Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Đặc điểm của triết học Phương Tây thời cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.65 KB, 17 trang )

Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Lời mở đầu
Không thể phủ nhận vai trò hết sức quan trọng của triết học đối với sự phát triển
của xã hội hiện nay, triết học đóng vai trò trong quá trình nhận thức cũng như tư duy
của con người. Nó không chỉ đơn thuần là một môn khoa học mà còn là một trong
những ngành phản ánh một cách rõ nét từng giai đoạn phát triển của loài người. Từ
những giai đoạn trong những ngày đầu hình thành nên nền móng của triết học đến
thời kỳ ngày nay. Trong các bài học về các nhà triết học từ rất xa xưa đến những nhà
triết học bây giờ thì Ph. Bêcơn và R. Đềcáctơ – là hai nhà triết học tiêu biểu cho
hai trường phái tư tưởng khác nhau trong triết học phương Tây thời cận đại đã mở
đầu cho sự phát triển khoa học và tạo nền móng vững chắc cho khoa học và xã hội
ngày nay
Do sự hạn chế về kiến thức và thời gian nghiên cứu nên bài tiểu luận này chỉ làm
sáng tỏ 2 mục tiêu chính là : (1) Đặc điểm của triết học Phương Tây thời cận đại,
(2) So sánh về 2 chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý – tư biện.
Em xin gởi lời cám ơn đến TS. Bùi Văn Mưa đã giảng dạy và hướng dẫn tận tình
để em có thể hoàn thành tốt bài tiểu luận này.
Em xin chân thành cám ơn !
TPHCM, ngày 9 tháng 12 năm 2012
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 1
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Phần I: Hoàn cảnh lịch sử và sự hình thành của chủ nghĩa duy vật kinh
nghiệm và chủ nghĩa duy lý – tư biện
1. Hoàn cảnh lịch sử ở Phương Tây thời Phục Hưng – cận đại
Thời đại Phục hưng quay về với nền văn hoá cổ Hi Lạp, công – thương nghiệp
và các thị trưởng TBCN ra đời, phân hoá giai cấp thành tư sản và vô sản được hình
thành. Sự biến đổi điều kiện kinh tế - xã hội đã hồi sinh các ngành khoa học tự nhiên
và triết học – công cụ tinh thần của giai cấp tư sản chống lại các lực lượng chính trị -
xã hội bảo thủ.
Thời cận đại là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở
thành phương thức sản xuất thống trị Tây Âu. Nó tạo đã tạo ra những vận hội mới


cho khoa học, kỹ thuật phát triển mà trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học
đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển. Đây là thời kỳ khoa học tự nhiên bắt đầu phân
ngành mạnh. Đặc điểm của khoa học tự nhiên thời kỳ này là khoa học tự nhiên -
thực nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức
trong sự trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển, nếu có nói
đến vận động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân chủ yếu
làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu hình.
2. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý – tư biện
Triết học thời Phục hưng – cận đại chủ yếu đi tìm phương pháp nhận thức mới để
khắc phục triệt để phương pháp kinh viện giáo điều, nhằm xây dựng một triết học và
một khoa học mới có mối liên hệ mật thiết với nhau, hướng đến tri thức. Tuy nhiên
có sự đối lập giữa lý tính và cảm tính đã nảy sinh ra chủ nghĩa kinh nghiệm – duy
giác và chủ nghĩa duy lý – tư biện.
2.1. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 2
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Đây là thời kì mà khoa học tự nhiên thực nghiệm phát triển mạnh mẽ và đạt nhiều
thành tựu. Chính điều này đã ảnh hưởng đến phương pháp luận của các nhà triết học
duy vật kinh nghiệm. Điều đó được thể hiện rõ nhất ở Ph. Bêcơn khi ông đưa
phương pháp thực nghiệm của khoa học tự nhiên thực nghiệm vào phương phương
pháp luận triết học, hình thành phương pháp qui nạp - thực nghiệm, thể hiện sự cố
gắng gắn kết trình độ của triết học với trình độ khoa học tự nhiên đương thời. Ph.
Bêcơn là người mở đầu cho khuynh hướng duy vật kinh nghiệm trong triết học Tây
Âu thế kỉ XVII.
2.2. Sự ra đời của chủ nghĩa duy lý – tư biện
Thời kì mà toán học phát triển mạnh mẽ và đạt nhiều thành tựu, đã ảnh hưởng
đến phương pháp luận của các nhà triết học duy lý. Điều đó được thể hiện rõ nhất ở
R. Đềcáctơ khi ông đưa phương pháp tiên đề và diễn dịch của toán học vào phương
phương pháp luận triết học. R. Đềcáctơ là cha đẻ của chủ nghĩa duy lý- tư biện cận
đại. Ông khẳng định tri thức bẩm sinh là đúng đắn nhất, có giá trị nhất và phủ nhận

