Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

TIỂU LUẬN Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong quá trình đổi mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.92 KB, 33 trang )

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong quá
trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay
MỞ ĐẦU
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng: đường
lối phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá trình
phát triển kinh tế của một đất nước.
Trong vài thập kỉ gần đây, vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn với sự công
bằng xã hội được đặt ra mang tính chất toàn cầu bởi vấn đề không chỉ cần
thiết đối với những nước nghèo mà còn đối với tất cả những nước phát triển.
Đây là giải pháp cần thiết, tất yếu trong sự nghiệp cải cách, đổi mới nhằm
khắc phục tình trạng suy thoái kinh tế, sức ỳ, sự trì trệ xã hội do những hạn
chế của cơ chế quản lý tập trung quan liêu. Thực tiễn ở các nước cũng cho
thấy, muốn phát triển bền vững phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để
thực hiện công bằng xã hội, ngược lại giải quyết tốt các vấn đề xã hội sẽ tạo
động lực để thúc đẩy kinh tế, bởi không có ổn định kinh tế thì sẽ không có
phát triển kinh tế.
Đối với Việt Nam, các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét chung là:
chúng ta đã có bước khởi đầu tốt đẹp trong giai đoạn phát triển mới. Tuy
nhiên, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong thời gian tới còn
nhiều khó khăn. Vấn đề đặt ra là cần có sự lựa chọn thích hợp cho đường lối
phát triển, nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Để hoạch định hướng đường
lối phát triển đúng đắn là cần phải biết kết hợp những nguyên lý cơ bản của
sự phát triển kinh tế với những vấn đề đặt ra trong thực tiễn phát triển của đất
nước. Một trong những vấn đề đó là “việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay như thế nào?”
1
Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới ở nước ta cho thấy, tăng trưởng kinh tế
với công bằng xã hội là vấn đề mấu chốt của lý luận đổi mới, cũng là nội
dung rất căn bản của lý luận phát triển ở nước ta. Giải quyết hợp lý và đúng
đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là đòi hỏi tất


yếu của phát triển, trực tiếp nhất là phát triển kinh tế và xã hội, hướng tới phát
triển bền vững ở nước ta.
Trong quá trình nghiên cứu môn học quy luật xã hội chủ nghĩa, bản
thân tôi nhận thấy rằng, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Đảng ta cần phải có đường lối lãnh đạo đúng đắn, giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, đồng thời phải gắn việc phát triển
kinh tế với các vấn đề xã hội. Vì vậy, tôi đã lựa chọn vấn đề “Mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong quá trình đổi mới ở
Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và viết tiểu luận. Trên cơ sở làm rõ mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, thực trạng của việc
giải quyết vấn đề này ở nước ta hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
thực hiện tốt việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
2
NỘI DUNG
1. Tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội là một tất yếu
khách quan trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
1.1 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
Trong quá trình xây dựng đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, mục tiêu gắn chặt sự tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng
xã hội luôn được xác định là mục tiêu cao nhất. Nó vừa thể hiện được được sự
khác hẳn về chất so với các xã hội trước đó, đồng thời cũng thể hiện mục tiêu
cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là vì con người. Tuy nhiên, việc triển khai
thực hiện vấn đề này trên thực tế cũng không hề đơn giản, thậm chí việc nhận
thức cũng như hành động còn mắc sai lầm. Vì vậy, cần phải nhận thức rõ tăng
trưởng kinh tế là gì? Công bằng xã hội ra sao? Mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội như thế nào?
* Tăng trưởng kinh tế và vai trò của nó
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và
quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng
được so sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự

gia tăng quy mô sản lượng kinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Quy
mô và tốc độ tăng trưởng là"cặp đôi" trong nội dung khái niệm tăng trưởng
kinh tế. Hiện nay, trên thế giới người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá
trị của cải của xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc
tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của
những hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất
của mình (dù là sản xuất ở trong nước hay ở nước ngoài) trong một thời kỳ
nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị
tính bằng tiền của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên
3
lãnh thổ của nước đó (dù nó thuộc về người trong nước hay người nước
ngoài) trong một thời gian nhất định (thường là một năm). So sánh tổng sản
phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ta thấy:
GNP = GDP + thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài.
Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài = thu nhập chuyển về nước của
công dân nước đó làm việc ở nước ngoài trừ đi thu nhập chuyển ra khỏi nước
của người nước ngoài làm việc tại nước đó.Theo đó, tăng trưởng kinh tế là
mức gia tăng GDP hay GNP năm sau so với năm trước.
GNP và GDP là hai thước đo tiện lợi nhất để tính mức tăng trưởng kinh
tế của một nước biểu hiện bằng giá cả. Vì vậy, để tính đến yếu tố lạm phát
người ta phân định GNP, GDP danh nghĩa và GNP, GDP thực tế. GNP, GDP
danh nghĩa là GNP và GDP tính theo giá hiện hành của năm tính; còn GNP và
GDP thực tế là GNP và GDP được tính theo giá cố định của một năm được
chọn làm gốc. Với tư cách này, GNP, GDP thực tế loại trừ được ảnh hưởng
của sự biến động của giá cả (lạm phát). Do đó, có mức tăng trưởng danh
nghĩa và mức tăng trưởng thực tế.
Vai trò của tăng trưởng kinh tế
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo
những dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong

đó, tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính
trị, xã hội.
Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng,
chất lượng hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng
kinh tế là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh
tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường
vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng.
4
Mặt khác, tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng,
phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như:
kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo
dục, y tế, văn hoá phát triển. Đồng thời, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện
giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp.
Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những
nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy,
tăng trưởng kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm. Mối quan hệ
giữa tăng trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp ở nước phát triển đã được lượng
hoá dưới tên gọi quy luật Okum1 (hay quy luật 2,5% - 1). Quy luật này xác
định, nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm so với GNP tiềm năng
của năm đó thì tỷ lệ thất nghiệp giảm đi 1%.
Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh
quốc phòng, củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà
nước đối với xã hội. Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng
trưởng kinh tế còn là điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với các nước đang phát triển.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh là mục tiêu thường xuyên của các
quốc gia, nhưng sẽ là không đúng nếu theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi
giá. Thực tế cho thấy, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả
kinh tế - xã hội như mong muốn, đôi khi quá trình tăng trưởng mang tính hai
mặt. Chẳng hạn, tăng trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn đến tình trạng nền

kinh tế "quá nóng", gây ra lạm phát, hoặc tăng trưởng kinh tế cao làm cho dân
cư giàu lên, nhưng đồng thời cũng có thể làm cho sự phân hoá giàu nghèo
trong xã hội tăng lên. Vì vậy, đòi hỏi mỗi quốc gia trong từng thời kỳ phải tìm
ra những biện pháp tích cực để đạt được sự tăng trưởng hợp lý, bền vững.
Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao,
5
ổn định trong thời gian tương đối dài (ít nhất từ 20 - 30 năm) và giải quyết tốt
vấn đề tiến bộ xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
* Công bằng xã hội
Hiện nay, công bằng xã hội thường được hiểu là một phạm trù chính trị
- xã hội - văn hóa với ý nghĩa chủ yếu là nói lên mối quan hệ giữa cá nhân và
xã hội, mối quan hệ giữa các thành viên trong xã hội dựa trên nguyên tắc của
sự hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Như vậy,
nói tới công bằng xã hội là người ta nói tới sự ngang bằng nhau ở một mức độ
nào đó của con người trong xã hội theo phương diện lao động và thu nhập với
một nguyên tắc: lao động ngang nhau thì sự hưởng thụ phải ngang nhau.
Thực ra, quan niệm về công bằng xã hội như trên là không đầy đủ và
chưa toàn diện, mặc dù quan niệm đó có cơ sở chắc chắn là dựa vào các tiêu
chuẩn lao động và thu nhập. Khái niệm công bằng xã hội phải được hiểu theo
một nghĩa rộng rãi hơn, đầy đủ hơn để khi vận dụng trong thực tiễn người ta
có thể tránh được những cực đoan, máy móc.
Công bằng xã hội là một khái niệm luôn mang tính lịch sử, bị quy định
chặt chẽ bởi các hoàn cảnh cụ thể, và thực tế thì chưa bao giờ và không ở đâu
có sự công bằng tuyệt đối. Trong xã hội có giai cấp thì các giai cấp thống trị
đưa ra những tiêu chuẩn cho sự công bằng, mà phần lớn các tiêu chuẩn đó đều
đem lại lợi ích và bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị. Theo đó, công bằng xã
hội bị các lợi ích giai cấp làm biến dạng và xuyên tạc đi. Công bằng xã hội
nhìn qua lăng kính của giai cấp bóc lột đồng nghĩa với quyền lợi của giai cấp
thống trị và nghĩa vụ của người lao động, cho nên nó tạo ra những mâu thuẫn
không bao giờ có thể điều hòa được. Chính những mâu thuẫn đó đã biến công

bằng thành một khái niệm giả dối, lừa bịp. Các nhà tư tưởng trước Mác như
Phuriê, Xanh Ximông, Ôoen cũng đưa ra những giải pháp để đi đến công
bằng xã hội. Tuy nhiên, những giải pháp đó còn mang tính nửa vời, không
6
tưởng, nên ở chúng thiếu hẳn cơ sở hiện thực. Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin,
trên thực tế mới tìm được giải pháp cách mạng cho vấn đề công bằng xã hội:
Công bằng xã hội chỉ tồn tại khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động
được giải phóng khỏi mọi xiềng xích, công bằng xã hội chỉ đạt được khi xóa
bỏ sự công bằng của một số người, xóa bỏ đặc quyền đặc lợi trong vấn đề
công bằng. Và như vậy, chỉ có chủ nghĩa xã hội đích thực mới là xã hội có thể
giải quyết được vấn đề công bằng.
Tất nhiên, công bằng còn là một khái niệm có sự phát triển. Lịch sử
loài người là lịch sử phấn đấu không mệt mỏi cho sự công bằng và đi đến
công bằng xã hội từ cấp thấp đến cấp cao, từ cho số ít đến cho số nhiều và cho
mọi người. Một xã hội nhân đạo và công bằng phải là một xã hội tạo ra cho
mọi người có những cơ may để họ tự phát triển, đem lại hạnh phúc cho bản
thân họ và có những đóng góp cho xã hội. Xã hội không thể lo đời sống một
cách tỉ mỉ, cụ thể cho từng thành viên, nhưng xã hội có thể tạo điều kiện để
mọi người tự lo cho cuộc sống của mình.
Với cách nhìn tổng thể, có thể hiểu công bằng xã hội là các giá trị định
hướng để con người sinh sống và phát triển trong các quan hệ giữa các thành
viên trong cộng đồng về vật chất cũng như về tinh thần. Đó là những giá trị
cơ bản trong các quan hệ xã hội như: quan hệ giữa mức độ lao động và mức
độ thu nhập; quan hệ giữa quyền sở hữu tư liệu sản xuất và quyền định đoạt
sự sản xuất và phân phối; quan hệ giữa mức độ phạm tội và mức độ bị trừng
phạt; quan hệ giữa các thành viên của xã hội với hoàn cảnh kinh tế, mức độ
phát triển trí lực khác nhau và cơ hội tham gia vào quá trình giáo dục, khám
chữa bệnh, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể dục - thể thao
Điều kiện xã hội cụ thể của nước ta hiện nay đang mở ra những khả năng
cho các cá nhân, các tầng lớp xã hội phát huy năng lực và nguồn lực để vừa mưu

