Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

So sánh chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý - tư biện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.33 KB, 18 trang )

Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
PHẦN I. LỜI MỜ ĐẦU 2
PHẦN II. NỘI DUNG 3
I. Hoàn cảnh lịch sử và sự ra đời chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm và chủ nghĩa
duy lý - tư
biện………………………………………………………………… 3
1. Hoàn cảnh lịch sử Phương Tây thời Phục Hưng – cận đại……………………3
2. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý - tư
biện…………………………………………………………………………….5
II. Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý - tư biện……… 6
1. Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh……………………………………… 6
2. Chủ nghĩa duy lý – tư biện…………………………………………………… 9
III.So sánh chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý - tư
biện…………………………………………………………………………… 13
1. Sự tương đồng 13
2. Sự khác biệt 14
PHẦN 3. KẾT LUẬN 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………….18
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 1
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Nền triết học phương Tây ra đời vào giai đoạn 600 – 430 trước Công nguyên
và trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm cùng với lịch sử của nhân loại. Tuy nhiên đến
thời Phục hưng cận đại, triết học đã bước sang một giai đoạn mới. Sự ảnh hưởng
không nhỏ của dòng tư tưởng triết học duy vật kinh nghiệm của Ph.Bêcơn và duy lý
tư biện của R.Đêcáctơ là một thành tựu tư tưởng lớn không chỉ của nước Anh và
nước Pháp thế kỷ XVI - XVII mà còn của cả nhân loại, trở thành một phong cách,
một lối sống đặc trưng cho xã hội Tây phương .
Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội
phong kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV - XVI). Tính chất quá độ đó biểu hiện


trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá tư tưởng thời kì
này. Đặc điểm của phong trào đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đấu tranh tư tưởng lúc
bấy giờ, bao gồm cả sự phát triển của triết học.
Trong suốt dòng lịch sử triết học nhân loại, nhất là nền triết học phương Tây,
người ta khó tìm thấy được nơi bất cứ một triết gia nào khác đã có được một câu nói
có thể đi sâu vào ý thức của tầng lớp đại chúng, dù thuộc về triết học hay không,
như câu nói “Tri thức là sức mạnh” của nhà triết gia Ph.Bêcơn hay “Tôi tư duy nên
tôi tồn tại” của triết gia R.Đêcáctơ. Những nguyên lý triết học này ảnh hưởng đến
mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong lối tư duy lý tính, khoa học của
người phương Tây, thậm chí trở thành một phong cách sống của con người hiện đại.
Chính vì thế mà tôi đã chọn đề tài “ So sánh chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và
chủ nghĩa duy lý - tư biện”.
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 2
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh lịch sử và sự ra đời chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm và chủ nghĩa
duy lý - tư biện
1. Hoàn cảnh lịch sử Phương Tây thời Phục Hưng – cận đại
Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội
phong kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV - XVI). Tính chất quá độ đó biểu hiện
trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá tư tưởng thời kì
này.
Về kinh tế: Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản
xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ đã bước vào thời kì tan rã. Nhiều công
trường thủ công xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước
khác. Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển của khoa học,
kĩ thuật. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện, giúp cho con người tiết
kiệm thời gian và tăng năng suất lao động.
Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã
hội Tây Âu thời kì này, sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất

hiện gồm các chủ xưởng công trường thủ công, xưởng thợ, thuyền buôn Vai trò và
vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn
di cư ra thành thị, hình thành giai cấp công nhân. Các tầng lớp xã hội trên đại diện
cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến
đang suy tàn.
Về văn hoá, tư tưởng: Cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội, khoa học kĩ
thuật, tư tưởng thời kì Phục hưng cũng đạt được sự phát triển mạnh mẽ. Các nhà tư
tưởng thời Phục hưng đã phê phán mạnh mẽ các giáo lý Trung cổ. Mở đầu là nhà
triết học người Đức, Nicôlai Kuzan (1401-1464). Tiếp đó là các nhà khoa học - triết
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 3
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
học như Nicôlai Côpecnich (1475-1543) người Ba Lan; Lêôna đơ Vanhxi (1452-
1519) - nhà danh hoạ, nhà toán học, cơ học, kĩ sư người Italia; Galilêô Galilê (1564-
1642) người Italia. Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên có ảnh hưởng to lớn
đến nhận thức duy vật về thế giới, nổi trội hơn cả là thuyết nhật tâm của Nicôlai
Côpecnich (1475-1543), nhà bác học vĩ đại người Ba Lan. Nicôlai Côpecnich đã
đứng trên lập trường của triết học duy vật để bác bỏ thuyết địa tâm do Ptôlêmê
(người Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ thứ II, một giả thuyết sai lầm coi quả đất là trung
tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich đã giáng một
đòn nặng nề vào thế giới quan tôn giáo, thần học. Giả thuyết của ông là một cuộc
cách mạng trên trời, báo trước một cuộc cách mạng trong lĩnh vực các quan hệ xã
hội sắp xảy ra.
Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa tư bản, của khoa học và tư
tưởng, trong đó có chủ nghĩa duy vật triết học, nhưng với những đặc điểm mới
Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước Tây
Âu là thời kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị trước giai cấp
phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành công: Cách mạng tư
sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI , Cách mạng tư sản Anh (1642-1648), Cách mạng tư
sản Pháp (1789-1794). Đây cũng là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị Tây Âu. Đặc điểm của
khoa học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực nghiệm. Đặc trưng ấy tất
yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng tách rời,
cô lập, không vận động, không phát triển, nếu có nói đến vận động thì chủ yếu là
vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho triết học duy vật
thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu hình.
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 4
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
2. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý - tư
biện
Đến thế kỷ XVI, các giáo lý tôn giáo ngày càng ít có ảnh hưởng đến cuộc
sống thường ngày và đời sống kinh tế xã hội. Một cuộc cách mạng lớn trong đời
sống tinh thần, trong tiến trình phát triển tư tưởng nhân loại đã diễn ra.
Phản ánh cuộc cách mạng ấy về tinh thần là phong trào mà người ta gọi là
cuộc Phục hưng. Tư tưởng bị lung lay mạnh, con người bừng tỉnh giấc mơ phong
kiến và hoảng hốt đi tìm những chân lý mới. Khoa học rời bỏ giáo đường để tìm vào
những tư gia. Các nhà thông thái đầu tiên, những ông thầy thuốc có học đã nhận
thấy không thể đem linh hồn để giảng nghĩa cho vật chất, rằng thế giới vật chất có
những quy luật riêng của nó. Không cần đến tam đoạn luận, không dùng đến Kinh
thánh, người ta mò mẫm tìm kiếm những điều bí ẩn trong tự nhiên. Từ Car-dan,
Ferrari, Neper . số học tiến hoá nhanh chóng lạ thường. Với những phát minh khoa
học mới, nhiều quan niệm trước đây bị lật nhào, chẳng hạn như quan niệm về trái
đất và bầu trời trong Kinh thánh, về cơ thể động vật, cách tổ chức của thực vật trong
sinh học.
Chính sự phát triển của khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã trở thành chỗ dựa vững
chắc cho giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống thần học và chủ nghĩa duy tâm.
Tiền đề lý luận và khoa học tự nhiên cho sự hình thành quan điểm của triết học
Ph.Bêcơn về tri thức khoa học là: Thứ nhất, truyền thống khoa học và chủ nghĩa duy
vật Anh với những tên tuổi lớn như R.Bêcơn (1214-1294); W.Ốcccam (1300 -
1349); T.More (1478 - 1535). Thứ hai, văn hoá nhân văn Phục hưng và xu hướng

cải cách từ chính trị đến tôn giáo. Thứ ba, các phát minh khoa học thời đại Phục
hưng gắn liền với tên tuổi của Nicôlai Côpécnic, Galilêô Galilê, Giôhen Képlơ…,
báo trước một cuộc cách mạng trong các quan hệ xã hội, phá vỡ những chuẩn mực
của phong cách tư duy kinh viện, mở đường cho phong cách tư duy sáng tạo để làm
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 5
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nên thời đại của những khám phá, phát minh mà Bêcơn là một trong những người
mở đường về mặt lý luận.
II. Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý - tư biện
1. Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh
Phranxi Bêcơn (1561 – 1626) là nhà triết học duy vật Anh, người sáng lập
chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và đồng thời là người tiên phong mở đường cho
khoa học thực nghiệm tự nhiên hiện đại. Các Mác gọi ông là bố đẻ chính thống của
chủ nghĩa duy vật Anh và của toàn bộ khoa học thực nghiệm hiện đại. Ph.Bêcơn
thực sự để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử triết học nói riêng và lịch sử tư tưởng nói
chung với phong cách tư duy mới, thể hiện bước phát triển tất yếu của tư duy con
người trước những biến đổi lớn lao của thực tiễn.
Các công trình nghiên cứu của ông được phân thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất
bàn về sự phát triển của khoa học và nhận thức khoa học, bao gồm các tác phẩm gắn
liền với dự án “Đại phục hồi khoa học”, một dự án đồ sộ nhưng còn dang dở, chỉ có
phần hai của dự án là tương đối hoàn chỉnh - đó là phương pháp nhận thức mới được
Bêcơn xác lập trong “Công cụ mới”. Nhóm thứ hai tập hợp các tác phẩm về những
vấn đề xã hội, hoặc mang tính tổng thể, như “New Atlantis”, “Tiểu luận đạo đức, kinh
tế và chính trị”, “Lịch sử Henrich VII”, “Các nguyên lý và cơ sở”, v.v
1.1. Quan niệm của Ph.Bêcơn về bản chất, nhiệm vụ của khoa học và triết
học
Sống trong thời kỳ đêm trước của cuộc cách mạng tư sản Anh, Ph.Bêcơn đã
nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học và triết học và sự cần thiết phải
đẩy mạnh sự phát triển của chúng như một nền tảng lý luận của công cuộc phát triển
kinh tế của đất nước. Khác với những nhà nhân đạo cộng sản không tưởng,