giá trị của các tri thức kinh nghiệm. Đối với ông, trực giác là khả năng nhận thức
cao nhất của con người.
Phần II: Đặc điểm của chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý
– tư biện
1. Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh (Phơrăngxít Bêcơn)
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Những thay đổi mang tính bước ngoặt ở nước Anh cũng như ở châu Âu về kinh
tế, chính trị, xã hội cuối thế kỷ XVI đến trước cách mạng tư sản Anh đã tạo ra xu
hướng cải cách đối với các vấn đề xã hội ở các nhà tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng cải
cách khoa học. Trên lĩnh vực kinh tế, phương thức sản xuất tư bản từng bước trở
thành phương thức sản xuất thống trị.
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 3
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Về chính trị - xã hội, cơ cấu giai cấp có những biến đổi cơ bản. Những biến đổi
trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đã tác động đến đời sống sinh hoạt tinh thần
tại Anh, đặc biệt là sinh hoạt tôn giáo và môi trường sinh hoạt khoa học, văn hóa,
thể hiện bước quá độ từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Xét một cách tổng
thể, mâu thuẫn giữa cải cách và bảo thủ, giữa tiến bộ và phản động, giữa cái mới và
cái cũ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội nước Anh đã tác động đáng kể đến tư
tưởng cải cách khoa học. Và trường phái triết học Anh được Ph.Bêcơn đặt nền
móng, T.Hốpxơ phát triển theo khuynh hướng kinh nghiệm và Gi.lốccơ đẩy mạnh
theo khuynh hướng duy giác.
1.2. Nội dung chính CN duy vật kinh nghiệm Anh
Theo Ph.Bêcơn , triết học mới phải là “khoa học của mọi khoa học”. Mục đích
của triết học và khoa học mới là xây dựng các tri thức lý luận chặt chẽ đầy tính
thuyết phục về mọi lĩnh vực nghiên cứu chứ không phải là củng cố các đức tin mù
quáng. Nhiệm vụ của triết học mới là đại phục hồi cho khoa học hay xây dựng khoa
học mới bằng cách cải tạo toàn bộ tri thức hiện có, xóa bỏ những sai lầm chủ quan,
sử dụng hiệu quả tư duy khoa học để khám phá trật tự của thế giới khách quan, tiến
đến xây dựng một hình ảnh về thế giới trong tư duy giống như nó tồn tại trong hiện

thực. Còn nhiệm vụ của khoa học mới là khám phá ra các quy luật của thế giới, chứ
không phải đi tìm nguyên nhân cuối cùng. Triết học và khoa học mới phải xuất phát
từ tinh thần “tri thức là sức mạnh” và “lý luận thống nhất với thực tiễn”. Nhiệm vụ
tối thượng của chúng là giúp tăng cường quyền lực tinh thần cho con người để con
người thống trị - làm chủ và cải tạo giới tự nhiên, phục vụ lợi ích cho con người. Từ
định hướng này ông đã xây dựng nên một hệ thống triết học thể hiện những quan
điểm
a) Quan niệm về thế giới và con người:
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 4
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
o Thế giới (giới tự nhiên) tồn tại khách quan đa dạng và thống nhất:
Thế giới tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào tình cảm, uy tín, nhận
thức (cái chủ quan) của con người. Triết học và khoa học không thể biết cái gì ngoài
thế giới vật chất khách quan đó. Tính đa dạng của thế giới chỉ có thể được lý giải
một cách đúng đắn và đầy đủ nhờ vào quan niệm về vật chất, về hình dạng, về vận
động … . Vật chất là toàn thể các phần tử rất nhỏ với những tính chất khác nhau.
Hình dạng là nguyên nhân dẫn tới mọi sự khác biệt của các sự vật, là lý do đầy đủ để
sự vật xuất hiện, là bản chất chung của các sự vật cùng loại, là quy luật chi phối sự
vận động của chúng. Vận động là bản năng, là sinh khí của sự vật vật chất; là thuộc
tính đầu tiên và quan trọng nhất của vật chất. Vật chất, hình dạng và vận động thống
nhất với nhau nên nhận thức bản chất của sự vật vật chất là khám phá ra hình dạng,
nghĩa là vạch ra các quy luật vận động chi phối chúng.
o Con người là một sản phẩm của thế giới:
Con người là một sản phẩm của thế giới, nó bao gồm thể xác và linh hồn được
cấu tạo từ vật chất. Linh hồn của con người giống như không khí hay lửa, biết cảm
giác, tồn tại trong bộ óc, vận động theo dây thần kinh và mạch máu trong cơ thể.
Ngoài việc thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn con người trong thể xác con người.
Còn thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn thực vật và linh hồn động vật tồn tại trong
cơ thể chúng. Khoa học nghiên cứu con người và linh hồn của nó phải là khoa học
tự nhiên.

