bản chất của thế giới. Đây là một môn học về sự tồn tại
hoặc sự thật. Nó quan tâm đến các câu hỏi như: Bản chất của sự thật là gì? Đâu là vị trí
đầu tiên của con người trong vũ trụ? Màu sắc là chủ quan hay khách quan? Liệu thế giới
có xuất hiện bên ngoài trí óc của chúng ta hay không? Bản chất của vật thể, sự kiện, nơi
chốn là gì?
Tính độc đáo và sâu sắc trong việc xác lập vị thế lịch sử triết học của Aristote
được thể hiện ở các nguyên tắc:
(1) Nguyên tắc quan hệ hữu cơ giữa bản thể luận và phương pháp nghiên cứu
trên cơ sở của sự thống nhất giữa cái logic và cái lịch sử.
(2) Nguyên tắc nhất nguyên trong xem xét, phê phán các học thuyết triết học.
(3) Nguyên tắc kế thừa và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quan điểm, học thuyết
triết học trong ]ịch sử triết học.
Có thể tìm hiểu kỹ các nguyên tắc này trong phần I của "Siêu hình học" của
Aristote, nhất là khi ông bình xét quan điểm triết học về cái tồn tại và cái không tồn tại
của Pắcmênít và Kxênôphan. Tìm ra và sử dụng phương pháp logic - lịch sử để nghiên
cứu lịch sử triết học, Aristote đã chỉ ra mối liên hệ giữa học thuyết triết học của
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
8
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
Êmpêđốccơlơ và học thuyết của Anắcxagorơ. Theo Aristote, cả hai học thuyết này đều
bắt nguồn từ học thuyết của Anắcnmanđơrơ và giữa chúng cũng có sự khác nhau trong
việc giải quyết vấn đề khởi nguyên của thế giới. Có thể nói, trên cơ sở phân tích các học
thuyết khác nhau trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, Aristote đã hình thành nên
phương pháp logic - lịch sử, từ đó đưa ra nguyên tắc nhất nguyên luận trong nghiên cứu
lịch sử triết học. Nghiên cứu "Siêu hình học" của ông, chúng ta thấy ông coi lịch sử của
tư tưởng triết học chính là lịch sử con người đi tìm chân lý. Theo ông, tìm chân lý trong
một mối quan hệ là rất khó, nhưng trong nhiều mối quan hệ thì dễ hơn. Việc tìm chân lý
trong lịch sử xã hội không thể dựa vào một vài sự kiện, mà cần phải có sự khảo sát công
phu từ nhiều góc độ khác nhau với nhiều sự kiện khác nhau.
II.2.3 Thuyết vận động :
Arisitote cho rằng, Giới tự nhiên là toàn bộ các sự vật, quá trình luôn vận động có
liên hệ với nhau và được cấu thành từ một bản thể vật chất. Vận động không thể bị tiêu
diệt và cũng không thể tách ra khỏi sự vật, quá trình tự nhiên. Có sáu hình thưc vận động
là phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí. Aristote đã dừng lại
trước quan niệm vận động tự thân của vật chất mà thừa nhận cái hích đầu tiên của
Thượng đế nằm bên ngoài giới tự nhiên là nguồn gốc thần thánh của mọi vận động xảy ra
trong giới tự nhiên. Aristote cho rằng, vũ trụ là hữu hạn, liên tục và khép kín trong không
gian nhưng vĩnh viễn về thời gian. Vạn vật trong vũ trụ từ Mặt Trăng trở xuống Trái Đất
đều được cấu thành từ bốn yếu tố vật chất (đất, nước, lửa, không khí) và mang bốn tính
chất nguyên thủy (nóng, lạnh, khô và ẩm), được đặc trưng bằng chuyển động thẳng,
mang tính cưỡng bức, dựa trên nguyên lý vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ; do vậy mà mỗi
yếu tố có một xu hướng vận động riêng, chiếm giữ một vị trí nhất định trong trật tự cấu
trúc vũ trụ. Tuy nhiên, vũ trụ bên ngoài Mặt Trăng được bao trùm bởi Ete (éther), được
đặc trưng bằng chuyển động tròn, mang tính tự do, lấy Trái đất làm tâm. Aristote khi đó
đã đặt nền móng cho thuyết vũ trụ địa tâm.