cầu lợi ích của mình, vừa tạo nên sức mạnh chung của cộng đồng (dân giàu,
nước mạnh), đưa đất nước từng bước tiến tới trình độ hiện đại (văn minh).
7
Quan niệm công bằng xã hội theo chủ nghĩa bình quân hoặc cho mọi
thứ bất công hoành hành, có hại cho lợi ích của đại đa số nhân dân càng
không thể chấp nhận được. Có người đặt vấn đề, để đạt được sự tăng trưởng
kinh tế thì tất yếu phải hy sinh công bằng xã hội, cần chấp nhận đạt tăng
trưởng kinh tế trước rồi dần dần giải quyết những vấn đề xã hội sau? Mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh không cho phép
làm như vậy. Vả lại, nếu làm như thế thì đồng thời cũng triệt tiêu luôn sự tăng
trưởng kinh tế.
Cũng có người cho rằng: đã là kinh tế thị trường thì phải chấp nhận
mọi thứ bất công? Kinh nghiệm một số nước cho thấy, một nền kinh tế thị
trường kiểu đó không giúp cho sự phát triển của đất nước, ngay cả trong lĩnh
vực kinh tế, và sớm muộn sẽ dẫn đất nước tới hỗn loạn, nghèo khổ và lạc hậu.
Nền kinh tế thị trường mà chúng ta muốn có là một nền kinh tế phục vụ cho
lợi ích chung của sự phát triển đất nước và bảo đảm cho mọi người dân sống
ngày càng ổn định và khá lên, theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa.
* Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
Có thể khẳng định rằng, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện, tiền đề của nhau. Trong đó, tăng
trưởng kinh tế là điều kiện không thể thiếu được để thực hiện, phát triển và
đảm bảo công bằng xã hội.
Thực tế cho thấy, kinh tế có tăng trưởng thì mới có thể xóa bỏ được
những biểu hiện bất bình đẳng và bất công xã hội đã từng tồn tại hàng ngàn
năm trong lịch sử các dân tộc (chẳng hạn vấn đề bóc lột giai cấp, bất bình
đẳng nam nữ, bất bình đẳng dân tộc, sự chênh lệch về mức sống giữa các
vùng dân cư…) và phát triển công bằng xã hội lên một trình độ mới cao hơn.
Tất nhiên, trong điều kiện kinh tế thiếu thốn vẫn có thể và phải thực hiện công
bằng xã hội ở một mức độ nhất định, nhưng công bằng trong điều kiện như

vậy chỉ nặng về phía bình quân, là công bằng ở trình độ thấp, chưa vượt ra
khỏi khuôn khổ của trật tự cũ.
8
Ở nước ta sau hơn 10 năm đổi mới (từ 1986 đến 1998), sự tăng trưởng
của nền kinh tế đất nước đã tạo điều kiện cho xã hội có thêm những khoản tích
lũy nhất định (tỷ lệ tích lũy/GDP tăng từ 27% năm 1995 lên gần 30% năm
1998) để đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế và xã hội ở tất cả các
vùng (kể cả vùng sâu, vùng xa) như: mở mang hệ thống giao thông, thủy lợi,
điện, y tế, giáo dục, khuyến khích tài năng tạo thêm công ăn việc làm, làm tốt
hơn việc đền ơn đáp nghĩa, trợ giúp những người có hoàn cảnh khó khăn…Nhờ
có tăng trưởng kinh tế, các thành viên xã hội mới có thêm cơ hội để học tập,
rèn luyện, nâng cao khả năng lao động và quản lý để tham gia vào hoạt động
kinh tế và các hoạt động xã hội khác mà trước đó họ chưa có điều kiện.
Để thực hiện tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, các nhà xã hội học
thường nhấn mạnh vấn đề công bằng xã hội - một trong những yêu tố nội sinh
của tăng trưởng kinh tế. Công bằng xã hội là một động lực phát triển kinh tế - xã
hội, bởi vì công bằng xã hội là yếu tố có tác động trực tiếp đến lợi ích của chủ
thể hoạt động. Do đó, nó kích thích tính năng động sáng tạo của mọi thành viên
xã hội, huy động các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực trong và ngoài nước vào
việc phát triển kinh tế. Có công bằng xã hội, người lao động mới phát huy hết
nhiệt tình và khả năng lao động, không ngừng nâng cao năng suất lao động để
tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm có chất lượng cao. Có công bằng xã hội, các
nhà kinh doanh mới chịu bỏ vốn, chấp nhận rủi ro để đầu tư cho sản xuất. Công
bằng xã hội là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo tăng trưởng kinh
tế một cách ổn định lâu dài, theo hướng tiến bộ xã hội.
1.2 Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là đòi hỏi tất yếu
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của
các nhà kinh điển Mác - Lênin trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện cụ thể của

9
Việt Nam. Người khẳng định mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội là để
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Mục tiêu hàng đầu của phát
triển kinh tế là nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động, làm cho đời sống của người dân ngày càng đầy đủ, sung sướng, hạnh
phúc. Đời sống vật chất, theo Người, trước hết giải quyết vấn đề ăn, mặc, nhà
ở, chữa bệnh. Đời sống tinh thần, theo Hồ Chí Minh, trước hết là bảo đảm học
hành cho mọi người. Đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ
nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, điều này
chi phối quan điểm phân phối. Để bảo đảm tính công bằng trong phân phối,
Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ phải chí công, vô tư. Người quan tâm đến vấn đề
phúc lợi xã hội, tuy nhiên theo Người, phúc lợi phải gắn với hiệu quả sản
xuất. Như vậy, vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến công bằng xã
hội được xem xét trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Mục đích
của xây dựng kinh tế để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân; thực hiện công bằng xã hội phù hợp sẽ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trước thời kỳ đổi mới, do bị chi phối bởi những nhận thức ấu trĩ, giản
đơn, giáo điều về chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh cải tạo xã
hội chủ nghĩa, nhanh chóng xóa bỏ các thành phần kinh tế cá thể của nông dân,
thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ và thành phần kinh tế tư bản tư nhân để sớm
hình thành một nền kinh tế "thuần nhất" dựa trên chế độ sở hữu công cộng về
tư liệu sản xuất dưới hai hình thức quốc doanh và tập thể; đồng thời áp dụng
phương thức quản lý kế hoạch hóa tập trung và thực hiện chế độ phân phối theo
lao động trên danh nghĩa, nhưng trên thực tế là cào bằng, bình quân chủ nghĩa.
Điều đó được xem là xây dựng quan hệ sản xuất mới đi trước một bước để mở
10
đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng trái với mong muốn chủ quan,