b) Quan niệm về nhận thức, phương pháp nhận thức
Quá trình nhận thức thế giới khách quan là quá trình xây dựng các tri thức khách
quan về thế giới. Quá trình này xuất phát từ thế giới khách quan, thông qua kinh
nghiệm cảm tính, tiến đến tư duy lý tính để xây dựng tri thức khách quan về thế giới.
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 5
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
o Cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức:
Khoa học thật sự phải là khoa học thực nghiệm biết sử dụng tư duy tổng hợp và
phương pháp quy nạp khoa học để khái quát các dữ kiện do kinh nghiệm mang lại
nhằm khám phá ra các quy luật, bản chất của thế giới vật chất khách quan. Và tri
thức do khoa học này đem lại phải mang bản tính khách quan. Để đạt được những tri
thức như thế, khoa học mới cần phải loại bỏ những ảo tưởng ra khỏi quá trình nhận
thức cùa chính mình.
o Lý luận về ảo tưởng:
Tuy nhiên, quá trình nhận thức của con người còn bị chi phối bởi các ảo tưởng ( “
loài”, “hang động”, “ thị trường”, “ nhà hát” ) là những yếu tố chủ quan nên mắc
phải sai lầm không thể tránh khỏi. Để khắc phục các ảo tưởng này, chúng ta cần
phải khách quan hóa hoạt động nhận thức. Bằng cách tiếp cận trực tiếp thế giới tự
nhiên mà không thông qua uy tín, sách vở, lòng tin, tín điều ; ra sức hoàn thiện
công cụ nhận thức và nhân cách cá nhân của từng con người, đặc biệt phải biết làm
sử dụng tư duy tổng hợp và phương pháp quy nạp khoa học để xây dựng chuẩn xác
các khái niệm, nguyên lý phản ánh đúng đắn, chính xác bản chất, quy luật của sự vật
tồn tại trong hiện thực khách quan.
o Phương pháp nhận thức khoa học:
Trước đây , tư duy giáo điều và đầu óc nông cạn chủ yếu chỉ sử dụng hai phương
pháp nhận thức sai lầm - phương pháp "con nhện" và phương pháp "con kiến",
muốn khắc phục nó, nhà khoa học thật sự phải là nhà khoa học thực nghiệm biết sử
dụng điêu luyện phương pháp "con ong" giúp tìm kiếm các cứ liệu để xây dựng các
tri thức (mật), nhằm khám phá ra các quy luật của thế giới. Ph. Bêcơn đưa ra
phương pháp đánh dấu ( +/- ), sau đó S. Minlơ hoàn thiện được gọi là phương pháp

Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 6
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
quy nạp khoa học hay quy nạp dựa trên mối liên hệ nhân quả. Có ý nghĩa rất lớn đến
sự hình thành và phát triển khoa học thực nghiệm và triết học duy vật kinh nghiệm.
Đã dẫn dắt tư duy khoa học xuất phát từ những sự kiện khoa học riêng lẻ (cái riêng)
để đi đến những nguyên lý, quy luật tổng quát (cái chung). Quá trình nghiên cứu -
nhận thức đúng đắn cần phải trải qua bốn bước:
o Bằng cảm tính, qua quan sát, thí nghiệm tiếp cận các hiện tượng trong thế
giới tự nhiên để thu được những tài liệu kinh nghiệm;
o So sánh đối chiếu, tổng hợp những tài liệu kinh nghiệm để xây dựng những
sự kiện khoa học và phát hiện ra mối liên hệ nhân quả giữa chúng.
o Bằng quy nạp khoa học, khái quát các sự kiện khoa học phát hiện ra mối
liên hệ nhân quả, xây dựng giả thuyết khoa học để lý giải các hiện tượng
đang nghiên cứu. Từ giả thuyết khoa học đó rút ra các hệ quả tất yếu của
chúng.
o Bằng những quan sát, thí nghiệm mới kiểm tra các hệ quả đó; nếu đúng giả
thiết khoa học sẽ trở thành nguyên lý, định luật tổng quát; còn nếu sai thì
chúng ta lập lại giả thuyết mới.
o Quan niệm về chính trị - xã hội:
Phải xây dựng một nhà nước tập quyền đủ mạnh để chống lại mọi đặc quyền, đặc
lợi của tầng lớp quý tộc bảo thủ; Phải phát triển một nền công nghiệp và thương
nghiệp dựa trên sức mạnh của tri thức khoa học và tiến bộ của kỹ thuật. Chủ trương
cải tạo xã hội bằng con đường khai sáng thông qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo,
mà không cần sự đấu tranh của nhân dân.
2. Chủ nghĩa duy lý – tư biện (R. Đềcáctơ)
2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Từ sự phát triển của khoa học mà mở đầu là Triết lý Khoa học của Phơrăngxít
Bêcơn với tuyên bố: “Tri thức là Sức mạnh”, đã mở ra thời kỳ Triết học Hiện đại mà
đại diện đầu tiên chính là R. Đềcáctơ . Ông là nhà toán học người Pháp kiên quyết
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 7

Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
dựa vào sự tự trị của cá nhân và không chịu chấp nhận những lời giải triết học mang
tính chính thống lúc bấy giờ. Ông nghiên cứu sự vận hành bên trong của đầu óc
trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài và nhấn mạnh đến sự khác nhau giữa tri
giác và suy tưởng. Bằng cách áp dụng một kỹ thuật hoài nghi khoa học triệt để, ông
nhận ra rằng mình có thể phá hủy niềm tin của mình về mọi thứ. Nghi ngờ là một
loại tư duy nên cố nghi ngờ rằng ta đang tư duy là điều không ổn. Với sự thức nhận
ấy, R. Đềcáctơ tiến tới chứng minh rằng con người là thực thể nhị nguyên kỳ lạ.
Triết học Đềcáctơ đã mang lại lòng kính trọng mới mẻ đối với tín điều rằng nhận
thức đích thực chỉ có thể rút ra từ lý tính với câu nói nổi tiếng: “Tôi tư duy nghĩa là
tôi tồn tại”. Đó chính là trường phái triết học - siêu hình học đề cao lý tính, cố gắng
hệ thống hóa toàn bộ tri thức mà con người đạt được lúc bấy giờ dựa trên cơ sở
phương thức tư duy lý luận, nhằm giúp con người thoát ra khỏi cách nhìn thiển cận
về thế giới.
2.2. Nội dung chính CN chủ nghĩa duy lý – tư biện
Theo R. Đềcáctơ triết học mới phải được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng,
triết học là tổng thể tri thức của con người về giới tự nhiên và xã hội; Theo nghĩa
hẹp, triết học là siêu hình học - cơ sở thế giới quan của con người. Mục đích là sáng
tỏ khả năng nhận thức vô tận của con người, mang lại các nguyên tắc phương pháp
luận giúp khoa học đạt được tri thức khoa học
Nhiệm vụ của Chủ nghĩa duy lý – tư biện thời kỳ này là:
o Khắc phục chủ nghĩa hoài nghi
o Nâng cao trình độ tư duy lý luận của con người
o Giúp khoa học khám phá ra các quy luật của giới tự nhiên, chinh phục
giới tự nhiên, phục vụ cho lợi ích của con người
Triết học Đềcáctơ bao gồm: Siêu hình học và khoao học ( vật lý học)
a) Siêu hình học: Trong siêu hình học của Đềcáctơ nổi bật những tư tưởng sau
• “ Nghi ngờ phổ biến” – Nguyên tắc phương pháp luận
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 8
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Cơ sở của chân lý là lý tính, và để nhận thức đúng đắn cần phải nghi ngờ phổ
biến, kể cả cái được cho là chân lý; tức nghi ngờ mang tính phương pháp luận để
không mắc sai lầm và có được niềm tin chắc chắn trong nhận thức. Với nguyên tắc
nghi ngờ trên, ông đã đề cao tư duy, lý tính và coi thường kinh nghiệm, cảm tính
trong hoạt động nhận thức; vì vậy, đã xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa duy lý thời cận
đại.
Mọi cái tồn tại chỉ có thể trở thành chân lý khi chúng được đưa ra phán xét dưới
"tòa án" của lý tính nhằm tự bào chữa cho sự tồn tại của chính mình
• "Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại"- Nguyên lý cơ bản của triết học Đềcáctơ
Để luận chứng cho nguyên lý này, lý luận như sau: “ Dù tôi nghi ngờ về sự tồn
tại của mọi cái nhưng tôi không thể nghi ngờ về sự tồn tại của chính mình, nếu như
tôi không tồn tại thì làm sao tôi có thể nghi ngờ được. Mà nghi ngờ là suy nghĩ, nên
tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại. Tôi tồn tại với cương vị là người suy nghĩ, nghĩ là suy
nghĩ của tôi là có thật. Nó có sự tồn tại, sự tồn tại đó là không thể nghi ngờ và cũng
không thể bác bỏ được”
Dựa trên nguyên lý cơ bản trên ông đã xây dựng hệ thống siêu hình học, siêu hình
học - học thuyết về Thượng đế, giới tự nhiên và con người, rút ra các nguyên tắc chỉ
đạo hoạt động bản chất của con người - hoạt động nhận thức của linh hồn lý tính.
• Lý luận về Thượng đế, giới tự nhiên và con người:
Trình bày các chứng minh về sự tồn tại của Thượng đế: Theo chủ nghĩa duy lý tự
biện, Thượng đế thật sự tồn tại, bởi vì mọi dân tộc, mọi con người đều nghĩ về
Thượng đế; hơn nữa, sự tồn tại của Thượng đế là cái đảm bảo chắc chắn cho sự tồn
tại của giới tự nhiên cũng như của vạn vật sinh tồn trong nó, đảm bảo cho sự tồn tại
của thể xác và năng lực nhận thức vô tận của con người
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 9
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Giới tự nhiên chỉ có thể được tạo thành từ hai thực thể tồn tại độc lập nhau: thực
thể tinh thần phi vật chất với thuộc tính biết suy nghĩ, tạo thành mọi ý nghĩ, quan
niệm, tư tưởng , và thực thể vật chất phi tinh thần với quãng tính, tạo thành các sự
vật có thể đo được theo các đặc tính không gian, thời gian.