II.2.4 Các tác phẩm khác :
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
9
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
Công trình khảo cứu của Aristote về Luận Lý (Logic) được xếp chung vào bộ tác
phẩm gọi tên là Organon, có nghĩa là “cách dùng” (instrument) bởi vì đây là phương tiện
(the means) để đạt được kiến thức (positive knowledge), là cách để tìm hiểu tư tưởng. Bộ
Organon gồm các tác phẩm The Categories (các Loại), The Prior and Posterior Analytics
(các Phân Tích trước và sau), The Topics (các Chủ Đề) và On Interpretation (Về cách
Diễn Đạt). Những vấn đề logic được Aristote trình bày trong "Organon" đã đề cập tới
phương pháp nhận thức, phương pháp tư duy. Các phương pháp Aristote đề cập tới trong
triết học của mình là phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp. Các phương pháp này
được ông trình bày trong mối quan hệ biện chứng, trong đó phân tích, diễn dịch được đặt
lên vị trí hàng đầu.
Để hiểu được các phương pháp của Aristote và mối quan hệ giữa chúng, trước hết cần
tìm hiểu tam đoạn luận của ông, bởi chính ở đây, ông đã trình bày một cách đầy đủ nhất
về lý luận diễn dịch. Aristote là nhà triết học đầu tiên đã phân tích phương pháp nhờ đó
một số định đề (propositions) được suy diễn theo luận lý là đúng, căn cứ vào một số định
đề khác đã được công nhận. Ông tin rằng tiến trình suy diễn luận lý này được đặt trên
một hình thức tranh luận mà ông gọi là Tam Đoạn Luận (Syllogism). Aristote đã định
nghĩa: "Tam đoạn luận” là một mệnh đề mà trong đó nếu một cái nào đó được giả định,
thì một cái khác nào đó cần phải bắt nguồn từ một cái đã định, vì rằng cái đã định đó là
có". Tam đoạn luận của Aristote được cấu thành từ ba phán đoán, trong đó hai phán đoán
là tiền đề, còn phán đoán thứ ba là kết luận . Cũng ở đây, ông đã định nghĩa thế nào là
tiền đề và từ, thế nào là tam đoạn luận hoàn thiện và tam đoạn luận không hoàn thiện.
Ông viết: “Tiền đề là một mệnh đề khẳng định hay phủ định một cái gì đó đối với một cái
gì đó. Có - đó hoặc là tiền đề chung, hoặc là tiền đề riêng, hoặc là tiền đề bất định", "Từ"
là cái được tiền đề tách ra, tức là cái thể hiện và cái mà nó thể hiện liên kết với nhau bằng
động từ “là” hoặc động từ “không phải là", còn "tam đoạn luận” hoàn thiện là cái mà khi
biểu lộ sự cần thiết, nó không cần một cái nào khác ngoài cái đã được thừa nhận. Tam
đoạn luận không hoàn thiện cả cái cần một hoặc nhiều cái khác (cho nó), tuy rằng cần
phải thông qua những từ đã cho, nhưng thông qua những tiền đề (đã cho) thì không
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
10
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
được.Trong một tam đoạn luận, một định đề được suy diễn từ hai định đề đúng khác. Một
thí dụ của lý luận này như sau: mọi người đều sẽ qua đời, Socrates là một con người, vì
thế có thể đi tới kết luận rằng Socrates sẽ qua đời.
