Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bài tiểu luận Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.49 KB, 12 trang )

Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc Trang 1
TỔNG QUAN
Trong thời đại hiện nay, khoa học phát triển như vũ bão, kinh tế thị trường mở
rộng và cạnh tranh gay gắt thì đòi hỏi các nhà triết học và các nhà khoa học
chuyên môn phải giải
quyết

đúng
đắn và kịp thời những yêu cầu lý luận và thực
tiễn cấp bách, vì thế việc nghiên cứu những vấn đề về mối quan hệ giữa triết
học và khoa học có ý nghĩa quan
trọng.
Mối quan hệ này có tính song hướng,
một mặt nó phải hấp thụ những trào lưu triết học mới, thành tựu khoa học hiện
đại, và chắt lọc; mặt khác nó phải tu dưỡng thêm, vươn lên tầm cao mới để cải tổ,
phê phán những quan điểm triết học đã đóng băng, khô cứng so với thời đại. Để
làm được điều đó, ta cần phải phân tích, tìm hiểu mối quan hệ giữa triết học và
khoa học, kể từ lúc triết học đã từng là “bà mẹ mang thai” của khoa học cho đến
khi khoa học tuyên bố cự tuyệt triết học, và đến ngày nay, ảnh hưởng của triết
học và khoa học vẫn không ngừng xảy ra, đó là lý do của bài tiểu luận này.
Mục đích: Tìm ra mối quan hệ giữa triết học và khoa học từ thời Hy Lạp cổ đại
đến ngày nay. Từ đó, rút ra bài học cho bản thân, vận dụng các kiến thức
để thấu hiểu mọi sự vật tốt hơn, có phương pháp luận, tư duy biện chứng trong
cuộc sống và trong học tập hằng ngày.
Họ tên: Phạm Thị Ngọc Hân Lớp: Quản trị kinh doanh đêm
1
Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc Trang 2
I. TRIẾT HỌC LÀ GÌ?
Theo người Ấn Độ, triết học đọc là darshana, có nghĩa là sự chiêm
ngưỡng, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con ngời đến với lẽ phải. Còn
ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ "triết". Đó


không phải là sự miêu tả, mà là quá trình tranh luận để tìm bản chất của
đối tượng.
Ở phương Tây, thuật ngữ "Triết học" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp
"Philôsôphia”, nghĩa là "yêu mến sự thông thái". Triết học được xem là
hình thái cao nhất của tri thức, có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật. Từ
thời xưa, Triết học có nghĩa là thng minh, trí tuệ, kinh thư có câu: “Tri
nhân tắc triết” nghĩa là người hiểu biết tất phải thấu triệt vấn đề.
Bản thân câu hỏi "triết học là gì?" cũng là một trong những câu hỏi quan
trọng của triết học. Sở dĩ khó định nghĩa triết học là vì có quá nhiều cái
nhìn khác nhau về nội dung và sứ mệnh của triết học. Một mặt, nó được
trình bày như là tri thức nền tảng về bản chất của vạn vật; mặt khác, như
là sự hướng dẫn đến một đời sống tốt đẹp.
Khái quát lại, triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng
sản nguyên thủy thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những học thuyết
Triết học đầu tiên trong lịch sử đã xuất hiện ở Ấn Độ, Hy Lạp, Trung
Quốc, La Mã và các nước khác.
Triết học là hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc
chung của tồn tại và nhận thức, là thái độ của con người đối với thế giới,
là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mục đích của triết học là giải quyết các vấn đề cơ bản của bản thể luận và
nhận thức luận.
Có nhiều trường phái và nhiều cách phân loại về triết học khác nhau,
nhưng cơ bản người ta thường phân loại theo thời gian: Triết học cổ đại,
triết học trung cổ, triết học thời Phục hưng – cận đại, triết học hiện đại.
Họ tên: Phạm Thị Ngọc Hân Lớp: Quản trị kinh doanh đêm
1
Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc Trang 3
Phân loại theo không gian thì có triết học phương Đông và triết học
phương Tây.
II. KHOA HỌC LÀ GÌ?