Con người là một sự vật đặc biệt vừa có linh hồn bất tử ( tạo ra từ thực thể tinh
thần) vừa có cơ thể khả tử ( tạo ra từ thực thể vật chất); là một sinh vật chưa hoàn
thiện nhưng có khả năng đi đến hoàn thiện, là bậc thang trung gian giữa Thượng đế
và Hư vô, nên con ngườivừa cao siêu, không mắc sai lầm; vừa thấp hèn, có thể mắc
sai lầm.
• Lý luận về linh hồn, nhận thức của con người:
Linh hồn con người bao gồm lý trí và ý chí. Lý trí mang lại khả năng nhận thức
sáng suốt, đúng đắn. Ý chí mang lại khả năng chọn lựa, phán quyết – cội nguồn dẫn
dắt linh hồn sa vào sai lầm, nhầm lẫn. Hoạt động bản chất của linh hồn là nghi ngờ,
bản thân việc nghi ngờ là dấu hiệu không hoàn thiện vươn tới sự hoàn thiện. Do bắt
nguồn từ Thượng đế mà trong linh hồn con người có chứa sẵn một số tư tưởng hoàn
thiện mang tính bẩm sinh luôn đúng đắn, ngoài ra trong linh hồn con người có tư
tưởng phái sinh có thể sai lầm do linh hồn tự nghĩ ra hay du nhập từ bên ngoài vào
khi linh hồn tiếp xúc với thế giới xung quanh.
Xuất phát từ quan niệm coi hoạt động bản chất của linh hồn là nhận thức, nhận
thức là nghi ngờ là tư duy. Đó là quá trình lý tính xâm nhập vào chính mình khám
phá ra tư tưởng bẩm sinh (các nguyên lý, quy luật của lôgích hay toán học ) chứa
đựng trong mình và sử dụng chúng để tiếp cận thế giới; Trực giác – hình thức nhận
thức tối cao của linh hồn lý tính - mang lại những ý niệm rõ ràng, rành mạch, hiển
nhiên hay nắm bắt tư tưởng có thể khẳng đinh/ phủ định. Ông coi lý trí khúc chiết
chỉ nhận thức được chân lý khi nó dựa vào trực giác như là điểm khởi đầu của nhận
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 10
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
thức. Bản thân lý trí khúc chiết tự nó không khẳng định hay phủ định điều gì cả, nên
nó không bao giờ mắc sai lầm.
Các nguyên tắt phương pháp luận nhận thức: một linh hồn vĩ đại cũng có thể sản
sinh ra những điều nhảm nhí, nếu nó không biết dựa vào một phương pháp luận
đáng tin cậy. Vì vậy, nhiệm vụ của siêu hình học là đưa ra các nguyên tắc chỉ đạo lý
tính trong hoạt động nhận thức, giúp hoàn thiện trí tuệ - năng lực tư duy, đồng thời
còn giúp cho các ngành khoa học khám phá ra chân lý. Có 4 nguyên tắt phương

pháp luận :
o Chỉ coi là chân lý những gì rõ ràng, rành mạch, không gợn một chút nghi
ngờ nào cả (nhờ vào trực giác).
o Phải phân chia đối tượng phức tạp thành các bộ phận đơn giản cấu thành
để tiện lợi trong việc nghiên cứu.
o Quá trình nhận thức phải xuất phát từ những điều đơn giản, sơ đẳng nhất,
dần dần đến những điều phức tạp hơn.
o Phải xem xét toàn diện mọi dữ kiện, tài liệu để không bỏ sót một cái gì
trong quá trình nhận thức.
b) Khoa học:
• Vật lý học
Xây dựng lý luận về vật chất và vận động. Vật chất bao gồm các hạt nhỏ, mịn, có
thể được phân chia đến vô cùng tận. Bản chất của vật chất là - quãng tính - thuộc
tính của thực thể vật chất. Không gian, thời gian và vận động là những thuộc tính
gắn liền với những vật thể vật chất. Không gian vật chất choán đầy vũ trụ. Vận động
cơ học của vật thể có nguồn gốc sâu xa từ “cái hích” của Thượng đế; sau đó, vận
động của các vật thể không thể được sinh ra, không thể bị tiêu diệt (bảo toàn). Dựa
trên quan niệm này, Đềcáctơ xây dựng mô hình vũ trụ.
• Sinh học
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 11
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Sự hình thành và phát triển của giới thực vật và giới động vật là quá trình hoàn
toàn tự nhiên, không có sự can thiệp của Thượng đế. Mọi cơ thể sinh vật đều là các
cỗ máy có lắp đặt một cơ chế phản xạ khi hoạt động sẽ sinh ra linh hồn thực vật và
linh hồn động vật khả tử. Tuy nhiên, con người là một cỗ máy - hệ thống vừa có thể
xác khả tử gắn liền với linh hồn lý tính bất tử. Sở dĩ như vậy là vì, cơ thể con người
có cấu trúc rất phức tạp và hoàn thiện hơn so với cơ thể động vật thông thường. Mặc
dù, trong siêu hình học, chỉ coi cơ thể là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn, nhưng
trong khoa học, đã coi thể xác là khí quan vật chất của linh hồn, còn linh hồn là hoạt
động tinh thần của thể xác. Với quan điểm duy vật và khoa học này, đã kỳ vọng vào

