TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - TIỂU BAN TRIẾT HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH
NGHIỆM ANH VÀ CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HỌC VIÊN TH: PHẠM THỊ MAI
STT: 59 - NHÓM 11
LỚP: ĐÊM 1- K23
TPHCM , tháng 12 năm 2014
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Nghiên cứu các trường phái triết học đã và đang hình thành và phát triển trên thế
giới là một vấn đề có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Những trường phái này đã và
đang đóng góp cho nhân loại những thành quả đáng kể cũng như những khó khăn, bế
tắc mà triết học thời này gặp phải đã có một ảnh hưởng to lớn và để lại một dấu ấn
đậm nét trong sự hình thành nhận thức luận duy vật của Mác – Ăngghen.
Hiểu rõ và hiểu sâu những trường phái triết học đã xuất hiện trong lịch sử triết học
là một trong những tiền đề giúp chúng ta có một cơ sở nhận thức luận căn bản làm nền
tảng cho những nghiên cứu và sử dụng chúng một cách khoa học dưới cách nhìn
mácxít. Những điểm tốt và chưa tốt giúp chúng ta hiểu cần làm gì để điều chỉnh cách
nhìn nhận của mình trong cuộc sống.
Tuy nhiên, với giới hạn chỉ là một bài tiểu luận nhỏ, không thể phân tích hết các
trường phái, nên tôi xin chọn hai trường phái cơ bản đại diện cho nền triết học Phương
Tây thời cận đại để làm đề tài tiểu luận triết học của mình.
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, tôi xin phân tích đề tài “Sự tương đồng và khác
biệt giữa chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý - tư biện phương
Tây thời cận” để làm rõ hơn những lý luận trên dưới sự hướng dẫn của TS.Bùi Văn
Mưa.
Với những hiểu biết còn hạn chế về triết học, tiểu luận này không tránh khỏi nhiều
thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý từ các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
I. HOÀN CẢNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI, VĂN
HÓA THỜI CẬN ĐẠI.
Thế kỷ thứ XVII và XVIII, đặc biệt là thế kỷ thứ XVII, là thời gian hình thành và
phát triển mạnh mẽ của giai cấp tư sản Tây Âu, chế độ tư sản phát triển ở toàn bộ
phương Tây mà mạnh nhất ở Pháp, Hà Lan, Anh. Trong thời gian ấy, giai cấp tư sản
thành hình, lấn vào chính quyền, xây dựng chế độ quân chủ độc đoán và chuẩn bị cho
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 2
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 2
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
cuộc cách mạng tư sản. Còn xã hội phong kiến thì đang chết dần, các thành thị trở nên
quan trọng hơn và những thành viên của một giai cấp thương nghiệp hiện đại khích lệ
những tư tưởng mới trong toán học, khoa học và công nghệ.
Một sự thay đổi lớn lao khác – phong trào Cải cách tôn giáo – cho phép những triết
gia sống trong các quốc gia theo Tin lành đặt ra những câu hỏi triệt để hơn về khoa
học, chính trị và luân lý, các triết gia có thể suy tưởng về những thành tựu và những ý
tưởng của con người, ít tập trung hơn vào sự hiện hữu và bản chất của Thượng đế.
Nhìn chung, tùy tương quan lực lượng giữa tư sản và quý tộc bấy giờ trong mỗi
nước mà phong trào tư tưởng chống Giáo hội, xây dựng một hệ thống lý tính khoa học
có tính chất quyết liệt hoặc dung hòa với tư tưởng tôn giáo.
Thời cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước Tây Âu là thời kỳ giai cấp tư sản đã
giành được chính quyền, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở
thành phương thức sản xuất thống trị. Nó đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học,
kỹ thuật phát triển mà trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt được
trình độ là cơ sở cổ điển.
Tuy nhiên, khoa học tự nhiên thời cận đại mang đặc trưng là khoa học tự nhiên -
thực nghiệm. Với đặc trưng ấy tất yếu sẽ dẫn tới cách nhìn nhận đối tượng nhận thức
trong sự trừu tượng, tách rời, không vận động, không phát triển, nếu có đề cập đến
vận động thì chỉ là sự vận động máy móc không phát triển.
Chính những điều kiện kinh tế - chính trị và khoa học tự nhiên thời kỳ này đã quy
định những đặc trưng về mặt triết học:
Thứ nhất, đây là thời kỳ thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm,
của những tư tưởng vô thần đối với hữu thần.
Thứ hai, chủ nghĩa duy vật thời cận đại mang hình thức của chủ nghĩa duy vật siêu
hình, máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong lĩnh vực tư duy triết
học và khoa học.