Ph.Bêcơn khẳng định phải cải tạo chính xã hội hiện thực đương thời trên cơ sở phát
triển khoa học và triết học chứ không phải bằng cách tạo ra mô hình lý tưởng. Ông
cho rằng, mục đích của xã hội là nhận thức các nguyên nhân và mọi sức mạnh bí ẩn
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 6
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
của các sự vật và mở rộng sự thống trị của con người đối với giới tự nhiên trong
chừng mực con người có thể làm được.
Học thuyết về tự nhiên trong triết học được Ph.Bêcơn gần như đồng nhất với
khoa học tự nhiên, còn học thuyết về con người thì được coi là nhân bản học. Theo
Ph.Bêcơn, khác với bộ môn lịch sử và các dạng nhận thức nghệ thuật chỉ đơn thuần
dựa vào khả năng trí nhớ hay biểu tượng của con người, triết học và khoa học mang
tính lý luận và khái quát cao. Tư duy triết học là tư duy lý tính, mang tính trí tuệ cao
nhất. Theo nghĩa rộng, triết học hầu như đồng nhất với tất cả các khoa học, bao chứa
mọi khoa học khác. Theo nghĩa hẹp, triết học là bộ phận cơ bản nhất trong tổng thể
các khoa học.
Ph.Bêcơn cho rằng nhiệm vụ của triết học là đại phục hồi các khoa học, nghĩa
là phải cải tạo toàn bộ các tri thức mà con người đạt được thời đó. Ph.Bêcơn chỉ ra
rằng khoa học mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại chứ không riêng cho ai.
Những quan niệm giản đơn, hẹp hòi, coi khoa học như là một nghề thủ công có lãi
chỉ làm cho khoa học bị què quặt đi mà thôi. Bằng khoa học, con người tiếp cận với
thế giới. Ph.Bêcơn khẳng định "tri thức là sức mạnh". Muốn chinh phục tự nhiên thì
con người cần phải nhận thức các quy luật của nó, vận dụng và tuân thủ theo chúng.
1.2. Quan điểm về thế giới quan
Phát triển các quan niệm duy vật thời cổ đại, Ph.Bêcơn cho rằng để lý giải
được tính muôn màu muôn vẻ của thế giới, chỉ cần mỗi vật chất là đủ. Ph.Bêcơn đã
có bước tiến rất xa so với các nhà triết học trước đó và đương thời khi quan niệm
rằng có sự thống nhất giữa vật chất và vận động, giữa bản chất của sự vật và vận
động của nó. Khẳng định vận động là đặc tính của sự vật, Ph.Bêcơn cho rằng nhận
thức sự vật là nhận thức vận động của chúng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận xét,
Ph.Bêcơn đã hiểu "rằng trong những đặc tính vốn có của vật chất, vận động là đặc

tính thứ nhất và quan trọng nhất, không phải chỉ với tính cách là máy móc và toán
học mà hơn nữa”
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 7
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Ph.Bêcơn đã tìm cách phân loại các dạng vận động và theo ông có 19 dạng
vận động. Về cơ bản Ph.Bêcơn đã phân loại vận động theo cảm tính, mô tả, chưa
phân loại theo cấp độ khác nhau về cấu trúc của vật chất, mà hầu như quy toàn bộ
các dạng vận động thành các hình thức vận động cơ học, không thấy được sự phát
triển của thế giới vật chất đã dẫn đến xuất hiện những hình thức vận động khác nhau
về chất, phù hợp với trình độ cấu trúc của vật chất. Tuy nhiên việc coi đứng yên là
một dạng vận động ở Ph.Bêcơn là một quan niệm duy vật và cách mạng trong bối
cảnh lịch sử hồi đó. Ông cũng là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của
thế giới.
1.3. Nhận thức luận và phương pháp luận
Với hoài bão xây dựng một cách nhìn mới về thế giới thật sự khách quan,
Bêcơn đồng thời chỉ ra những hạn chế trong khả năng nhận thức của con người,
những hạn chế không phải chỉ dẫn đến những sai lầm vụn vặt và nhất thời, mà là
những sai lầm nghiêm trọng không thể tránh khỏi của con người trong nhận thức.
Ông gọi chúng là các “ngẫu tượng” (Idola theo tiếng cổ Hi Lạp nghĩa là hình ảnh bị
xuyên tạc). Để nhận thức chân lí và khắc phục được các ngẫu tượng, thì phải vạch ra
cơ chế và bản chất của chúng. Do vậy, Bêcơn coi học thuyết về các ngẫu tượng tựa
như phần mở đầu trong nhận thức và phương pháp luận của mình.
Việc Ph.Bêcơn đòi hỏi nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan là hợp lý.
Ông nhận xét đúng rằng, con người thường hay chủ quan, duy ý chí trong hoạt động
của mình. Nhưng ông lại sai lầm khi phủ nhận hoàn toàn cái chủ quan trong nhận
thức. Việc đòi hỏi nhận thức phải "khách quan thuần tuý" của ông là một điều không
tưởng, tuy nhiên nó có ý nghĩa tích cực trong việc phê phán các quan niệm thần học
chủ quan kinh viện thời đó, vì sự tiến bộ của khoa học.
Nhìn chung, trong vấn đề phương pháp luận, Ph.Bêcơn là nhà duy cảm (mặc
dù không cực đoan), thiên về sự phát triển khoa học tự nhiên thực nghiệm; là người