lực lượng sản xuất xã hội chẳng những không phát triển thuận lợi mà còn bị
kìm hãm gắt gao, khi quan hệ sản xuất có những yếu tố vượt quá xa so với tính
chất và trình độ thủ công, lạc hậu, phân tán còn phổ biến ở nước ta lúc bấy giờ.
Chính những suy nghĩ và hành động trái với quy luật khách quan ấy đã trở
thành nguyên nhân sâu xa đẩy đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng kéo dài từ cuối những năm 70 thế kỷ XX.
Đại hội VI của Đảng (12 - 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện,
trong đó có chủ trương mang tính đột phá là: chuyển nền kinh tế từ mô hình kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Khi khởi xướng đường lối đổi mới tại Đại hội VI,
Đảng ta nhấn mạnh các mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh.
Đến Đại hội VII, khi thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) và Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội tới năm 2000, Đảng ta đã bổ sung một mục tiêu quan trọng là “công
bằng xã hội”. Một luận điểm được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội là “Kết
hợp tăng trưởng kinh tế với từng bước thực hiện công bằng xã hội”. Đây là lúc
chúng ta đang phải tập trung khắc phục lạm phát và khủng hoảng kinh tế - xã
hội, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị
trường, chú trọng giải phóng mọi tiềm năng xã hội, phát triển lực lượng sản xuất
vốn đang còn rất lạc hậu và chậm phát triển ở nước ta.
Giải phóng là một tư tưởng lớn của đổi mới mà trước hết là giải phóng
sức sản xuất để giải phóng mọi tiềm năng của xã hội, cả vật chất lẫn tinh thần.
Phát triển mạnh mẽ kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường,
dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội với cơ chế dân chủ,
thực hiện dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong chính trị, đổi mới hệ thống
11
chính trị, mọi thành phần kinh tế, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật,
mọi công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm đó là hai
dòng chuyển động lớn của xã hội ta trong thời kỳ đổi mới. Nhờ đó, xã hội đã

nhanh chóng ra khỏi trạng thái trì trệ với sức ì rất lớn do thiếu động lực nội tại
để phát triển, nhanh chóng trở nên năng động, tích cực. Từ chỗ triền miên
thiếu lương thực (mà đây chỉ là hiện tượng thiếu giả tạo, hậu quả của một thời
“ngăn sông, cấm chợ”, ách tắc lưu thông phân phối), Việt Nam nhanh chóng
trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Tăng trưởng kinh tế là mức tăng về lượng, về tốc độ của nền kinh tế,
tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, tăng năng suất lao động xã hội, đáp ứng nhu
cầu sản xuất, tiêu dùng trong xã hội. Tăng trưởng là điều kiện của phát triển,
của tiến bộ, đó là tiền đề về vật chất - kinh tế để thực hiện công bằng. Một xã
hội có nền kinh tế phồn vinh, giàu có phải là một xã hội đạt được và duy trì
được sức tăng trưởng kinh tế, cũng như vậy, những dấu hiệu trì trệ và suy
thoái, thậm chí khủng hoảng (gắn với lạm phát) phải nhận biết từ mức tăng
trưởng chậm lại, giảm sút tăng trưởng. Không có một nền kinh tế tăng trưởng
thì không thể có tiềm lực vật chất để tiếp tục đầu tư cho hoạt động sản xuất -
kinh doanh, không có vốn và các nguồn lực nói chung để có thể tái sản xuất
mở rộng, càng không thể có điều kiện vật chất để cải thiện, nâng cao mức
sống, chất lượng cuộc sống của dân cư.
Trong quan hệ với tiến bộ và phát triển, nếu tăng trưởng kinh tế là điều
kiện và tiền đề thì tiến bộ và phát triển là kết quả và công bằng xã hội là động
lực và mục tiêu của quá trình tăng trưởng, tiến bộ và phát triển. Nói một cách
khác, công bằng xã hội đóng vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế, là nhân tố bảo đảm ổn định và lành mạnh xã hội, kể cả xác lập
ổn định tích cực của chính trị, là động lực đồng thời là mục tiêu của đổi mới
để phát triển đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
12
Công bằng xã hội thể hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội, là một
trong những giá trị mà sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội của
chúng ta hướng tới. Đây không chỉ là giá trị đặc trưng riêng có của chủ
nghĩa xã hội. Trên thực tế, chế độ xã hội nào muốn được lòng dân, muốn
tồn tại cũng phải quan tâm giải quyết yêu cầu về công bằng xã hội. Chế độ

chính trị nào thì mang bản chất của giai cấp cầm quyền, thống trị ấy. Muốn
duy trì địa vị quyền lực của mình, giai cấp cầm quyền dù là giai cấp bóc
lột, có mâu thuẫn và xung đột với đa số dân chúng trong xã hội về lợi ích
thì trong khi thực thi quyền lực, họ cũng phải đáp ứng yêu cầu công bằng
xã hội, thực hiện những lợi ích chung của cộng đồng xã hội, ở một mức độ
nào đó.
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ kiểu mới, do bản chất kinh tế và chính
trị ưu việt của nó càng phải chú trọng thực hiện mục tiêu công bằng, càng
phải chứng tỏ trong thực tế việc thực hiện công bằng xã hội đạt ở mức độ phổ
biến, rộng rãi trong xã hội, đạt được những thành tựu to lớn, bền vững hơn so
với các chế độ trước đó, đem lại sự thụ hưởng lợi ích chính đáng cho số đông
dân chúng. Đó là xét về mặt nguyên tắc, về mặt lý luận.
Trong thực tế, giải quyết vấn đề công bằng xã hội khó khăn, phức tạp
hơn nhiều vì nó liên quan tới các mối quan hệ về lợi ích, về phát triển, các quan
hệ giai cấp và xã hội, các phương thức tổ chức quản lý xã hội, các chính sách
và cơ chế quản lý. Trước đổi mới, khi chưa áp dụng kinh tế thị trường, cơ chế
thị trường, việc giải quyết công bằng xã hội gặp không ít khó khăn. Nhận thức
sai lầm, coi công bằng là bình quân, chia đều, lại không đánh giá đúng vai trò
của lực lượng sản xuất, quan hệ giữa các chủ thể lợi ích trong xã hội nên trong
quản lý thường không khai thác có hiệu quả các động lực phát triển mà một
trong những động lực mạnh nhất là công bằng, thúc đẩy mọi người tham gia
các hoạt động kinh tế và xã hội nhằm đạt được tiến bộ, phát triển.
13
Đổi mới của Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng cao, liên tục trong
nhiều năm, tăng trưởng kinh tế là rất rõ rệt, song xét trên toàn cục, nước ta
vẫn trong tình trạng kém phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta sớm ra khỏi tình
trạng kém phát triển, phấn đấu hoàn thành chiến lược công nghiệp hóa rút
ngắn để cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Xét trên từng lĩnh vực, đổi mới đã đem lại những dấu mốc tiến bộ trong