y học sẽ cải tạo thể xác và đời sống tinh thần để con người ngày càng hoàn thiện
hơn.
• Toán học
Đềcáctơ đã đặt nền móng cho toán học hiện đại, toán học là khoa học chính xác,
rõ ràng, rành mạch nhất. Xây dựng những cơ sở biện chứng cho toán học hiện đại.
Phương pháp diễn dịch toán học là phương pháp chung để thu được tri thức đúng
đắn; bởi vì nó là phương pháp thể hiện rõ bốn nguyên tắt phương pháp luận nhận
thức mà trí tuệ phải tuân theo để đạt chân lý.
Phần III. Sự tương đồng và khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm
Anh và chủ nghĩa duy lý – tư biện
Sự khác biệt giữa Ph. Bêcơn và R. Đềcáctơ rất nhiều và sâu xa, nhưng cũng có
nhiều điểm giống nhau. Mỗi nhà triết học đều muốn phế bỏ mọi phương pháp cổ
truyền và mọi kết quả của các công trình nghiên cứu trước. Cả hai đòi hỏi một tiêu
chuẩn chính xác mới vì có quá nhiều thí dụ về lý luận tuỳ tiện và quan sát chủ quan
trên con đường khoa học trong quá khứ
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 12
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
1. Sự tương đồng
Sự phát triển của triết học Phương tây cận đại, đều phản ánh sự thay đổi lớn trong
đời sống kinh tế, chính trị, tư tưởng, xã hội phương tây lúc bấy giờ và đều đi tìm
phương thức nhận thức mới để giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học
Cả hai cùng là cơ sở thế giới quan của giai cấp tư sản, là tiếng nói của giai cấp tư
sản chống lại triết học kinh viện, thế giới quan của chế độ phong kiến
Mặc dù theo hai chiều hướng đối lập nhau nhưng cả hai trường phái này đều nỗ
lực đánh giá vai trò của kinh nghiệm trong việc hình thành kiến thức của con người
Các nhà duy lý và nhà duy vật kinh nghiệm đều ủng hộ khoa học, coi khoa học là
chìa khóa giúp con người làm chủ tự nhiên. Họ đều chú ý tìm phương pháp luận mới
cho các khoa học, dùng khoa học để khám phá ra qui luật của giới tự nhiên, phục vụ
cho lợi ích của con người. Và đều thể hiện hạn chế trong phương pháp luận siêu
hình. Cũng có một điểm chung giữa 2 trường phái là mối hoài nghi về "sự dối gạt

của giác quan". Thêm vào đó, họ tin vào sự lược giảm những vấn đề thành những
thành phần nhỏ nhất, đơn giản nhất như một nguyên tắc tổng quát.
2. Sự khác biệt
Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý là hai khuynh hướng nhận
thức đối lập nhau đấu tranh gay gắt với nhau trong suốt chiều dài lịch sử triết học.
Cho đến thế kỷ XVII, trước những biến đổi lớn của xã hội Tây Âu, sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học, sự đối lập của hai khuynh hướng này càng thể hiện rõ nét.
CN duy vật kinh nghiệm CN duy lý tư biện
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 13
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Phương
pháp
luận
- Nhấn mạnh vai trò của tri thức
kinh nghiệm trong nhận thức
- Sử dụng phương pháp quy nạp
khoa học, phương thức từ dưới đi
ngược lên
- Cơ sở của chân lý là cảm tính, và
để nhận thức đúng cần phải tẩy
rửa các ảo tưởng (Ảo tưởng
“loài”, Ảo tưởng “hang động”,
Ảo tưởng “thị trường”, Ảo tưởng
“nhà hát”)
- Đề cao vai trò của lý trí con người
trong nhận thức
- Sử dụng phương pháp tiên đề và
diễn dịch của toán học, phương thức
từ trên đi xuống
- Cơ sở của chân lý là lý tính, và để

nhận thức đúng cần phải nghi ngờ
phổ biến, tức nghi ngờ mang tính
phương pháp luận để không mắc sai
lầm và có được niềm tin chắc chắn
trong nhận thức
Quan
niệm về
giới tự
nhiên
- Thế giới tồn tại một cách khách
quan không phụ thuộc vào tình
cảm, uy tín, nhận của con người
được lý giải một cách đúng đắn
và đầy đủ nhờ vào quan niệm về
vật chất, về hình dạng, về vận
động. Vật chất, hình dạng và vận
động thống nhất với nhau
- Nhận thức bản chất của sự vật vật
chất là khám phá ra hình dạng,
nghĩa là vạch ra các quy luật vận
động chi phối chúng
- Vạn vật trong giới tự nhiên chỉ có thể
được tạo thành từ hai thực thể tồn tại
độc lập nhau. Đó là thực thể tinh thần
phi vật chất và thực thể vật chất phi
tinh thần
- Nhận thức bản chất của sự vật vật
chất là khám phá ra quy luật vận
động của giới tự nhiên và chinh phục
chúng