Khoa học (trong tiếng Latin scientia, có nghĩa là "kiến thức" hoặc "hiểu
biết") là các nỗ lực thực hiện phát minh, và tăng lượng tri thức hiểu biết
của con người về cách thức hoạt động của thế giới vật chất xung quanh.
Thông qua các phương pháp kiểm soát, nhà khoa học sử dụng cách quan
sát các dấu hiệu biểu hiện mang tính vật chất và bất thường của tự nhiên
nhằm thu thập dữ liệu, phân tích thông tin để giải thích cách thức hoạt
động, tồn tại của sự vật hiện tượng. Một trong những cách thức đó là
phương pháp thử nghiệm nhằm mô phỏng hiện tượng tự nhiên dưới điều
kiện kiểm soát được và các ý tưởng thử nghiệm.
Các lĩnh vực khoa học thường được chia thành hai nhóm chính: khoa học
tự nhiên, nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên (kể cả đời sống sinh học) và
khoa học xã hội, nghiên cứu hành vi con người và xã hội. Những nhóm
chính là khoa học thực nghiệm, trong đó kiến thức phải được dựa trên
những hiện tượng quan sát được và có khả năng được thử nghiệm để kiểm
nghiệm tính đúng đắn của nó bởi các nhà nghiên cứu khác nhau làm việc
trong cùng điều kiện. Ngoài ra còn có các ngành liên quan được nhóm lại
thành các khoa học liên ngành và khoa học ứng dụng, chẳng hạn như khoa
học kỹ thuật và khoa học sức khỏe. Các thể loại khoa học này có thể bao
gồm các yếu tố của các ngành khoa học khác nhưng thường có thuật ngữ
và cơ quan chuyên môn riêng.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC
1. Thời Hy Lạp cổ đại
Sự phát triển của sản xuất đã dẫn đến các quan hệ và tổ chức xã hội cũ bị
đảo lộn. nếu như trước đây các tổ chức xã hội cũ như bộ tộc, bộ lạc mang
tính cộng đồng cao thì giờ đây xuất hiện các tư tưởng tư hữu và sau đó là
Họ tên: Phạm Thị Ngọc Hân Lớp: Quản trị kinh doanh đêm
1
Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc Trang 4
chế độ tư hữu về của cải. Phân công lao động phát triển cho phép trong xã
hội xuất hiện tầng lớp những người chuyên sống bằng lao động trí óc càng

tạo điều kiện nảy sinh các tư tưởng triết học, cũng trong thời này, khoa
học tự nhiên mới bắt đầu hình thành, triết học tự nhiên đã trình bày được
một bức tranh tổng quát về thế giới, đã có nhiều tư tưởng và dự báo thiên
tài định hướng cho khoa học phát triển, như việc phát minh ra lịch một
năm 12 tháng, với 365 ngày của Talet. Đêmôcrít (khoảng 460-370 trCN) -
Nhà duy vật theo đường lối nguyên tử cho nguyên tử là hạt vật chất nhỏ
nhất là nguồn gốc của mọi sự vật hiện tượng.
Chủ nghĩa duy vật có Trường phái Nguyên tử của Lơxíp xây dựng, và
Đêmôcrit hoàn thiện vào thế kỷ IV, trước công nguyên, trường phái này
cho rằng quy nạp là phương pháp nhận thức đúng đắn. Điển hình của chủ
nghĩa duy tâm, có trường phái Pytago, tư tưởng cơ bản của trường phái
này cho rằng: con số là bản chất của vạn vật trong thế giới. Và nổi bật với
chủ nghĩa nhị nguyên là Triết học Arixtốt – mệnh danh “hoàng đế” của
khoa học. Arixtốt là người khởi xướng thuyết địa tâm (cho trái đất là trung
tâm của vũ trụ). Arixtốt cũng cho rằng toán học chỉ khảo sát các khái niệm
trừu tượng, phi vật chất, và nó chỉ tương thích với các đại lương hay quan
hệ cố định, tĩnh tại. Trong khi đó, tự nhiên bao gồm các vật thể cụ thể luôn
vận động, biến đổi, do đó, toán học cũng không thích hợp với việc nghiên
cứu tự nhiên. Từ đây, ông khẳng định chỉ có tư duy lý luận dựa trên các
quy luật logic mới khám phá được nền tảng của tự nhiên. Ông là cha đẻ
của thuyết nguyên nhân – cơ sở của Siêu hình học, thuyết vận động – cơ
sở của Vật lý học,…
Vào thời cổ Hy Lạp, dù tư duy lý luận còn phôi thai nhưng nó đã cố vươn
lên nhận thức tính chỉnh thể của thế giới, triết học Hy Lạp cổ đại được
xem là thành tựu rực rỡ của văn minh phương tây, tạo nên cơ sở xuất phát
của triết học châu Âu sau này, đã đóng góp một phần không nhỏ vào lịch
sử triết học nhân loại.
Họ tên: Phạm Thị Ngọc Hân Lớp: Quản trị kinh doanh đêm
1
Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc Trang 5