Tam đoạn luận đã giữ một vài trò quan trọng trong nền Triết Học sau này do tạo nên
các hệ thống lý luận phức tạp hơn. Trong phép luận lý, Aristote đã phân biệt rõ hai thứ, là
biện chứng (dialectic) và phân tích (analytic). Theo nhà Đại Hiền Triết, biện chứng chỉ
trắc nghiệm các ý kiến (opinions) xét theo tính nhất quán về lý luận (logical consistency),
còn các công trình phân tích (analytic works) được suy diễn từ các nguyên tắc dựa trên
các kinh nghiệm và quan sát rõ ràng. Đây là sự khác biệt với lập trường của Hàn Lâm
Viện của Plato, nơi cho rằng biện chứng là phương pháp duy nhất thích hợp với Khoa
Học và Triết Học.
III. Ảnh hưởng của triết học Aristote đến văn hóa phương Tây
III.1 Ảnh hưởng đến nhận thức của con người
Tác phẩm Chính Trị Luận của Aristote nghiên cứu con người như một hữu thể chính
trị, và quả quyết rằng trong khi chu toàn chức năng công dân, con người nhận ra phần
đức hạnh nội tại trong con người của nó. Aristote đề ra quan điểm mỹ học của ông trong
cuốn Thi Ca (Poetics). Thí dụ, bi kịch ứng xử với đau khổ cũng như dũng cảm của con
người, vì đấng anh hùng thì phải chiến đấu với người khác, với thần linh và số mệnh; một
vở kịch tường thuật những bất hạnh được chấp nhận một cách cam chịu, hoàn toàn không
có sự lĩnh hội của nhân vật, thì có thể là một thể văn áo nảo hay một vở kịch thống thiết,
chứ không phải là bi kịch.
Trong hệ thống tác phẩm Chính Trị Luận của Aristote, Quyển I mang tựa đề "Lý
thuyết về Gia đình," được viết nên gồm 13 chương. Ông đã mở đầu chương này bằng
nhận xét rằng: "mỗi một cộng đồng được thiết lập nhằm đạt tới một cái tốt nào đó; vì
hoạt động của con người luôn luôn nhằm đạt được cái mà nó nghĩ là tốt. Nhưng, nếu tất
cả các cộng đồng đều nhắm đến một cái tốt, thì nhà nước hay cộng đồng chính trị-cộng
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
11
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
đồng cao nhất và bao trùm tất cả các cộng đồng-phải nhắm tới cái tốt cao cả hơn mọi
cái tốt khác, và phải là cái tốt ở mức độ cao nhất." Trong Quyển I, Aristote dùng phương
pháp luận lý phân tích và truy nguyên các hình thức quần tụ của con người từ đơn vị nhỏ
nhất là gia đình, đến làng mạc, rồi đến quốc gia.
Trong tác phẩm Chính Trị Luận, ông cũng đã có những phân tích cơ bản về vai trò
của nô lệ và của người phụ nữ, những lý luận này tuy hiện nay đã lỗi thời nhưng lại có
giá trị lý luận và ảnh hưởng đến nhận thức của xã hội đương thời.
III.2 Ảnh hưởng đến chính trị
Ông được cho là người khởi xướng ra tư tưởng phân quyền, nhưng ông không đặt tên
cho từng loại quyền lực nhà nước mà chỉ đặt tên cho các cơ quan nắm giữ. Ông là người
đề ra tư tưởng cho rằng để đảm bảo sự công bằng, để có được những đạo luật công bằng
thì nhà nước phải được tổ chức quy củ hơn. Từ đó, ông đã tập hợp và sắp xếp, phân tích
các hiến pháp và các đạo luật của các nhà nước khác nhau. Qua khảo sát các cơ quan
chính trị của nhà nước, ông phân chia chúng thành ba bộ phận: cơ quan làm luật hay còn
gọi là cơ quan nghị luận, cơ quan thực thi pháp luật hay còn gọi là cơ quan hành pháp, cơ
quan phán xử theo luật hay còn gọi là cơ quan xét xử. Ông đã đưa ra các phân tích cơ cấu
và hoạt động của cơ quan hành chính và tư pháp. Và ở các giai đoạn sau, ông cũng khẳng
định công dân có thể tham gia vào cả ba bộ phận: Hội nghị nhân dân, hành pháp và xét
xử. Ngoài ra, Aristote còn trình bày về cách thức hình thành chức năng, thẩm quyền,
thành viên, cấu tạo của từng bộ phận và mối quan hệ của chúng.