có công khởi xướng ra tư tưởng cần thiết phải xây dựng một hệ thống phương pháp
luận mới, phù hợp với sự phát triển của khoa học thời cận đại.
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 8
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
1.4. Nhân bản học và quan niệm về tôn giáo
Ph.Bêcơn coi con người là sản phẩm cuả tạo hoá, do vậy khoa học về con
người cũng là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu quan niệm của Arixtốt về con người,
Ph.Bêcơn chia linh hồn thành các dạng "linh hồn thực vật", "linh hồn động vật",
"linh hồn lý tính". Hai phần đầu thuộc về linh hồn cảm tính, có cả ở thực vật và
động vật. Trong con người, linh hồn cảm tính là một dạng chất lỏng, pha loãng trong
cơ thể. Linh hồn lý tính có nguồn gốc từ Thượng đế. Đó là một khả năng kì diệu mà
chúa đã ban cho con người, mang tính thần thánh. Vì con người có cả hai dạng linh
hồn nên con người vừa rất gần với động vật lại vừa có cái gì đó siêu phàm, và do đó,
bản chất con người không cho phép con người theo lập trường hoàn toàn vô thần.
Con người cần có tôn giáo để vượt qua những lúc con người mềm yếu, bất lực. Tôn
giáo mang lại cho con người niềm tin nhưng nhà thờ không được phép dùng các
biện pháp chống lại các nhà vô thần, không được cản trở các hoạt động khoa học,
nghệ thuật của con người.
2. Chủ nghĩa duy lý – tư biện
Chủ nghĩa duy lý – tư biện mà người bảo vệ xuất chúng nhất là Rơnê
Đêcáctơ (1596-1654) - nhà triết học, nhà bách khoa toàn thư vĩ đại người Pháp. Ông
sinh ra trong một gia đình quý tộc miền Nam nước Pháp. Mồ côi mẹ từ nhỏ, ông
được bố cho học ở một trường phổ thông nổi tiếng ở Liaflet. Bất mãn với chương
trình học thời đó, ông tuyên bố rằng, kết quả duy nhất trong thời gian học phổ thông
là làm cho ông dốt thêm! Ông đặc biệt say mê nghiên cứu về triết học và khoa học
tự nhiên. Ông để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như Các quy tắc chỉ đạo lý tính
(1630), Thế giới (1633), Các nguyên lý của triết học (1644), Suy diễn về phương
pháp (1637-1638).
Trong hệ thống triết học, R.Đêcáctơ chúng ta thấy, khởi điểm của phương
pháp, cũng như của siêu hình học là niềm tin không bờ bến vào giá trị của những

khoa học. Hệ thống triết học ấy được R.Đêcáctơ triển khai theo hai khuynh hướng:
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 9
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
khuynh hướng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Giatô giáo và khuynh hướng chịu ảnh
hưởng của những phát minh khoa học mới.
Có thể chia triết học của ông thành hai bộ phận là siêu hình học và khoa học
(vật lý học). Trong siêu hình học, R.Đêcáctơ là nhà nhị nguyên luận ngã về phía duy
tâm, nhưng trong khoa học ông lại là nhà duy vật siêu hình máy móc nổi tiếng – siêu
hình học. Trong siêu hình học của Đêcáctơ nổi bật bởi những tư tưởng “nghi ngờ
phổ biến”
2.1. Quan niệm của R.Đêcactơ về bản chất và vai trò của triết học
Trong quan niệm của R.Đêcactơ, triết học theo nghĩa rộng là tổng thể tri thức
của con người về nhiều lĩnh vực, theo nghĩa hẹp là siêu hình học, được coi như nền
tảng của hệ thống thế giới quan. R.Đêcactơ cho rằng có sự thống nhất hữu cơ giữa
các khoa học vì đối tượng chung của chúng là Thượng đế, giới hiện thực và con
người như một chỉnh thể thống nhất. Mục đích chung của chúng là khám phá ra
chân lý. Toàn bộ thế giới quan khoa học của con người "tương tự như một cái cây,
mà bộ rễ của nó là siêu hình học, thân cây là vật lý học, còn toàn bộ các khoa học
khác có thể quy thành y học, cơ học và đạo đức học thì như những chiếc cành mọc
ra từ thân cây đó”
Để xây dựng một thứ triết học mới, ông bắt đầu từ việc phê phán mạnh mẽ
các tư tưởng của giáo hội và kinh viện. Gạt bỏ những đạo lý kinh viện của tôn giáo,
R.Đêcactơ đưa lý trí lên hàng đầu trong lý luận nhận thức. R.Đêcactơ cho rằng phải
coi lý tính, trí tuệ con người là toà án thẩm định và đánh giá mọi tri thức, quan niệm
mà nhân loại đã đạt được, nghi ngờ mọi cái mà thường ngày vẫn cho là đúng. Nghi
ngờ là điểm xuất phát của phương pháp khoa học; nghi ngờ là để tìm ra chân lý, đó
chỉ là tiền đề chứ không phải kết luận. Sở dĩ R.Đêcactơ coi nghi ngờ là điểm xuất
phát là vì, theo ông, không thể nghi ngờ được là chính bản thân chủ thể đang nghi
ngờ. Ông viết: Tôi đang hoài nghi sự tồn tại của tất cả, nhưng tôi không thể hoài
nghi sự tồn tại của chính mình, vì tôi đang nghi ngờ. Nếu tôi không tồn tại thì làm

HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 10
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
sao tôi lại có thể đnag nghi ngờ được. Nhưng mặt khác, chính vì tôi đang nghi ngờ
thì tôi mới biết rằng mình đang tồn tại. Bởi vậy, tôi đang tồn tại là nhờ việc tôi đang
nghi ngờ. Mà nghi ngờ thì cũng là suy nghĩ, là tư duy. Do đó, ông đưa ra nguyên lý:
“tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”.
2.2. Quan niệm về thế giới
Trong nghiên cứu về tự nhiên, R.Đêcactơ là một người duy vật, ông cho rằng
tất cả các sự vật trong thế giới, kể cả các hành tinh, đều được cấu trúc từ vật chất.
Tiếp thu những phát kiến của G.Galilê về mặt trăng và một số hành tinh khác, ông
chứng minh mọi hành tinh đều được cấu tạo từ vật chất như trái đất.
Ông chịu ảnh hưởng của các quan niệm cơ học, máy móc về về thế giới, coi
vận động không phải cái gì khác ngoài sự hoạt động, mà qua đó một vật được
chuyển vị trí từ chỗ này sang chỗ khác. Ông quy toàn bộ các dạng vận động thành
vận động cơ học đơn thuần; không coi vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
mà chỉ xem là biểu hiện cá biệt của các sự vật một cách bên ngoài. Giữa vận động
và đứng yên chẳng có mối quan hệ gì với nhau. Ông thừa nhận "cái hích đầu tiên
của Thượng đế".
R.Đêcactơ là người đầu tiên khám phá ra tính chất sóng của ánh sáng, là tác
giả của giả thuyết gió xoáy, một trong những giả thuyết đầu tiên về sự hình thành
của vũ trụ và thế giới của chúng ta. Nhưng khi bàn về bản nguyên của thế giới, về
nguồn gốc của các sự vật, ông lại cho rằng, có hai loại sự vật thuộc hai thực thể khác
nhau: thực thể thứ nhất là thực thể tư duy, bao gồm các ý niệm, tư tưởng, tổng số
các ý thức cá nhân của con người, sự tương đồng giữa chúng. Thực thể thứ hai là
thực thể quảng tính hay vật chất, bao gồm những vật thể mang tính chất không gian
và thời gian, những vật thể mà các giác quan của chúng ta có thể cảm nhận được. Cả
hai thực thể này lại phụ thuộc vào Thượng đế, do Thượng đế sinh ra. Ngoài Thượng
đế duy nhất ra, tất cả các sự vật đều thuộc về một trong hai thực thể trên.
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 11
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

