Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN RÈN KỸ NĂNG GIAO TIẾP THÔNG QUA MÔN TLV LỚP 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.53 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU 1
I.Lí do chọn đề tài.
1
II.Mục đích và phương pháp nghiên cứu 1
III Giới hạn của đế tái .
1
IV. Kế hoạch thực hiện
1
PHẦN NỘI DUNG 1
I.Cơ sở lí luận. 1
II.Cơ sở thực tiễn
2
2.1.Thuận lợi. 2
2.2.Khó khăn.
2
III.Các biện pháp để rèn kĩ năng nói- viết 2
3.1.Trang bị kiến thức cho học sinh. 3
3.2.Tìm hiểu nội dung đề bài.
3
3.3.Hướng dẫn tìm ý.
4
3.4.Hướng dẫn diễn đạt.
5
IV.Hiệu quả áp dụng
5
PHẦN KẾT LUẬN 6

7


I.Ý nghĩa của đề tài.
7
II.Khả năng ứng dụng
8
III.Những kiến nghị đề xuất.
8
IV.Đề xuất kiến nghị 8
V . Tài liệu tham khảo 9
PHẦN MỞ ĐẦU
I .Lí do chọn đề tài
Môn Tiếng Việt cùng các môn học khác có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh bốn
kỹ năng: “ nghe – nói – đọc – viết ”. Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn
luyện tổng hợp bốn kỹ năng đó, có tính chất tích hợp các phân môn khác trong môn
Tiếng Việt .
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy Tập làm văn là phân môn khó trong các
phân môn của môn Tiếng Việt. Do vốn từ còn hạn chế nên học sinh còn ngại nói vì
vậy tiết học chưa hiệu quả cao.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi tiến hành nghiên cứu và thực hiện đề tài: “ Rèn kỹ
năng nói – viết qua phân môn Tập làm văn lớp 3 .
II . Mục đích và phương pháp nghiên cứu .
Tôi chọn đề tài này nhằm trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong công
tác chuyên môn. Giúp giáo viên từng bước nâng cao hiệu quả trong giảng dạy phân
2
môn Tập làm văn, rèn cho hs kĩ năng nói – viết đoạn văn giàu hình ảnh. Từ đó góp
phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt.
Việc nghiên cứu để xây dựng đề tài sáng kiến kinh nghiệm này đã tiến hành trong
thời gian dài, được bản thân rút kinh nghiệm qua quá trình giảng dạy các môn học,
đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Những kinh nghiệm tích luỹ được trong giảng
dạy trong đó có sự tiến bộ của học sinh ở phân môn Tập làm văn. Những kết quả
giảng dạy được bản thân thường xuyên cập nhật để so sánh, rút kinh nghiệm vào

từng thời điểm trong năm học và so sánh kết quả với những năm học trước. Từ đó
đề ra những biện pháp để giảng dạy đạt kết quả cao .
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận:
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “ giúp học sinh hình thành những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở ”.
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn
Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng
hợp từ nhiều phân môn trong môn Tiếng Việt. Để làm được một bài văn không
những học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe – nói – đọc – viết mà còn phải
vận dụng các kỹ năng về Tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn.
Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh tạo lập văn bản, góp phần dạy học
sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy Tập làm văn là phân môn
có tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác.
II.Cơ sở thực tiễn
Trong quá trình dạy một tiết Tập làm văn, để đạt mục tiêu đề ra ngoài
phương pháp của thầy, học sinh cần phải có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống
thực tế. Học tốt Tập làm văn sẽ giúp học sinh học tốt các môn học khác đồng thời
3
giáo dục các em những tình cảm lành mạnh, trong sáng; rèn luỵên khả năng giao
tiếp và góp phần đắc lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt,
hình thành nhân cách con người Việt Nam.
III. Thực trạng và những mâu thuẫn
1.Thuận lợi:
Ở lứa tuổi học sinh lớp ba, các em rất ham tìm tòi học hỏi.
Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn
nói riêng rất phong phú; kênh hình Sách giáo khoa được trình bày đẹp, phù hợp tâm
sinh lí lứa tuổi các em.
Học sinh đã nắm vững kiến thức, kĩ năng tạo lập văn bản, kể chuyện, miêu tả