kinh tế, xã hội, văn hóa, trong lĩnh vực chính trị. Việc đổi mới hệ thống chính
trị ở nước ta cũng đạt được nhiều tiến bộ, song phát triển toàn diện, cân đối và
bền vững thì vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Những nỗ lực trong quản lý
nhà nước đã thực hiện được trên một số mặt về công bằng xã hội, kết hợp
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong từng bước đi, trong từng chính
sách như văn kiện Đại hội X đã chỉ ra, song bất bình đẳng trong xã hội, bất
công bằng xã hội còn nhiều, từ thụ hưởng lợi ích đến tiếp cận các dịch vụ xã
hội, các cơ hội phát triển, đối với các tầng lớp dân cư xã hội khác nhau, các
địa phương, vùng, miền khác trong cả nước. Tỷ lệ đói nghèo trong dân cư,
nhất là ở nông thôn, ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn
cao. Nông dân chiếm tỷ lệ lớn trong dân số nước ta (60 triệu trên tổng số hơn
80 triệu dân) vẫn là đối tượng chịu nhiều thua thiệt trong phát triển, trong đó
đáng lưu ý là số người nghèo, hộ nghèo, mất đất sản xuất và chưa được đào
tạo nghề để ổn định cuộc sống. Ngay công nhân, người lao động và một bộ
phận trí thức, thuộc về những lực lượng cơ bản của xã hội vẫn gặp rất nhiều
khó khăn trong đời sống hằng ngày cũng như trong việc tiếp cận những cơ hội
phát triển. Họ cũng là những đối tượng chịu thua thiệt trong phát triển. Sự
chênh lệch trong phát triển cũng biểu hiện rõ rệt giữa các địa phương, vùng,
miền. Do đó, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng
xã hội để đạt được sự phát triển bền vững càng trở nên bức xúc không chỉ đối
14
với sự phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội mà còn đối với địa phương,
vùng miền trong cả nước.
2. Thực trạng và quan điểm, giải pháp gắn tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay
2.1 Thực trạng của tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở
nước ta hiện nay
* Những thành tựu nổi bật
Về kinh tế, kết quả thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010) ước tính
GDP tăng bình quân 7,2%/năm (năm 2009 - 2010, ước theo kế hoạch của Chính

phủ); GDP tuyệt đối tăng 2 lần; GDP/đầu người tăng 3,17 lần và đã vượt ngưỡng
1.000 USD. Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất gia tăng đáng kể: Đóng góp
của yếu tố vốn vào tăng trưởng GDP đã giảm từ 70% (giai đoạn kế hoạch 1991 -
1995) xuống còn khoảng 52% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố lao
động vào tăng trưởng GDP đã tăng từ 16% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên
khoảng 20% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố tăng trưởng tổng hợp
(TFP) đã tăng từ 14% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 28% (giai
đoạn 2006 - 2010). Các số liệu trên cho thấy, hiệu quả quản lý nền kinh tế đất
nước được nâng cao trong vòng 20 năm qua, nền kinh tế đất nước tăng trưởng
liên tục và thuộc nhóm "thị trường mới nổi" có nhiều tiềm năng; vị trí kinh tế
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao đáng kể.
Tiến bộ và công bằng xã hội càng thể hiện rõ nét hơn những thành quả
của tăng trưởng kinh tế. Thông thường, để đo tính chất công bằng trong phát
triển, người ta thường sử dụng 3 loại thang đo: (1) - Ngũ phân vị (chia các
tầng lớp dân cư làm 5 tầng, dựa theo sự cách biệt trong chi tiêu, mỗi phân
tầng là 20%, xem xét độ chênh lệch giữa các tầng); (2) - Hệ số bất bình đẳng
GINI (được tính từ 0 đến 1) và (3) - Đường cong lô-ren (lorent). Ở nước ta, cứ
hai năm một lần, Tổng cục Thống kê đều tiến hành điều tra và công bố sự
chênh lệch giàu nghèo theo thang đo thứ nhất.
15
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (tháng 12 - 2007), sự bất bình
đẳng trong chi tiêu giữa các tầng lớp dân cư ở nước ta từ năm 1993 đến năm
2006 ngày càng tăng. Chêch lệch chi tiêu giữa nhóm người giàu nhất và
nghèo nhất tăng từ 5 lần (năm 1993) lên 6 lần (năm 2006). Hệ số GINI tăng từ
0,34 (năm 1993) lên 0,36 (năm 2006). Và có lẽ sự chênh lệch này vẫn chưa có
dấu hiệu dừng lại.
Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2007, 60% tầng lớp dân
cư nước ta có mức sống từ trung bình trở xuống chỉ chiếm 36,7% tổng chi
tiêu của cả nước và tiếp tục giảm còn 35,5% vào năm 2006; trong khi đó,
20% tầng lớp dân cư giàu nhất chiếm 41,8% (năm 1993) và tăng lên 43,3%