2.3. Lý luận nhận thức và phương pháp luận
R.Đêcactơ cho rằng, bên cạnh việc xây dựng bức tranh khái quát về thế giới,
triết học còn có nhiệm vụ đề ra những nguyên lý cơ bản của phương pháp luận, một
vấn đề vô cùng cần thiết đối với nhận thức. Ông mong muốn xây dựng một lôgic
học "dạy cách vận dụng lý lính một cách tốt nhất, nhằm nhận thức những chân lý mà
ta chưa biết”
R.Đêcactơ đặc biệt đề cao vai trò của lý tính, hướng tới hoàn thiện và phát
triển khả năng trí tuệ của con người. Ông đưa ra một số quy tắc cơ bản của phương
pháp luận.
Trên lập trường duy lý, R.Đêcactơ đặc biệt đề cao vai trò của phương pháp diễn
dịch, mặc dù không hoàn toàn phủ nhận vị trí của phương pháp quy nạp, cũng như
nhận thức cảm tính.
2.4. Quan niệm về con người
Ông khẳng định, con người được cấu thành từ linh hồn và thể xác. Theo quan
điểm nhị nguyên luận, ông hoàn toàn tách biệt thể xác và linh hồn, coi chúng có
nguồn gốc từ hai thực thể tư duy và quảng tính hoàn toàn tách biệt. Ông coi linh hồn
con người là một thực thể mà bản chất của nó là tư duy, tồn tại không cần đến và
không phụ thuộc vào bất kì một sự vật vật chất nào. Linh hồn là bất diệt, nó không
bị phân huỷ khi con người chết. Con người có được là do Thượng đế ghép linh hồn
vào thể xác. Cơ thể con người là chỗ trú chân tạm thời của linh hồn khi anh ta sống.
Như vậy, có thể nói, triết học của R.Đêcáctơ vừa là siêu hình học, vừa là vật
lý học. Những lập luận có tính xác thực và khoa học của ông luôn pha lẫn với sự
diễn dịch trừu tượng. Quan niệm triết học của R.Đêcactơ là hệ thống có nhiều yếu tố
hợp lý nhưng cũng có nhiều mâu thuẫn vì thế đã có người coi hệ thống triết học của
ông là hệ thống đứng giữa ngã ba đường. Điều đó thể hiện sự bế tắc của lập trường
nhị nguyên trong việc giải quyết hàng loạt vấn đề của triết học và khoa học. Nó thể
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 12
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
hiện sự trăn trở của ông khi muốn xây dựng một hệ thống triết học và khoa học thực
sự trong bối cảnh ảnh hưởng của các thế lực tôn giáo trong xã hội còn đang rất

mạnh.
III. So sánh chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý - tư
biện
1. Sự tương đồng
Ph.Bêcơn và R.Đêcáctơ đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng
triết học Tây Âu cận đại. Gạt bỏ những đạo lý kinh viện của tôn giáo, Bêcơn và Đêcáctơ
phê phán gay gắt chủ nghĩa kinh viện vì nó xa rời cuộc sống, chỉ dựa vào những lập
luận tuỳ tiện không có nội dung và chẳng đem lại lợi ích gì cho con người. Hai ông đưa
lý trí, trí tuệ con người lên vị trí hàng đầu trong lý luận về nhận thức, xem đó là chuẩn
mực đánh giá suy nghĩ và hành động của con người, cho rằng nhiệm vụ của thí nghiệm
không phải là phát minh ra các quy luật của tự nhiên mà là khẳng định những tri thức,
những quy luật mà lý trí phát hiện ra.
Ph.Bêcơn và R.Đêcactơ đặc biệt đề cao vai trò của triết học đối với đời sống
của con người. Trình độ phát triển của tư duy triết học là tiêu chuẩn quan trọng nhất
để đánh giá mức độ văn minh của con người và sự ưu việt của dân tộc này so với
dân tộc khác. "Triết học là sự thể hiện cơ bản nhất sự thông thái của con người
không chỉ trong lĩnh vực nhận thức mà cả trong các công việc khác."
Cả Bêcơn và Đêcáctơ đều chú ý đến nghiên cứu phương pháp nhận thức khoa
học để tạo nên khả năng đi sâu vào nghiên cứu những bí mật của giới tự nhiên. Hai
ông tin tưởng rằng, với phương pháp mới có thể đạt được những tri thức có ích cho
cuộc sống. Sau Ph.Bêcơn, R.Đêcáctơ đã tìm cách xây dựng một hệ thống phương
pháp luận mới làm nền tảng cho sự phát triển của khoa học. Đặc biệt đề cao vai trò
của lý tính, phương pháp luận hướng tới hoàn thiện và phát triển khả năng trí tuệ của
con người, thúc đẩy nhận thức khoa học phát triển. R.Đêcáctơ cho rằng một ai đó
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 13
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
"dù đi rất chậm, nhưng nếu anh ta đi đường thẳng, vẫn có thể vượt xa so với những
ai mặc dù chạy nhưng lai không đi theo con đường thẳng ấy". Còn theo Ph.Bêcơn thì
“người què chạy đúng hướng sẽ nhanh hơn kẻ lành chạy sai đường” hoặc “phương pháp
giống như ngọn đèn soi đường cho lữ khách trong đêm đông”.