từ các lớp dưới. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn lớp ba.
2.Khó khăn:
Tập làm văn là phân môn khó so với các phân môn khác của môn Tiếng Việt,
vì vậy việc dạy – học ở phân môn này có những hạn chế nhất định.
Trong việc rèn kĩ năng nói – viết cho học sinh, giáo viên có đầu tư nghiên
cứu mục tiêu các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học sao cho phù hợp từng đối tượng học sinh.
Học sinh chưa biết viết đoạn văn có ý tưởng phong phú, sáng tạo mà chỉ biết
trả lời theo câu hỏi gợi ý. Đấy là vấn đề nan giải đòi hỏi giáo viên phải có biện
pháp thích hợp để từng bước giảng dạy đạt kết quả.
III. Các biện phápgiải quyết vấn đề .
1. Trang bị kiến thức cho học sinh
2. Với thể loại nói – viết trong phân môn Tập làm văn lớp 3, học sinh được rèn
luyện kĩ năng nói dựa trên những gợi ý ở sách giáo khoa và viết một đoạn văn
ngắn khoảng 5 đến 6 câu với các chủ đề: nói về quê hương, gia đình, người
lao động, lễ hội, bảo vệ môi trường…
4
Từ đó bài văn nói – viết nghèo nàn về ý, gò ép, thiếu sự hồn nhiên. Ví dụ “Kể lại
việc em đã làm để bảo vệ môi trường”, các em chỉ kể “ trên đường đi học, em thấy
một cây xanh còn non bị ngã, em đỡ cho cây đứng dậy. Trưa tan học về thấy cây
xanh tốt, em rất vui mừng vì đã bảo vệ môi trường”. Bên cạnh đó, đôi lúc các em
còn trình bày lệch lạc, thiếu chính xác do ít kiến thức về vốn sống.
Việc sử dụng và mở rộng vốn từ còn nhiều hạn chế, các em chưa chú ý cách
sử dụng từ hoặc trau chuốt thế nào cho từ đó hay hơn trong câu văn. Có một số từ
do được nghe và nói trong sinh hoạt hằng ngày thành quen thuộc, các em vẫn vô tư
sử dụng trong bài văn của mình.
Như vậy, để khắc phục những hạn chế trên, giáo viên cần hiểu rõ tính tích
hợp kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt để từ đó giúp các em trang bị vốn kiến
thức cơ bản cần thiết cho mỗi tiết học. Khi dạy các phân môn: Tập đọc, Chính tả,
Tập viết Luyện từ và câu có nội dung phù hợp tiết Tập làm văn sắp học; giáo viên