2. Thời trung cổ
Triết học phương Tây thời trung đại là triết học – thần học, vì vậy thần
học lúc bấy giờ chi phối mọi mặt, kể cả khoa học và triết học, tín điều của
nhà thờ trở thành cơ sở cho mọi hành vi của con người; triết học lúc này
mang tính kinh viện, xa rời cuộc sống hiện thực, chính vì thế nó đã cản trở
sự phát triển của khoa học. Trong giai đoạn này, nhiều nhà triết học, khoa
học cũng quyết liệt đấu tranh với các tư tưởng của thần học của Nhà thờ,
như Tôma Đacanh, Đơnxcốt,… và nổi bật là Rôgiê Bêcơn, ông chủ trương
phê phán triết học kinh viện của Nhà thờ và chế độ phong kiến đương
thời, dũng cảm vạch trần tội ác của giai cấp phong kiến và những tội lỗi
của giới giáo sĩ, đồng thời đề xướng khoa học thực nghiệm, chính vì thế
mà ông bị nhà nước phong kiến cùng giáo hội Nhà thờ truy nã gắt gao và
bị cầm tù 14 năm. Tư tưởng của ông là tiếng chuông báo hiệu sự kết thúc
của chủ nghĩa kinh viện giáo điều và mở đầu cho thời kỳ khoa học thực
nghiệm.
Bên cạnh đó, Galileo tin vào lý thuyết Copecnicus (cho rằng các hành tinh
quay xung quanh Mặt trời) từ lâu, nhưng chỉ khi tìm ra được những điều
hiển nhiên chứng minh cho lý thuyết đó thì ông mới phát biểu công khai.
Bị giáo hội ngân cấm ý tưởng của mình, năm 1616, ông phải tới Roma để
tìm cách thuyết phục Giáo hội không ngăn cấm các ý tưởng của ông. Cuối
cùng, hồng y Bellarmine, theo các chỉ thị của Tòa án dị giáo, ra lệnh cho
ông phải từ bỏ ý tưởng, Trái đất di chuyển và Mặt trời đứng yên ở trung
tâm. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu và viết sách về chủ đề
này.Galileo với tác phẩm The Assayer (Người Thí nghiệm) ông viết "Triết
học được viết trong cuốn sách lớn này, vũ trụ Nó được viết bằng ngôn
ngữ của toán học, ký tự của nó là những hình tam giác, hình tròn, và các
đường hình học khác ". Những phân tích toán học của ông là sự phát
triển của một truyền thống đã được các nhà triết học tự nhiên kinh viện sử
dụng từ trước, Galileo đã học lý luận đó khi ông nghiên cứu triết học. Do
chủ nghĩa kinh viện của thời đại bấy giờ,Galileo cuối cùng buộc phải từ