Trong Chính Trị Luận, Aristote dùng phương pháp luận lý quy nạp, đi từ đơn vị xã hội
nhỏ nhất là gia đình tới xã hội và cuối cùng là quốc gia, để tìm ra những đặc tính thiết
yếu mà nhà nước phải có để trở thành một nhà nước lý tưởng. Ngoài phương pháp quy
nạp, Aristote cũng dùng phương pháp so sánh giữa mô hình nhà nước "lý tưởng" và mô
hình nhà nước trong thực tế và đưa ra những nguyên lý xây dựng một nền chính trị mang
lại "điều tốt nhất" cho con người. Cụ thể, trong Quyển II của tác phẩm Chính Trị Luận,
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
12
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
Aristote bàn về nhà nước lý tưởng trên lý thuyết, ông phê bình các mô hình nhà nước lý
tưởng của các triết gia khác như Platon, Phaleas, Hippodamus, đồng thời chỉ ra các ưu
điểm và khuyết điểm của các mô hình nhà nước thời đó như Sparta, Crete, Carthage. Từ
đó, Aristote đưa ra nhận định là chẳng khi nào con người có thể đạt được một nhà nước lý
tưởng (như Platon chủ trương), nhưng con người có thể xây dựng được cho mình một chế
độ tốt nhất có thể được. Đó là một chế độ trung dung, giữa chế độ Dân chủ [khi nói đến
dân chủ thời cổ Hy lạp, chúng ta phải hiểu đó là dân chủ trực tiếp, mọi người dân đều
tham gia vào chính trị từ nghị luận việc công đến thi hành luật pháp] và chế độ Quả đầu
(thiểu số cai trị nhưng không phải là quý tộc).
Trong Quyển III của Chính Trị Luận, ông khảo sát về bản chất của công dân và các
mô hình của hiến pháp, có thể nói đây là cuốn sách trọng tâm của Chính Trị Luận. Ông
đã phân tích về tư cách công dân của con người, ông còn phân tích các chế độ chính trị
được thể hiện qua các loại hiến pháp khác nhau. Aristote bàn đến các nguyên tắc của chế
độ Quả đầu và Dân chủ, dựa trên khái niệm về công bằng và bình đẳng, đồng thời phân
tích sự lợi hại của "Nhân trị" và "Pháp trị."
III.3 Ảnh hưởng đến tôn giáo
Những ý tưởng của Aristote về quan hệ giữa khách thể và chủ thể (một đằng là cái
đẹp, hay đối tượng vẽ, một đằng là người nghệ sĩ, hay người thưởng thức nghệ thuật),
cũng như về sự bắt chước, hay sao chép thiên nhiên, về đại thể, cũng đã được nghệ thuật
Kitô giáo lấy lại và tiếp tục phát triển trong suốt 20 thế kỷ, mặc dầu trên một số điểm,
nhất là trong lãnh vực siêu hình học, quan niệm của Kitô giáo có khác với quan niệm của
các triết gia Hy Lạp.
Chỉ riêng về cái đẹp, quan niệm Kitô giáo cho rằng: mọi vật trên đời này đều đẹp, vì
do đức chúa Trời Ba Ngôi sáng tạo ra; chúng phản ánh cái đẹp toàn mỹ của Chúa. (Con
người được Chúa sáng tạo ra dựa theo hình ảnh của Chúa, nghĩa là mặc dầu khác với
Chúa, nhưng con người cũng có đủ những đức tính và khả năng để tham gia vào công
cuộc sáng tạo của Chúa, đặc biệt là sáng tạo ra cái đẹp). Như vậy có nghĩa là, trong đạo
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
13
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
Kitô, đức chúa Trời đã được "nhân hóa" và do đó cái đẹp được thể hiện một cách cụ thể
trên tất cả các nhân vật, từ đức chúa Giê-Su, đến đức Bà Maria, đến Chư thánh, v.v. (được
thể hiện trong các nền hội họa thời Trung cổ, Tiền Phục Hưng và Phục Hưng). Đây là
một trong những lý do khiến cho ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển Hy Lạp đã bị lu mờ
trong suốt thời trung cổ ở Âu châu, để nhường chỗ cho nghệ thuật Kitô giáo phát triển
rực rỡ, gần như liên tục, trong suốt gần 20 thế kỷ với những kiệt tác thể hiện các truyện
tích, và các nhân vật trong Kinh Thánh.