cần dặn dò hướng dẫn học sinh quan sát tìm hiểu kĩ đối tượng cần nói đến và ghi
chép cụ thể hình ảnh, hoạt động ấy vào sổ tay; với những sự việc hoặc hoạt động
các em không được chứng kiến hoặc tham gia, giáo viên khuyến khích các em quan
sát qua tranh ảnh, sách báo, trên tivi,…hoặc hỏi những người thân hay trao đổi với
bạn bè. Khi được trang bị những kiến thức cơ bản như thế, học sinh sẽ có những ý
tưởng độc lập từ đó các em có thể trình bày được bài văn chân thực, sinh động và
sáng tạo.
2. Tìm hiểu nội dung đề bài:
2.1 Xác định rõ yêu cầu các bài tập:
Ở mỗi đề tài của loại bài Tập làm văn nói – viết, giáo viên cần cho học sinh
tự xác định rõ yêu cầu các bài tập. Giúp học sinh tự xác định đúng yêu cầu bài tập
để khi thực hành các em sẽ không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề tài cần
luyện tập.
2.2 Nắm vững hệ thống câu hỏi gợi ý:
5
Sách giáo khoa lớp 3, bài Tập làm văn nói – viết thường có câu hỏi gợi ý, các
câu hỏi này sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập làm văn; học sinh dựa
vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn ngắn. Giáo viên cần cho học
sinh đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm vững nội dung từng câu; từ đó
giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng, mạch lạc đủ ý, đúng từ, đúng ngữ pháp.
Giúp học sinh nắm vững nội dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chế được việc trình
bày ý trùng lặp, chồng chéo, không có sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn
văn.
2.3 Tìm hiểu các câu gợi ý:
Trước khi học sinh thực hành bài tập luyện nói, giáo viên cần giúp các em
hiểu nghĩa của các từ ngữ có trong câu hỏi để học sinh hiểu và trình bày đúng yêu
cầu, các từ ngữ này có thể là các từ khó hoặc từ địa phương. Nếu là từ địa phương,
giáo viên có thể cho học sinh sử dụng từ địa phương mình để học sinh làm bài dễ
dàng hơn.
2.4 Chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ:

Trong các câu gợi ý có một số câu dài hoặc ngắn gọn khiến học sinh lúng
túng khi diễn đạt ý, do đó ý không trọn vẹn, bài văn thiếu sinh động sáng tạo. Giáo
viên cần chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ để giúp các em có những ý tưởng phong
phú, hồn nhiên. Việc chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ sẽ có nhiều học sinh được rèn
kĩ năng nói, giúp các em thêm tự tin và giáo viên dễ dàng sửa chữa sai sót cho học
sinh.
Như vậy qua hệ thống câu hỏi, giúp học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm, ý
kiến nhận xét đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với quá
trình đó giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học
sinh rút ra được những câu trả lời đúng cách ứng xử hay.Từ đó giúp học sinh mở
rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh có cảm xúc. Trên
cơ sở đó bài luyện nói của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc đồng thời
hình thành cho các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống.
6
3. Hướng dẫn tìm ý:
Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi nên đa số bài văn của học sinh lớp 3 có ý tưởng
chưa phong phú, sáng tạo, các em thường trình bày hạn hẹp trong khuôn khổ nhất
định. Giáo viên cần giúp các em tìm ý để thực hành một bài văn nói – viết hoàn
chỉnh về nội dung với những ý tuởng trong sáng giàu hình ảnh và ngây thơ chân
thật. Để thực hiện được điều đó, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh một cách chặt chẽ
từ sự liên tưởng về các sự vật, các hoạt động. Từ đó học sinh dễ dàng tìm ý và diễn
đạt bài văn rõ ràng, mạch lạc hơn. Trong một tiết Tập làm văn với một đề tài nào
đó, học sinh có thể quên một số hình ảnh, sự việc…mà các em đã quan sát hoặc tìm
hiểu qua thực tế. Giáo viên khơi gợi cho học sinh nhớ lại bằng những câu hỏi nhỏ
có liên quan đến yêu cầu bài tập, phù hợp thực tế và trình độ học sinh để các em dễ
dàng diễn đạt. Nếu trong một bài Tập làm văn, học sinh chỉ biết diễn đạt nội dung
bằng những gì đã quan sát; hoặc thực hành một cách chính xác theo các gợi ý; bài
làm như thế tuy đủ ý nhưng không có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe.
Vì vậy, với từng đề bài giáo viên nên có những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học
sinh liên tưởng, tưởng tượng thêm những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và