Quan
niệm về
con
người
- Con người là một sản phẩm của
thế giới: bao gồm thể xác và linh
hồn. Thể xác và linh hồn của con
người cũng đều là vật chất. Linh
hồn của con người giống như
không khí hay lửa, biết cảm giác,
tồn tại trong bộ óc, vận động theo
dây thần kinh và mạch máu trong
cơ thể
- Con người là một sự vật đặc biệt vừa
có linh hồn bất tử ( tạo ra từ thực thể
tinh thần) vừa có cơ thể khả tử ( tạo
ra từ thực thể vật chất); là một sinh
vật chưa hoàn thiện nhưng có khả
năng đi đến hoàn thiện, là bậc thang
trung gian giữa Thượng đế và Hư vô,
nên con ngườivừa cao siêu, không
mắc sai lầm; vừa thấp hèn, có thể
mắc sai lầm
Quan
niệm về
- Ý nghĩa kinh nghiệm là nguồn
gốc của tất cả các khái niệm và
- Ý nghĩa kinh nghiệm độc lập với
khái niệm và kiến thức của con
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 14

Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
sự hình
thành
khái
niệm và
kiến
thức
của CN
kiến thức của con người
- Tri thức đó phải bắt nguồn từ trải
nghiệm giác quan
người
- Bắt nguồn từ Thượng đế, linh hồn
con người có chứa sẵn một số tư
tưởng hoàn thiện. Nhận thức là quá
trình linh hồn lý tính xâm nhập vào
chính mình để tiếp cận thế giới. Trực
giác - năng lực linh cảm mang lại
những ý niệm rõ ràng, rành mạch, để
khám phá ra các tư tưởng bẩm sinh .
Kết luận
Dù phương pháp của hai nhà triết học Ph. Bêcơn và R. Đềcáctơ có khác nhau
nhưng khi tư tương của hai ông tổng hợp thành một, chúng ta có một sự đoán trước
về toán học thực nghiệm hiện đại. Hiện nay, ta có thể thấy khi gộp chúng lại với
nhau, phương pháp của Ph. Bêcơn và R. Đềcáctơ là phôi thai của phương pháp khoa
học hiện đại.
Do chịu ảnh hưởng của cơ học Newtơn nên thế giới quan của chủ nghĩa duy vật
Tâu âu thế kỷ 17 – 18 nhìn chung là siêu hình và máy móc. Họ chỉ nhìn nhận vận
động ở hình thức vận động cơ giới. Các nhà triết học này vẫn chưa thoát khỏi cách
nhìn máy móc về con người, coi con người như một cái máy, lấy quy luật cơ học

hay lấy yếu tố bản năng để giải thích bản chất con người. Họ đề cao vai trò nhận
thức cảm tính, của tư duy và thực nghiệm khoa học, chưa nhận thức được tầm quan
trọng của thực tiễn, mối liên hệ giữa nhận thức và thực tiễn. Và cho rằng nhà nước
là do sự thỏa thuận giữa các tầng lớp nhân dân lập ra, chưa nhận ra được bản chất
của nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị.
Với bài tiểu luận này hy vọng có một cái nhìn tổng quan hơn cho người đọc về
hai trường phái triết học ở Phương tây thời cận đại. Đóng phần làm sáng tỏ về các
quan điểm về khoa học và tư duy của con người về giới tự nhiên lúc bấy giờ.
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 15
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chủ nghĩa duy kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý trong triết học Tây Âu thế
kỷ XVII (bản tóm tắt): Luận văn ThS. Triết học; Phạm Thị Nương
2. Triết học : TS.Bùi Văn Mưa (chủ biên)
3.
4.
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 16
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Mục lục
Thái Kim Loan – Nhóm 11 lớp QTKD1 – K22Page 17

×