Họ tên: Phạm Thị Ngọc Hân Lớp: Quản trị kinh doanh đêm
1
Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc Trang 6
bỏ thuyết nhật tâm của mình và sống những ngày cuối đời trong cảnh bị
quản thúc tại gia theo lệnh của Toà án dị giáo La Mã.
Những dẫn chứng trên thấy được ở thời đại này, triết học mang tính thần
học, những lý luận, giáo điều của Giáo hội đã ngăn cản sự phát triển của
khoa học, gây nhiều bức xúc cho nhiều người, dẫn đến sự trì trệ của nhiều
lĩnh vực trong cuộc sống.
3. Thời Phục hưng - cận đại
Thế kỷ XV – XVI, nhiều sáng chế kỹ thuật xuất hiện như: máy kéo sợi,
máy dệt, các động cơ đơn giản hoạt động nhờ sức gió, sức nước,… cùng
với việc tìm ra các đường biển dẫn đến các vùng đất mới, nhiều ngành
khoa học đã ra đời và phát triển. Toán học, cơ học, địa lý, thiên văn,… đã
đạt được nhiều thành tựu đáng kể và đã bắt đầu tách ra khỏi triết học tự
nhiên. Mỗi nghành khoa học cố gắng vạch ra bức tranh riêng cho ngành
mình, coi đó là sự liên kết những quan điểm, những nguyên lý phản ánh
những yếu tố phổ biến, bản chất tồn tại trong tất cả các hiện tượng muôn
màu, muôn vẻ thuộc đối tượng nghiên cứu của mình.
Triết học đã thay đổi đối tượng, phạm vi nghiên cứu của mình và phát
triển mạnh mẽ. Những tư tưởng triết học mới của thời Phục hưng đề cao
con người, tự nhiên, khoa học và vai trò của nó trong đời sống con người.
Chủ nghĩa duy vật phát triển gắn liền với khoa học tự nhiên, đã góp phần
tích cực vào sự phát triển của khoa học tự nhiên, chống lại sự thống trị của
Giáo hội. Vào thời kỳ này, quan điểm triết học là “khoa học của mọi khoa
học” và phương pháp tư duy siêu hình vẫn giữ vai trò thống trị. Ph.Bêcơn
đã xây dựng triết học và khoa học mới – xây dựng các tri thức lý luận chặt
chẽ đầy tính thuyết phục về mọi lĩnh vực nghiên cứu chứ không phải là
củng cố đức tin mù quáng.
Sống trong thời kỳ đêm trước của cuộc cách mạng tư sản Anh, Ph.Bêcơn

đã nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học và triết học và sự
cần thiết phải đẩy mạnh sự phát triển của chúng như một nền tảng lý luận
của công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Ông coi đó là một phương
Họ tên: Phạm Thị Ngọc Hân Lớp: Quản trị kinh doanh đêm
1
Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc Trang 7
tiện cơ bản nhằm xoá bỏ những bất công xã hội, xây dựng cuộc sống phồn
vinh. Khác với những nhà nhân đạo cộng sản không tưởng, Ph.Bêcơn
khẳng định phải cải tạo chính xã hội hiện thực đương thời trên cơ sở phát
triển khoa học và triết học chứ không phải bằng cách tạo ra mô hình lý
tưởng.
Chịu ảnh hưởng của quan niệm trước đây coi triết học là khoa học của các
khoa học, Ph.Bêcơn hiểu triết học theo hai nghĩa. Triết học theo nghĩa
rộng là tổng thể các tri thức lý luận của con người về Thượng đế (học
thuyết về Thượng đế), về giới tự nhiên (học thuyết về giới tự nhiên) và về
bản thân con người (học thuyết về con người). Theo nghĩa hẹp, triết học là
bộ phận cơ bản nhất trong tổng thể các khoa học. Đó là nền tảng và cơ sở
của mọi khoa học khác, đồng thời nó đã bao chứa toàn bộ các lĩnh vực
khoa học tự nhiên.
4. Thời hiện đại
Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh
với nhiều phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng lượng,
Thuyết tế bào, thuyết tiến hóa. Những phát minh khoa học đó đã vạch ra
mối liên hệ thống nhất giữa những sự vật, giữa các hình thức vận động
khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện
chứng của sự vận động và phát triển. Đồng thời đã làm bộc lộ rõ tính hạn
chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình và của tư tưởng biện
chứng cổ đại cũng như phép biện chứng của Hêghen. Từ đó đặt ra một
yêu cầu trong tư duy nhân loại cần phải xây dựng một phương pháp tư
duy mới thật sự khoa học. Với những phát minh của mình, khoa học đã