hợp lí qua việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó học sinh biết
trình bày bài văn giàu hình ảnh, sinh động, sáng tạo.
4. Hướng dẫn diễn đạt:
Như đã nói, do tâm lí lứa tuổi nên bài văn thực hành của học sinh lớp Ba
tuy có ý tưởng, nhưng vẫn còn nhiều sai sót về diễn đạt như: dùng từ chưa chính
xác, ý trùng lắp, các ý trong đoạn văn chưa liên kết nhau nên trình bày chưa rõ ràng
mạch lạc. Vì vậy, khi học sinh trình bày, giáo viên phải hết sức chú ý lắng nghe,
ghi nhận những ý tưởng hay, ý có sáng tạo của học sinh để khen ngợi; đồng thời
phát hiện những sai sót để sửa chữa. Giáo viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ
thể để học sinh làm cơ sở lắng nghe bạn trình bày; phát hiện những từ, ý, câu hay
của bạn để học hỏi và những hạn chế của bạn để góp ý, sửa sai.
4.1 Hướng dẫn sửa chữa từ:
7
Trường hợp học sinh dùng từ chưa chính xác như các từ ngữ chưa phù hợp,
nghĩa từ chưa hay hoặc từ thông dụng địa phương…ví dụ: ‘thầy em rất chăm chỉ
trong giảng dạy ”, “ cô em thường bận đồ xanh ”… khi học sinh phát hiện sai sót
đó, giáo viên giúp các em sửa chữa thay đổi từ phù hợp. Đối với từ học sinh dùng
trùng lặp nhiều lần trong một câu, ví dụ: “Bác ba là người hàng xóm của em, bác ba
rất tốt với em, bác ba luôn giúp em học bài…”, giáo viên hướng dẫn học sinh lượt
bớt từ hoặc dùng từ phù hợp để thay thế. Trong trình bày bài văn, học sinh vẫn
thường dùng từ ngôn ngữ nói, giáo viên nên hướng dẫn học sinh thay thế bằng từ
ngôn ngữ viết trong sáng hơn.
4.2 Hướng dẫn sửa chữa đặt câu:
Học sinh nói viết câu chưa hay chưa đủ ý, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
sửa chữa bổ sung ý vào cho đúng; câu dài dòng ý chưa rõ ràng mạch lạc cần cho
học sinh sửa sai lượt bỏ ý dư ý trùng lắp. Giáo viên khuyến khích học sinh tự sửa
câu văn chưa hay của mình bằng những câu văn hay của bạn.
4.3 Hướng dẫn sửa chữa đoạn văn:
Với mỗi chủ đề của bài Tập làm văn nếu học sinh trình bày đủ nội dung theo
gợi ý đã cho thì bài văn của các em xem như hoàn chỉnh. Nhưng để có một đoạn

văn mạch lạc rõ ràng, ý tưởng liên kết chặt chẽ nhau thu hút được người đọc; giáo
viên cần giúp các em biết viết đoạn văn có mở và kết đoạn, biết dùng từ liên kết
câu, dùng câu liên kết đoạn một cách hợp lí và sáng tạo. Ví dụ với gợi ý kể về trận
thi đấu thể thao, từng gợi ý phần mở đoạn có rời rạc, giáo viên có thể hướng dẫn
học sinh liên kết các ý với nhau, khi kể không theo trình tự từng ý nhưng vẫn đảm
bảo nội dung và làm cho phần mở đoạn sinh động lôi cuốn người đọc hơn. Hoặc
hướng dẫn học sinh dùng những câu mở đầu đoạn văn để nói hoặc kể một cách
sáng tạo.
Khi kể về một việc làm một hoạt động nào đó, giáo viên cần khuyến khích
học sinh sử dụng những từ liên kết câu thể hiện trình tự diễn biến của sự việc như:
“đầu tiên”; “kế tiếp”; “sau đó”; “cuối cùng”… để đoạn văn gắn kết chặt chẽ liên tục
8
từng ý với nhau. Do đặt điểm lứa tuổi và trình độ từng đối tượng học sinh không
đồng đều nhau nên các em chưa hiểu nhiều về từ, câu liên kết trong đoạn văn viết;