(năm 2006) tổng chi tiêu của cả nước.
Khái niệm bình đẳng mang tính chất tương đối khi so sánh giữa các
tầng lớp dân cư, nên khác với ý nghĩa của kết quả giảm hộ nghèo. Mặc dù
những năm qua, chúng ta đã rất thành công trong các chương trình xóa đói,
giảm nghèo; nhất là các Chương trình 135, 132 của Chính phủ đã giải quyết
được tình trạng nghèo tuyệt đối ở các địa bàn nông thôn. Theo đó, tỷ lệ hộ
nghèo đã giảm rất ấn tượng trong 15 năm qua: từ 58,1% (năm 1993) xuống
còn khoảng 11% (năm 2009).
Dù nước ta hiện không còn nằm trong số 50 quốc gia nghèo nhất của
thế giới theo tiêu chí xếp loại của UNDP (với mức GINI dưới
750USD/người/năm), nhưng vẫn chỉ là quốc gia có thu nhập trung bình ở
ngưỡng thấp theo tiêu chí đánh giá của Ngân hàng Thế giới (thu nhập trung
bình GDP/người từ 936 USD đến 3.705 USD). Tuy nhiên, nhờ đường lối sáng
suốt của Đảng ta trong việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt
nhiều thành tựu về tiến bộ xã hội.
Cụ thể là: chỉ số HDI đạt 0,733, xếp hạng 105/177 quốc gia, thuộc
nhóm trung bình cao (nhóm trung bình từ 0,503 đến 0,798). Tỷ lệ hộ nghèo đã
16
giảm xuống còn khoảng 11% theo tiêu chí Việt Nam (nếu theo tiêu chí quốc
tế là 2 USD/người/ngày thì số hộ nghèo còn khoảng 40%). Bảo hiểm y tế
được mở rộng đến 52% dân số, 100% số xã có trạm y tế và 78% số xã có bác
sĩ phụ trách. Tuổi thọ trung bình đạt 72 tuổi. Trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng còn dưới 20%. Ngân sách nhà nước đã bảo đảm được 78% chi phí cho
giáo dục đào tạo toàn xã hội (đạt 20% ngân sách nhà nước) v.v
Những thành tựu nêu trên phần nào phản ánh được sự đúng đắn trong
đường lối đổi mới của Đảng nói chung và trong Chiến lược xóa đói, giảm
nghèo giai đoạn 2001 - 2010 nói riêng. Tuy vậy, trong quá trình thực thi
chính sách, vẫn bộc lộ không ít những hạn chế cùng nhiều vấn đề xã hội
khác đang đặt ra.

* Những vấn đề đang tồn tại
Thứ nhất, giữa chính sách kinh tế tài chính và chính sách xã hội chưa
thực sự gắn kết với nhau, dẫn đến sự phân hóa về thu nhập và tài sản ngày
càng lớn.
Hiện ở nước ta chưa có cuộc điều tra nào về sự phân hóa thu nhập và
tài sản, mà chỉ có điều tra về mức chi tiêu (thang đo theo ngũ phân vị nêu trên
dựa vào chi tiêu của các tầng lớp xã hội, chứ không phải thu nhập). Sự giàu
nhanh của một bộ phận dân cư, chủ yếu dựa vào sự bất cập của cơ chế và yếu
kém trong quản lý nhà nước, chứ không phải dựa vào tài năng, sự sáng tạo và
hiệu quả của lao động. Chẳng hạn, trong 10 năm gần đây, có rất nhiều người
giàu nhanh là nhờ vào "lỗ hổng" trong quản lý đất đai. Tuy chưa có cuộc điều
tra nào về vấn đề này, nhưng thực tế dễ nhìn thấy được là do yếu kém và tiêu
cực trong quản lý đất đai, nhất là ở các đô thị lớn, đã biến nguồn vốn xã hội
này thành của cải của một thiểu số, tạo sự bất công xã hội ngày càng gay gắt.
Tình hình khiếu nại, khiếu tố kéo dài của một bộ phận dân cư mất đất trong
thời gian qua có nguyên nhân từ sự yếu kém này.
17
Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn thế giới cho thấy, ở những
quốc gia có tỷ lệ đô thị hóa còn thấp, quá trình đô thị hóa chính quỹ đất đô thị
là "con gà đẻ trứng vàng", mà chính quyền có thể điều tiết để đầu tư phát triển
các phúc lợi công cộng, nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng, tạo sự
hưởng thụ bình đẳng cho các tầng lớp dân cư nếu có sự phân phối hợp lý
nguồn vốn này. Do chính sách thiếu đồng bộ, nhất là sử dụng không hiệu quả
các công cụ quản lý, như quy hoạch, quản lý sử dụng đất, quản lý dự án đầu
tư bất động sản , sử dụng công cụ tài chính như thuế, phí để điều tiết và
chống đầu cơ, đã tạo ra bất công xã hội.
Thứ hai, quá trình đô thị hóa diễn ra tự phát, thiếu quy hoạch và chính
sách điều tiết chưa hợp lý dẫn đến mâu thuẫn giữa mục tiêu kinh tế và mục
tiêu xã hội.
Nghiên cứu kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy, trong quá trình đô

thị hóa và công nghiệp hóa, vấn đề khó khăn nhất là làm thế nào để chuyển
một bộ phận nông dân mất đất thành thị dân, trở thành người lao động trong
các ngành nghề phi nông nghiệp. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua, chúng ta
chưa có các chính sách và giải pháp thực sự hữu hiệu để giải quyết bài toán
khó khăn này. Ngược lại, ở nhiều địa phương, chính quyền chủ yếu chỉ quan
tâm vào việc giải tỏa nhanh để lấy đất, đền bù cho người dân một số tiền theo
kiểu "áp đặt giá mua", trong khi việc quan trọng hơn là giúp họ tổ chức cuộc
sống cho bản thân và gia đình sau khi mất đất thì ít được quan tâm. Nhiều
người đã hiểu sai lệch về cơ chế kinh tế thị trường theo kiểu "thuận mua vừa
bán" trong công tác đền bù giải tỏa (để chuyển từ đất nông nghiệp sang phi
nông nghiệp), mà không hiểu rằng, chỉ có việc làm mới là cơ sở quan trọng
nhất tạo sự ổn định cuộc sống cho mỗi con người. Sự phản ứng của xã hội
trong thời gian gần đây về tình hình mất đất nông nghiệp, sử dụng lãng phí
quỹ đất phi nông nghiệp cũng là hệ quả của tình hình trên.
18
Thứ ba, trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã
hội thông qua sự vận động của cơ chế thị trường, công cụ quan trọng nhất để
Nhà nước điều tiết là thuế và phí.
Trong đó, chính sách thuế phải chuyển dần từ thuế gián thu sang thuế
trực thu, như thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản bất động sản trong nguồn thu
ngân sách nhà nước. Sau Đại hội IX (năm 2001), Chính phủ đã có chiến lược
cải cách về thuế trong giai đoạn 2001 - 2010 nhằm thay đổi cơ cấu nguồn thu.
Nhưng đến nay vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể. Thuế trực thu hiện mới đóng
góp khoảng 7% - 8% cho ngân sách, còn chủ yếu dựa vào thuế gián thu. Từ
đó có thể nói, chính sách thuế chưa thực sự thúc đẩy công bằng xã hội. Mặt
khác, những nỗ lực của Nhà nước thời gian qua để kiểm soát thu nhập của các
tầng lớp dân cư nhằm điều tiết bằng công cụ thuế thu nhập cá nhân đã không
mấy thành công do chưa giải quyết được tình trạng của nền kinh tế tiền mặt.
Thứ tư, mô hình kinh tế dựa vào nền tảng phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ là mô hình tạo ra tầng lớp trung lưu chiếm chủ yếu trong cơ cấu