cung cấp những tri thức để Các Mác và Ph.Ăng ghen khái quát xây dựng
phép biện chứng duy vật.
Sự ra đời của triết học Mác đã đoạn tuyệt với quan niệm coi “triết học là
khoa học của mọi khoa học”, nhưng đồng thời cũng không cho phép chủ
nghĩa thực chứng cô lập, tách triết học ra khỏi khoa học cụ thể. Khi xác
định đúng đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy luật chung
Họ tên: Phạm Thị Ngọc Hân Lớp: Quản trị kinh doanh đêm
1
Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc Trang 8
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học Mác không những không
tách rời, mà trái lại, nó đòi hỏi triết học và khoa học phải có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Thực tiễn khoa học cũng chứng minh được rằng, những
thành tựu của khoa học sẽ làm tiền đề, cơ sở cho hệ thống phạm trù, quy
luật cho triết học, và hệ thống phạm trù, quy luật triết học sẽ định hướng
cho sự phát triển hợp quy luật của các lĩnh vực khoa học khác nhau.
Triết học theo nguyên lý của lý thuyết phức hợp rằng tư duy lý trí và tư
duy không lý trí, hoạt động của tư duy khoa học và của tư duy siêu hình
học vừa có sự phân biệt, vừa có sự liên kết không tách rời.
Để làm rõ ý tưởng này, chúng tôi xin đề cập tới phát minh khoa học của
Roger Sperry về chức năng cao cấp của não - phát minh đã đưa lại cho
ông giải thưởng Nobel về sinh lý và y học. Trước khi có phát minh này,
nhà thần kinh học người Pháp Pierre Paul Broca đã chứng minh rằng
vùng tiếng nói nằm ở bán cầu trái của não. Còn nhà sinh lý học người
Nga Paplov cho rằng ở nhà nghệ sĩ thì trội ở bán cầu phải - bán cầu
mang tính tổng thể, còn ở nhà tư tưởng thì trội ở bán cẩu trái - bán cầu
có tính phân tích. Roger Sperry đã đề xướng một lý thuyết chặt chẽ về
chức năng riêng của từng bán cầu. Hoạt động của bán cầu trái mang tính
phân tích, trình tự duy lý. Hoạt động của bán cầu phải mạng tính tổng
hợp, tổng thể , trực giác. Ông khẳng định rằng não chỉ đạt tới mức hoạt
động cao nhất khi có sự hợp tác các chức năng giữa hai bán cầu.

Như vậy, trong sinh lý học chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa phi duy lý,
khoa học và siêu hình học không còn chỉ là những tư biện, những điều
bày đặt của nhà triết học, mà đã có những chứng cứ mạnh mẽ. Vấn đề
lớn nhất đặt ra cho triết học là trong não người không phải chức năng
này tiêu diệt chức năng kia, mà là cùng hợp tác để tạo nên con người.
Gắn khoa học với siêu hình học, khoa học hiện đại đã đặt con người vào
trung tâm của quá trình nhận thức thực tại. Con người không phải là
khách thể mà là chủ thể quan sát thực tại đó. Phải chăng đây là một dấu
Họ tên: Phạm Thị Ngọc Hân Lớp: Quản trị kinh doanh đêm
1
Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc Trang 9
hiệu khẳng định sự đúng đắn của dự báo nổi tiếng của Mác: "Khoa học
tự nhiên sẽ bao gồm khoa học về con người, cũng như khoa học về con
người sẽ bao gồm khoa học tự nhiên, và đó sẽ là một khoa học".
Triết học Mác – Lênin nghiên cứu những thuộc tính và những quy luật
chung nhất của các
hệ
thống vật chất khác nhau của tự nhiên và xã hội,
cũng như của các hệ thống nhận thức thế giới của
con
người. Về thực
chất, chính chủ nghĩa duy vật biện chứng là một lý thuyết triết học
chung nhất của các
hệ
thống vật chất và tinh thần. Nó đem lại một bức
tranh nhất định về thế giới xem như vật chất đang
vận
động (phương
diện thế giới quan) và đông thời nó cũng là phương pháp luận của nhận
thức khoa

học
(phương diện logic – nhận thức
luận).
Triết học Mác – Lênin còn cố gắng vạch ra một cái chung, ổn định và
bất biến trong vô số những thuộc tính và những quy luật riêng lẻ cụ thể
và điều đó dẫn đến sự nhận thức những thuộc tính và quy luật phổ biến
của tồn tại của vật chất. Chẳng hạn, trong KHTN, người ta đã xác định
hàng loạt những quy luật đặc trưng cho mối quan hệ qua lại của các
thuộc tính và các khuynh hướng biến đổi đối lập của các khách thể vật
chất: các quy luật tương tác giữa điện tích dương và điện tích âm, giữa
hạt và phản hạt, giữa hút và đẩy trong kết cấu của vật thể, giữa kết hợp
và phân ly của các nguyên tử trong phân tử, các quy luật cân bằng động
học trong các hệ thống, …. Mỗi quy luật này đều tác động trong những
phạm vi cục bộ. Nhưng trong kết cấu của tất cả các quy luật ấy, có một
cái gì đó thống nhất, bất biến. Trên cơ sở khái quát hóa nội dung thống
nhất này mà hình thành quy luật biện chứng về sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập, một quy luật có giá trị phổ biến.
Lênin đã từng nhiều lần nhấn mạnh rằng vấn đề cơ bản của bất kỳ triết
học nào cũng là vấn đề về quan hệ giữa tồn tại và ý thức. Tuy nhiên điều
này không có nghĩa là chúng ta cần quy đối tượng của triết học vào vấn
đề cơ bản của nó. Lênin nói rằng quan hệ của ý thức đối với vật chất là
Họ tên: Phạm Thị Ngọc Hân Lớp: Quản trị kinh doanh đêm
1
Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc Trang 10
vấn đề cơ bản của triết học, nhưng điều này không có nghĩa rằng đây là
vấn đề duy nhất của nó. Vấn đề là ở chỗ, nếu thiếu vấn đề cơ bản của
triết học thì không có và không thể có triết học khoa học, mặc dầu, như
đã nói ở trên, triết học nghiên cứu không chỉ vấn đề cơ bản ấy mà còn
phải nghiên cứu những quy luật phát triển chung nhất của các hiện tượng
tự nhiên, xã hội và tinh thần, nghiên cứu những vấn đề về thế giới quan,