III.4 Ảnh hưởng đến lĩnh vực sinh học
Trong lĩnh vực sinh học, có đến 50 loài được Aristote trình bày giải phẫu tương đối
chính xác và chi tiết. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị như : “Động Vật Dữ, Bàn
Về Cấu Tạo Của Động Vật, Động Vật học”. Ông chia giới động vật thành hai nhóm : có
lông và không có lông, hoặc có máu và không có máu. Ông đã bước đầu xây dựng các
khoa phân loại tương đối hợp lý theo hình thái bên ngoài, cấu tạo bên trong, nơi cư trú,
tập tính sinh hoạt. Theo ông, sinh vật thấp nhất là thực vật, sinh vật cao nhất là động vật,
đặc biệt là con người. Ông đã mô tả hai kiểu sinh sản đúng là sinh sản hữu tính và sinh
sản vô tính. Ông có nhiều quan điểm tiến bộ và đúng đắn về sự sinh sản và phát triển của
phôi qua 5 tập Tái Tạo. Về thực vật, ngày nay chỉ còn lưu lại 2 tập nhan đề là “Về cây
cỏ”.
III.5 Ảnh hưởng đến lĩnh vực khoa học
Đối với lĩnh vực khoa học, ông đã thiết lập nên hệ thống học thuyết luận ngữ về khoa học
và triết học. Hệ thống thuật ngữ này vẫn luôn hiện diện và vẫn còn sử dụng trong đời
sống khoa học ngày nay. Nhằm mục đích biểu hiện những vấn đề khoa học, loài người
vẫn còn sử dụng đến những thuật ngữ khoa học do Aristote phát minh ra như: hình thức,
chất liệu, nguyên lý, phạm trù, sức sống, hiện thực, động cơ, kết cục, quy tắc, hình thái…
III.6 Ảnh hưởng đến giáo dục
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
14
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
Aristote cho rằng giáo dục là nhiệm vụ của quốc gia và nhà nước phải xây dựng một
hệ thống giáo dục đồng nhất cho mọi công dân. Aristote đề nghị 4 môn học cho chương
trình giáo dục: đọc-viết, thể dục, âm nhạc, và hội họa. Âm nhạc, theo Aristote, là một
môn học quan trọng, không phải chỉ là môn học để giải trí, mà là môn học để sử dụng thì
giờ nhàn rỗi một cách đúng đắn.
Aristote cũng đề nghị là dạy cho trẻ em phát triển thể chất trước khi phát triển tinh
thần. Cho nên, trẻ em nên được tập thể dục trước, vì huấn luyện thể chất sẽ giúp trẻ em
phát triển các tập quán tốt như kỷ luật tự giác, rồi đến âm nhạc, sau rốt mới đến các môn
học về tri thức.
KẾT LUẬN
Thông qua những nghiên cứu cơ bản về các hệ thống lý luận của Aristote về các mặt của
đời sống xã hội, đồng thời xem xét trong bối cảnh lịch sử xã hội thời bấy giờ và ảnh
hưởng của nó đến hệ tư tưởng của Aristote thông qua cuộc đời của ông. Chúng ta đã tìm
hiểu được tương đối chi tiết về hệ thống lý luận của ông,.qua những tìm hiểu đó, chúng ta
đã đánh giá được vai trò của ông trong việc tạo ra nền tảng ảnh hưởng đến hệ tư tưởng
sau này của phương tây nói riêng và cả nhân loại nói chung trong nhiều mặt của đời sống.