xã hội, nên tính bình đẳng càng cao.
Trong nhiều năm qua, chúng ta cũng có chủ trương hỗ trợ để phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trên thực tế, khi thực hiện chủ trương này,
hầu như không có chính sách cụ thể kèm theo, như chính sách thuế, chính
sách tín dụng, chính sách hỗ trợ về đất đai, dịch vụ sản xuất, ứng dụng công
nghệ, đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại Hiện nay, cả nước có đến hàng
chục tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng chủ yếu vẫn chỉ là cung
cấp dịch vụ để thu phí, thay vì thực thi chính sách quốc gia hỗ trợ cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
Thứ năm, có sự lệch lạc trong việc thực thi chủ trương xã hội hóa các
dịch vụ thuộc về hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa v.v
Điển hình nhất là thương mại hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế với chủ
trương cho phép thành lập các loại công ty kinh doanh y tế, giáo dục. Ai cũng
19
biết, bản chất của công ty là tối đa hóa lợi nhuận, nên không thể vừa cho lập
công ty kinh doanh vừa kêu gọi hạn chế lợi nhuận. Trong khi đó, y tế, giáo
dục là vấn đề của Nhà nước chứ không phải là vấn đề của thị trường. Một khi
để thị trường điều tiết 2 loại dịch vụ công này, thì không thể rút ngắn được
khoảng cách biệt về hưởng thụ giữa các tầng lớp dân cư, để từ đó góp phần
nâng cao tính chất công bằng xã hội.
Như vậy, cả về lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, không phải lúc nào
thị trường cũng đúng trong việc phân bố nguồn lực của nền kinh tế. Sự thất
bại của thị trường thậm chí sẽ mang đến những hệ quả nghiêm trọng đối với
nền kinh tế, tạo nên những cuộc khủng hoảng kinh tế.
Mặc dù đến nay người ta nhận thấy rằng, chưa có mô hình kinh tế nào
tạo động lực phát triển tốt hơn mô hình kinh tế thị trường, nhưng bản thân mô
hình kinh tế này cũng có nhiều khuyết tật mang tính bản chất, nổi bật và trên
thực tế thường diễn ra 3 khuyết tật: (1) - Sự phát triển mang tính tự phát do
"bàn tay vô hình" là thị trường dẫn dắt, nên luôn luôn tạo ra khủng hoảng thừa
và thiếu, khủng hoảng mang tính chất chu kỳ; khủng hoảng cục bộ hoặc toàn

cục; (2) - Do động lực cạnh tranh và động cơ lợi nhuận, các doanh nghiệp
luôn luôn xem nhẹ lợi ích cộng đồng, như vấn đề phá hoại môi trường, gian
lận thương mại, đầu cơ thái quá; (3) - Mô hình kinh tế thị trường là mô hình
làm giàu cho thiểu số, không thể có chuyện mọi người cùng giàu theo sự tác
động tự nhiên của thị trường.
Do đó, nhiều nhà kinh tế đã ví mối quan hệ giữa thị trường với nhà
nước như "hai bánh xe" của một cỗ xe vận hành nền kinh tế. Sự chệch choạc
trong quá trình vận hành của "hai bánh xe" này chính là điều mà chúng ta
thường nói là sự bất cập trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường. Bởi vì, thị trường hoạt động theo quy luật của "bàn tay vô hình", mà
các quy luật đó giống như quy luật "nước chảy chỗ trũng". Còn vai trò của
20
nhà nước can thiệp vào thị trường là dẫn dắt "dòng nước" đó chảy theo mục
đích của mình. Nghĩa là, nhân tố khách quan (của quy luật thị trường) và ý
muốn chủ quan (trong mục tiêu phát triển của nhà nước) không triệt tiêu lẫn
nhau. Đây chính là điểm khó khăn nhất cả về phương diện tư duy cũng như
hành động trong suốt quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường; cũng là điều bất cập đáng kể nhất
trong cơ chế quản lý kinh tế hiện nay.
Để khắc phục những khuyết tật trên, các quốc gia, tùy theo điều kiện
lịch sử và đặc điểm của mình; đồng thời tùy theo mục tiêu của nhà nước đó đề
ra những công cụ quản lý khác nhau. Ngày nay, khi nói đến phát triển bền
vững, tức là nói đến việc sử dụng vai trò của nhà nước để khắc phục 3 khuyết
tật của thị trường vừa đề cập ở trên. Do đặc điểm chế độ chính trị, truyền
thống văn hóa, lịch sử và năng lực quản trị khác nhau, nên việc giải quyết
những khuyết tật nói trên ở mỗi quốc gia sẽ có kết quả khác nhau. Có thể nói,
vai trò của nhà nước là hạn chế những thất bại của thị trường, đồng thời khắc
phục những khuyết tật cố hữu của thị trường. Chức năng này càng trở nên
quan trọng đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà
nước ta đang xây dựng.