vậy giáo viên cần hướng dẫn bằng những gợi ý giản đơn dễ hiểu, có thể cho học
sinh khá giỏi làm mẫu để giúp các em trình bày tốt hơn đoạn văn viết của mình.
Trong việc hướng dẫn học sinh sửa chữa bài viết, giáo viên cần đưa ra tiêu chí đánh
giá cụ thể giúp học sinh phát hiện những đoạn văn hay.
IV. Hiệu quả áp dụng .
Qua quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, việc dạy học phân môn Tập làm
văn ở lớp tôi đang chủ nhiệm đạt được kết quả khả quan:
Học sinh mạnh dạn tự tin hơn trong học tập, vốn từ của học sinh phong phú
hơn, câu văn rõ ràng mạch lạc và giàu hình ảnh.
Qua áp dụng trong giảng dạy học sinh nói lưu loát hơn truyền cảm hơn, trình
bày hợp lí . Học sinh có tính năng động sáng tạo , từ đó tiết dạy có hiệu quả hơn.
PHẦN KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác
Đề tài là cơ sở để giáo viên nghiên cứu và thực hiện trong giảng dạy phân
môn Tập làm văn. Giúp giáo viên từng lúc san bằng trình độ học sinh trong lớp

học; giúp học sinh tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để các em hoàn thành
nhiệm vụ học tập và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn.
II. Khả năng ứng dụng .
Đề tài đang trong quá trình nghiên cứu và thực hiện bước đầu có hiệu quả
khả quan. Vì vậy đề tài có khả năng ứng dụng và triển khai cho tất cả giáo viên
trong đơn vị cùng thực hiện và từng bước bổ sung để việc dạy học phân môn Tập
làm văn lớp Ba đạt hiệu quả cao.
III . Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển .
Từ kết quả trên , bản thân rút ra được những bài học kinh nghiệm :
9
Dạy học tập làm văn theo phương pháp dạy học tích hợp các phân môn trong
môn Tiếng Việt . Trong giảng dạy giáo viên cần có đầu tư nghiên cứu sâu , phối
hợp tổ chức linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học theo hướng đổi mới .
Giáo viên có ý thức tự rèn , tham khảo tài liệu , tạp chí văn hóa có liên quan
đến chuyên môn .
Động viên ,khuyến khích học sinh tự học ,tự tìm tòi .Hứơng dẫn học sinh ghi
chép vào sổ tay , giấy nháp khi giáo viên sửa chữa sai sót .
Từ thực tế trên trong quá trình nghiên cứu và thực hiện bước đầu có hiệu quả
khả quan . Tôi thấy dề tài này có khả năng ứng dụng và phát triển cho tất cả giáo
viên trong đơn vị cùng thực hiện và từng bước bổ sung cho vệc dạy học phân môn
tập làm văn nói – viết ở lớp ba đạt hiệu quả cao .
IV. Những kiến nghị, đề xuất:
Phòng Giáo Dục & Đào Tạo, cụm chuyên môn thường xuyên tổ chức các
chuyên đề Tập làm văn theo từng chủ đề cho giáo viên học hỏi, trao đổi kinh
nghiệm lẫn nhau.
Hội đồng xét duyệt của trường
Xếp loại :
CTHĐ
An Thạnh, ngày 19 tháng 4 năm 2012
Người viết



10

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy tập làm văn lớp ba – Nhà xuất bản giáo dục
N guyễn Minh Thuyết
2. Phươngpháp dạy học Tiếng Việt 1, 2 – Nhà xuất bản ĐH sư phạm
PG S T S Lê phương Nga
3. Văn học thiếu nhi Việt Nam - Nhà xuất bản Đà Nẵng
Lê Thị Hoài Nam
4. Phong cách học Tiếng Việt - Nhà xuất bản Giáo Dục
Hoàng Tất Thắng
5.Cơ sở văn hóa Việt Nam - Nhà xuất bản Huế
Nguyễn Sang- Phan Đăng
6 . Tiếng Việt thực hành A - Nhà xuất bản Huế
Nguyễn Quang Ninh
11
12
13

×