nghiên cứu lôgic biện chứng và lôgic hình thức và mối tương quan giữa
chúng, ….
Họ tên: Phạm Thị Ngọc Hân Lớp: Quản trị kinh doanh đêm
1
Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc Trang 11
KẾT LUẬN
Triết học có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ thể; nó là thế
giới quan và phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận cho các
khoa học cụ thể trong việc đánh giá các thành tựu đã đạt được, cũng như vạch ra
phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể. Sự hình
thành, phát triển của triết học không thể tách rời sự phát triển của khoa học cụ
thể.
M. Planck cho rằng, các nhà khoa học tự nhiên rất cần tư duy triết học để giải
quyết các vấn đề về khoa học, bởi vì mọi ngành khoa họ đều dựa trên những
nguyên lý cụ thể, mà những nguyên lý này được xây dựng không đơn thuần từ
những tài liệu thu được trong lĩnh vực chuyên môn hẹp của mình.
Thật vậy, khi ngồi trên ghế nhà trường, học các môn khoa học tự nhiên, chúng ta
lại sợ môn Triết học, cũng giống như những học sinh môn văn sợ học toán, tức
sợ phương pháp luận của tư duy. Cái đó có nguyên nhân sâu xa, nhưng nguyên
nhân gần là trong học tập, ta bị gán ép, áp đặt tư duy của người khác mà không
được thực chứng, tranh biện, động não, cũng như câu nói của George Polya (Nhà
toán học Mỹ gốc Hungari): “dạy cho học sinh suy nghĩ”. Từ đó, ta rút ra được bài
học quý báo, hãy động não nhiều hơn để cải tiến cách học Triết học, để thấu hiểu
mọi sự vật tốt hơn, có phương pháp luận, tư duy biện chứng trong cuộc sống
hằng ngày. Hãy đi theo một triết học hợp mốt hơn là làm nô lệ cho nó như Ph.
Ăngghen đã nhận định: “Những ai phỉ bang triết học nhiều nhất lại chính là
những kẻ nô lệ của những tàn tích thong tục hóa, tồi tệ nhất của những học thuyết
triết học tồi tệ nhất”. Và “dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ
vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết
học hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa

trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó”
Họ tên: Phạm Thị Ngọc Hân Lớp: Quản trị kinh doanh đêm
1
Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa hoc Trang 12
MỤC LỤC
Tổng quan Trang 1
I.Triết học là gi? Trang 2
II.Khoa học là gi? Trang 3
III.Mối quan hệ giữa triết học và khoa học Trang 3
1.Thời Hy Lạp cổ đại Trang 3
2.Thời trung cổ Trang 5
3.Thời Phục hưng – cận đại Trang 6
4.Thời hiện đại Trang 7
Kết luận Trang 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Anh Thơ – Những kiến giải về triết học khoa học – Nhà xuất bản Hà Nội,
năm 2006.
Bùi Văn Mưa – Triết học và bức tranh vật lý học về thế giới – Nhà xuất bản Đại
học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, năm 2007.
Bùi Văn Mưa - Triết học phần I – Đại cương lịch sử triết học, năm 2011.
/> />Họ tên: Phạm Thị Ngọc Hân Lớp: Quản trị kinh doanh đêm
1

×