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra,
cùng lúc xuất hiện sự tranh luận về vai trò của nhà nước. Trong đó, có 2 quan
điểm khác nhau là: nhà nước nhỏ, thị trường lớn hoặc ngược lại. Tuy nhiên, thực
tiễn kinh tế thế giới cũng như ở nước ta trong những năm qua đều cho thấy, các
cuộc khủng hoảng lớn hay nhỏ đều có nguyên nhân từ sự yếu kém trong vai trò
điều tiết của nhà nước nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường.
Vấn đề không phải ở chỗ nhà nước lớn hay thị trường lớn, mà ở chỗ, nhà
nước phải thực sự đảm nhận chức năng bổ khuyết và xử lý những thất bại của thị
trường. Nói cách khác, nhà nước can thiệp vào thị trường như thế nào, bằng các
21
công cụ gì để phù hợp với chức năng của mình; nhưng đồng thời không làm cho
các quan hệ của thị trường bị méo mó. Đây cũng chính là một biểu hiện cụ thể
trong nhận thức về vai trò của nhà nước trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong điều kiện ngày nay.
2.2 Quan điểm, giải pháp nhằm gắn tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay
* Về quan điểm:
Ở nước ta, trong những năm đổi mới, đường lối của Đảng cũng như
chính sách của Nhà nước đã thể hiện quan điểm mới, sâu sắc và toàn diện
trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã
hội. Điều này được phản ánh một cách nhất quán trong các văn kiện lớn của
Đảng và trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong suốt
thời kỳ đổi mới.
Một số văn kiện lớn của Đảng, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5
khóa VII (6-1993) về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn; Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7-1994) về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
khẳng định lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững; động viên toàn dân cần, kiệm để xây dựng đất nước,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân; phát huy văn
hóa, giáo dục; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ môi trường…

Đại hội VIII của Đảng đánh dấu bước phát triển mới trong chỉ đạo về
vấn đề này. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII khẳng định:
"Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội
phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối
kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển
và sử dụng tốt năng lực của mình"
1
.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996, tr.113.
22
Đến Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII, Đảng ta nhấn mạnh rằng, phát
triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách
giữa thành thị và nông thôn, giữa nông thôn với nông thôn, giữa thành thị với
thành thị, giữa các tầng lớp xã hội.
Đường lối đúng đắn đó tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định tại Đại hội lần thứ IX: "…phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;
tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ và cải thiện môi trường"
2

Đến Đại hội lần thứ X, vấn đề trên được Đảng ta bổ sung và phát triển
một bước quan trọng, cụ thể là: "Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu
xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện
tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa
vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát

triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc"
3

Tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước trong 5 năm 2006 - 2010 là: "Phải gắn tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến
bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích
làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng
cách phát triển giữa các vùng"
4
.
Tựu trung lại, có thể khái quát quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề
này trên một số điểm cơ bản sau:
2
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.88 - 89.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.101.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.178 -179.
23
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực
hiện công bằng xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ không
phải là nguyên nhân kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế vừa là
mục tiêu, vừa là phương tiện để giải quyết vấn đề xã hội. Không thể có công
bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế kém phát triển, cũng không thể có một
nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong một xã hội mà con

người ốm yếu về thể chất, trình độ dân trí thấp và một bộ phận đáng kể lực
lượng lao động chưa được đào tạo, thất nghiệp, nghèo đói. Ngay cả trong điều
kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất giữa
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội cũng luôn là một đòi hỏi khách
quan, tất yếu.
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, lực lượng sản xuất thấp
kém, không đồng đều, cơ cấu dân số đông, việc giải quyết các vấn đề xã hội,
thực hiện công bằng xã hội ở nước ta phải tính đến mục tiêu phát triển kinh tế.
Để công bằng xã hội có nội dung thực chất và tạo động lực phát triển kinh tế,
cần dứt khoát từ bỏ phương thức phân phối bình quân, cào bằng, bao cấp;
khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước; xoá bỏ lối quản lý xin - cho
Chẳng hạn, trong chiến lược xóa đói giảm nghèo ở nước ta, một mặt, cần tăng
cường sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức xã hội trong các chương trình
xóa đói giảm nghèo; mặt khác, cần tăng cường các hoạt động giám sát, định
hướng, tổ chức giúp người dân thoát nghèo một cách vững chắc theo kiểu
"dạy người dân cách tự câu lấy cá cho mình".
Thứ hai, để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền
lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ.
24
C.Mác đã chỉ rõ, công bằng là sự thể hiện yêu cầu bình đẳng trong
quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Điều này
có nghĩa là những người khác nhau nhưng cống hiến ngang nhau thì hưởng
thụ như nhau. Nói cách khác, xã hội đối xử ngang nhau với những người có
đóng góp như nhau. Mức độ hưởng thụ của cải xã hội được xác định dựa trên
những cống hiến của họ đối với xã hội. Công bằng xã hội cần được hiểu như
vậy để tránh lặp lại lối phân phối bình quân chủ nghĩa mà thực chất là cào
bằng, không công bằng đã xuất hiện ở nước ta thời kỳ trước đổi mới. Cách
nhìn nhận và giải quyết vấn đề công bằng xã hội như vậy nhằm khuyến khích
mọi người đóng góp nhiều hơn cho xã hội, tức là tạo nên động lực thúc đẩy sự

phát triển xã hội.
Với quan điểm chung đó, việc phân phối trong lĩnh vực kinh tế chủ yếu
dựa vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; đồng thời, theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác. Mặt khác, những đóng góp khác không phải trong
hoạt động kinh tế, như những cống hiến trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế,
giáo dục, cũng cần và phải tính đến nhằm bảo đảm cho người lao động được
hưởng lợi ích tương xứng, Nhiều người đã đóng góp sức lực, trí tuệ và hy sinh
xương máu trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong khi thi hành
nhiệm vụ xã hội cũng phải được xã hội bù đắp một cách thoả đáng. Giải quyết
vấn đề này không chỉ dừng ở mức độ đạo lý, mà nó phải mang tính pháp lý,
được xã hội thừa nhận.
Ngoài ra, Đảng ta cũng chủ trương rằng, để có công bằng xã hội, cần
thiết lập và bảo đảm sự công bằng trong việc tiếp cận các nguồn lực xã hội,
như nguồn vốn, tài nguyên, thông tin, kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, chăm sóc y
tế cũng như các cơ hội tìm kiếm thị trường và việc làm
Thứ ba, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên
phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển.
25

×