Tuy không phải hầu hết các tư tưởng của ông đều còn khả năng ứng dụng trong thời đại
hiện nay, nhưng có thể nói hệ tư tưởng đó đã có những ảnh hưởng nhất định và cụ thể đến
đời sống xã hội, thể hiện rõ nhất ở mặt lý luận triết học, đồng thời phản ánh qua các mặt
khác của đời sống xã hội như khoa học, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật Và không chỉ
ảnh hưởng đến các mặt vĩ mô của đời sống,việc nghiên cứu hệ thống tư tưởng của ông
còn hỗ trợ rất nhiều trong việc phân tích lý luận và xử lý các vấn đề gặp phải trong cuộc
sống hiện nay.
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
15
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Mưa (2012), Giáo trình Triết học - phần 1: Đại cương
về lịch sử Triết học, Khoa Lý luận chính trị - Trường Đại học Kinh Tế Tp. Hồ Chí
Minh.
2. TS. Bùi Văn Mưa , Giáo trình Triết Học & Bức Tranh Vật Lý học về Thế Giới, trường
Đại học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh.
3. Frederick Copleston, A History of Philosophy – Đức Quang Trích Dịch.
4. Khúc Thu Huyền, Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật
5. Aristote, Chính Trị Luận.
6. Thụy Khuê, Phê Bình Văn Học Thế Kỷ XX.
7.
tu-nhien/Aristotle-384 322-tCn.htm, Tóm tắt các công trình của Aristote.
8. , Chính Trị Luận.
9. ,
Chính Trị Luận.
10.
con-nguoi-chinh-tri-va.aspx, So sánh quan điểm của Aristote và Hàn Phi Tử
11. , Khác
biệt trong triết học phương Tây và Thiền.
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
16
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
12.
hanh-cua-aristote.html, quan niệm hạnh phúc và đức hạnh của Aristote
13. , Đạo Đức học
của Aristote.
14. o/index.php?option=com_content&view=article&id=51:vt-ly-
hc-ca-aristote&catid=41:lch-s-vt-ly&Itemid=58, Vật Lý Học Của Aristote.
15.
N/VSNguyenUoc/NguyenUocBKDaoDucHocCh7.pdf ,đạo đức học của Aristote.
16.
%E1%BB%8Dc, siêu hình học của Aristote.
MỤC LỤC
I. Tiểu sử của Aristote, bối cảnh và điều kiện lịch sử ra đời của triết học Aristote
2
I.1Bối cảnh lịch sử của xã hội thời bấy giờ 2
I.2 Giới thiệu nhân thân và cuộc đời Aristote 2
I.3 Điều kiện ra đời của triết học Aristote 3
I.4. .Sự phát triển của nền văn minh phương Tây trong và sau thời kỳ Aristote
4
II. Nội dung cơ bản của triết học Aristote 6
II.1 Giới thiệu những nét chính của triết học Platon 6
II.2. Triết học Aristote 7
II.2.1Thuyết Nguyên Nhân 7
II.2.2 Thuyết Siêu Hình Học 7
II.2.3 Thuyết Vận Động 9
II.2.4 Các tác phẩm khác 9
III. Ảnh hưởng của triết học Aristote đến văn hóa phương Tây 11
III.1 Ảnh hưởng đến nhận thức của con người 11
III.2 Ảnh hưởng đến chính trị 11
III.3 Ảnh hưởng đến tôn giáo 13
III.4 Ảnh hưởng đến lĩnh vực sinh học 13
III.5 Ảnh hưởng đến lĩnh vực khoa học 14
III.6 Ảnh hưởng đến giáo dục 14
Kết luận 15
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
17
Học viên thực Hiện
TÔN THẤT KHÁNH HOÀNG
TRIẾT HỌC ARISTOTE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY
18