Trong học thuyết về tự nhiên, Ph.Bêcơn và R.Đêcáctơ là những nhà duy vật, thừa
nhận tính khách quan của thế giới vật chất, coi vật chất là một thực thể duy nhất, là cơ
sở duy nhất của tồn tại và nhận thức. Còn trong khoa học, Ph.Bêcơn và R.Đêcáctơ đều
ủng hộ phương pháp mới, bỏ qua truyền thống.
Triết học của Ph.Bêcơn và R.Đêcáctơ đều không dám công khai xung đột với tôn
giáo. Tuy nhiên, triết học cua3hai ông đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của
khoa học, nó giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của nhà thờ và giáo hội.
2. Sự khác biệt
Ph.Bêcơn thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất khoa học,
không biết cái gì khác ngoài thế giới vật chất, ngoài giới tự nhiên. Ông cho rằng con
người cần phải thống trị làm chủ tự nhiên. Điều đó thực hiện được hay không phụ
thuộc vào hiểu biết của con người. Theo Ph.Bêcơn, nhận thức tốt nhất là đi từ cái
riêng lẻ đến cái chung, cái trừu tượng và triết học phải giúp con người trở nên mạnh
hơn, nhiệm vụ của triết học là nhận thức giới tự nhiên và các mối liên hệ phức tạp của
nó.
Một trong những ảnh hưởng đến quá trình nhận thức chân lý, theo Ph.Bêcơn đó
là những sai lầm vốn có trong tư duy, do sai lầm trong lý tính mang lại. Những sai lầm
do lý tính tạo ra, Ph.Bêcơn gọi là những IDOLA. Ph.Bêcơn đã gom lại các sai lầm
và chia thành bốn ảo ảnh sau: ảo ảnh loài, ảo ảnh hang động, ảo ảnh thị trường và
ảo ảnh sân khấu.
Triết học Ph.Bêcơn là triết học mới với tinh thần là phê phán và khám phá.
Đặc biệt, tuyên bố của ông “Tri thức là sức mạnh” đã trở thành tuyên ngôn của thời
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 14
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
đại. Ph.Bêcơn đã tạo ra một thời đại sôi động và cách mạng trong triết học. Theo
ông, mục đích cao nhất của tri thức khoa học, xét đến cùng, là đem đến cho con
người một phương tiện hiện thực và năng lực biến đổi thế giới. Về thực chất, quan
điểm của Ph.Bêcơn về vai trò của tri thức khoa học là tri thức khoa học phải bám sát
nhu cầu của thực tiễn, gắn liền với khát vọng chiến thắng của lý trí trước cái phi lý
đang tồn tại ở nước Anh khi đó do sự thống trị của tri thức kinh viện Trung cổ.

Về vai trò của phương pháp, Ph.Bêcơn đề xuất phương pháp quy nạp. Theo ông đó
là phương pháp tối ưu để nhận thức, khám phá những bí mật của đối tượng nhận thức. Về
phương pháp luận, theo Bacơn cần phải rà soát những phương pháp trước đây để từ đó kế
thừa và triển khai phương pháp mới. Ông cho rằng từ trước đến nay con người chủ yếu sử
dụng hai phương pháp là phương pháp con nhện và phương pháp con kiến. Cả hai phương
pháp này đều bộc lộ hạn chế, vì vậy ông đề xuất phương pháp con ong. “Con ong chọn
phương thức hành động trung gian, nó khai thác vật liệu từ hoa ngoài vườn và ruộng đồng
nhưng sử dụng và biến đổi nó phù hợp với khả năng và chỉ định của mình. Công việc đích
thực của triết học cũng không khác gì công việc đó”.
Nếu Ph.Bêcơn cho rằng, cơ sở của chân lý là cảm tính, và để nhận thức đúng
đắn cần phải tẩy rửa các ảo tưởng thì R.Đêcáctơ chủ trương rằng cơ sở của chân lý
là lý tính, và để nhận thức đúng cần phải nghi ngờ phổ biến, tức nghi ngờ mang tính
phương pháp luận để không mắc sai lầm và có được niềm tin chắc chắn trong nhận
thức. R.Đêcáctơ cho rằng, để đạt được chân lý chúng ta cần phải nghi ngờ mọi cái,
kể cả cái mà người ta cho là chân lý. Ông nhấn mạnh rằng, dù anh nghi ngờ mọi cái
nhưng không thể nghi ngờ rằng anh nghi ngờ. R.Đêcáctơ nói: ”tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”,
và ông cho đó là nguyên lý cơ bản bất di bất dịch.
Với nguyên tắc nghi ngờ, R.Đêcáctơ đề cao tư duy lý tính và coi thường kinh
nghiệm cảm tính trong hoạt động nhận thức, vì vậy ông đã đặt nền móng cho chủ
nghĩa duy lý thời cận đại. Theo ông, mọi cái tồn tại chỉ có thể trở thành chân lý khi
chúng đuợc đưa ra phán xét dưới “toà án” của lý tính nhằm tự bào chữa cho sự tồn
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 15
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
tại của mình. Nghi ngờ phổ biến, vì vậy là cơ sở phương pháp luận của triết học R.
Đêcáctơ. Tư tưởng “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” bộc lộ chủ nghĩa duy tâm chủ quan
của R.Đêcáctơ vì ông đã lấy tư tưởng, lấy suy nghĩ của chủ thể làm khởi điểm của
sự tồn tạ.
Dựa vào nguyên lý trên, R.Đêcáctơ đã xây dựng toàn bộ hệ thống siêu hình
học của mình. Đối với ông, siêu hình học phải là học thuyết chặt chẽ về Thượng đế,
về giới tự nhiên và con người, để từ đó rút ra các nguyên tắc giúp chỉ đạo hoạt động

của con người - hoạt động nhận thức của linh hồn lý tính. Riêng con người là một
thực thể đặc biệt, là bậc thang trung gian giữa Thượng đế và hư vô. Theo R.Đêcáctơ,
linh hồn con người không chỉ bao gồm lý trí mà còn có cả ý chí nữa. Lý trí mang lại
khả năng nhận thức sáng suốt, đúng đắn. Ý chí mang lại khả năng chọn lựa, phán
quyết.
R.Đêcactơ cho rằng sự tồn tại của con người thông qua tư duy. Từ đó,
R.Đêcactơ đi đến xây dựng toàn bộ thế giới quan của mình, chứng minh sự tồn tại
của các sự vật thông qua ý niệm về chúng trong ý thức của con người. Ví dụ, theo
ông, lửa là vật có thật, nếu không có thật thì tại sao ai cũng có một ý tưởng nhất định
về nó. Tuy nhiên, R.Đêcactơ không coi toàn bộ thế giới chỉ là sản phẩm của tư duy,
không có ý định chứng minh tính ý niệm của toàn bộ thế giới hiện thực, ngược lại
ông vẫn khẳng định sự tồn tại khách quan của chúng.
Theo R.Đêcáctơ, triết học phải bàn về khả năng và phương pháp đạt được tri thức
đúng đắng, vì vậy, nhiệm vụ trước mắt của nó là khắc phục chủ nghĩa hoài nghi, và
sau đó là xây dựng các nguyên tắc, phương pháp nền tảng để giúp cho các nghành
khoa học khám phá ra các qui luật của giới tự nhiên, xây dựng các chân lý khoa học
nhằm chinh phục giới tự nhiên, phục vụ lợi ích con người. Như vậy, R.Đêcáctơ đã
tự đặt cho mình nhiệm vụ là phải xây dựng một triết học mới - triết học gắn liền với
khoa học nhằm làm chủ tư duy, nâng cao trình độ lý luận cho con người.
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 16
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Khi bóng đêm của đêm trường Trung cổ bị những ánh sáng bình minh của nền
văn minh công nghiệp chiếu rọi thì Tây Âu đã có những bước chuyển dữ dội, chuyển
sang thời kỳ phục hưng, thời đại phục sinh những giá trị của nền văn hoá cổ đại Hy La
đã bị lãng quên trong nền chuyên chế phong kiến kéo dài hàng nghìn năm ở Châu Âu.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho giai
cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống thần học và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy
vật kinh nghiệm, mà người đại biểu xuất sắc là Ph.Bêcơn và chủ nghĩa duy lý – tư biện,
mà R.Đêcactơ là linh hồn đã làm cuộc cách mạng trong các quan hệ xã hội, phá vỡ

những chuẩn mực của phong cách tư duy kinh viện, mở đường cho phong cách tư
duy sáng tạo để làm nên thời đại của những khám phá, phát minh.
Sống trong thời kỳ đêm trước của cuộc cách mạng tư sản Anh, Ph.Bêcơn đã
nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học và triết học và sự cần thiết phải
đẩy mạnh sự phát triển của chúng như một nền tảng lý luận của công cuộc phát triển
kinh tế của đất nước. Triết học Ph.Bêcơn là triết học mới với tinh thần là phê phán
và khám phá. Đặc biệt, tuyên bố của ông “Tri thức là sức mạnh” đã trở thành tuyên
ngôn của thời đại, đã tạo ra một thời đại sôi động và cách mạng trong triết học. Nền
kinh tế tri thức ngày nay càng khẳng định cho tư tưởng vĩ đại của ông.
Chủ nghĩa duy lý của triết gia R.Đêcáctơ qua câu nói bất hủ “Tôi tư duy nên
tôi tồn tại” đã giúp cho nền triết học của phương Tây nói riêng mà còn cho cả thế
giới nói chung phát triển một cách mạnh mẻ. Chính vì sự nghi ngờ mà con người
không an phận với những hiện tại trong tự nhiên, chấp nhận những gì thiên nhiên đã
tạo. Con người không chấp nhận mình phụ thuộc vào thiên nhiên và những thế lực
siêu nhiên chi phối. Con người không chỉ tin vào khả năng của mình mà bắt thiên
nhiên phải phục vụ cho mình qua tư duy sáng tạo.
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 17
Tiểu Luận Triết Học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Mưa (Chủ biên); TS. Trần Nguyên Ký; PGS TS. Lê Thanh Sinh;
TS. Nguyễn Ngọc Thu; TS. Bùi Bá Linh; TS. Bùi Xuân Thanh(2010), Triết
học Phần 1 Đại cương về lịch sử triết học (Tài liệu dành cho học viên cao
học, nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học)
2. Tài liệu tham khảo từ internet:
/>phương-tây-thời-cận-đại-và-những-giá-trị-hạn-chế-của-nó#ixzz2EQDpAkEA
/> />vientriet=articles_deltails&id=1110&cat=52&pcat
/>au-thoi-phuc-hung-va-can-dai.html
/>can-dai/6657884.epi
HVTH: TRƯƠNG NGỌC HẢO Trang 18

×