Thứ ba, đây là thời kỳ xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh vực xã
hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích xã
hội và lịch sử.
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 3
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 3
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
II. CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH VÀ CHỦ
NGHĨA DUY LÝ – TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY .
2.1. Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển.
Những thay đổi mang tính bước ngoặt ở Anh cũng như Tây Âu về kinh tế, chính trị,
xã hội cuối thế kỷ XVI đến trước cách mạng tư sản Anh đã tạo ra xu hướng cải cách
đối với các vấn đề xã hội ở các nhà tư tưởng. Trước hết là những biến đổi trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, dẫn đến những biến đổi trong lĩnh vực chính
trị, xã hội và văn hóa.
Về chính trị – xã hội, cơ cấu giai cấp có những biến đổi cơ bản. Cùng với sự hình
thành chế độ chuyến chế tập quyền, tầng lớp quý tộc mới có khuynh hướng tư sản hóa
chiếm vị trị đặc biệt trong cơ cấu chính trị - xã hội của nước Anh ở đêm trước cách
mạng tư sản.
Những biến đổi trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đã tác động đến đời sống
sinh hoạt tinh thần tại Anh, đặc biệt là sinh hoạt tôn giáo và môi trường sinh hoạt khoa
học, văn hóa, thể hiện bước quá độ từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản mà
Anh là nước tiên phong. Xét một cách tổng thể, mâu thuẫn giữa cải cách và bảo thủ,
giữa tiến bộ và phản động, giữa cái mới và cái cũ trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội nước Anh đã tác động đáng kể đến tư tưởng cải cách khoa học của các nhà duy vật
kinh nghiệm Anh.
2.1.2. Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh.
Bacon là người mở đầu cho khuynh hướng duy kinh nghiệm trong triết học Tây Âu
thế kỉ XVII. Qua phương pháp luận của mình, Bacon đã khẳng định nguồn gốc các tri
thức của con người là kinh nghiệm cảm tính. Mặc dù là người đầu tiên đưa phương
pháp của khoa học thực nghiệm vào triết học nhưng những tư tưởng duy kinh nghiệm
của Bacon chưa được phân tích về mặt nhận thức luận. Hobbes là người phát triển
khuynh hướng duy vật duy nghiệm của Bacon và vận dụng nó vào phân tích các vấn
đề xã hội. Chỉ đến Locke thì chủ trương duy kinh nghiệm mang nhiều tính phương
pháp luận của Bacon mới trở thành một khuynh hướng nhận thức trong triết học.
Vì điều kiện không cho phép, trong tiểu luận này tôi xin phân tích chủ yếu triết gia
đã đặt nền móng cho từng trường phái. Với chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh là Ph.
Bacon.
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 4
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 4
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
2.1.2.1. Quan niệm về vai trò, nhiệm vụ của triết học và khoa học.
Các nhà duy vật kinh nghiệm Anh cho rằng việc phát triển triết học và khoa học là
nền tảng cho việc canh tân đất nước, là cơ sở lý luận cho công cuộc xây dựng và phồn
thịnh đất nước, phát triển kinh tế, xoá bỏ bất công và tệ nạn xã hội. Phải phát triển
khoa học và triết học, nhưng muốn phát triển khoa học và triết học thì trước hết phải
khắc phục tính tư biện giáo điều, lề thói lý luận suông xa rời cuộc sống của triết học
và khoa học cũ, nghĩa là phải có quan điểm thực tiễn.
Triết học là tổng thể các tri thức lý luận của con người về thượng đế, về giới tự
nhiên và về bản thân con người, cho nên hệ thống triết học được chia thành 3 học
thuyết: học thuyết về thượng đế (thần học), học thuyết về giới tự nhiên (khoa học tự
nhiên), học thuyết về con người (nhân bản học).
Triết học mới cần phải được coi là khoa học của mọi khoa học, hoặc là cơ sở của
mọi khoa học. Mục đích của triết học và khoa học mới là xây dựng các tri thức lý luận
chặt chẽ đầy tính thuyết phục về mọi lĩnh vực nghiên cứu chứ không phải là củng cố
các đức tin mù quáng.
Nhiệm vụ của triết học là đại phục hồi các khoa học, nghĩa là phải cải tạo lại toàn
bộ các tri thức mà con người đạt được trước đó; “nắm bắt trật tự của giới tự nhiên”; tái
tạo lại trong trí tuệ con người kiểu mẫu của thế giới như là nó vốn có, chứ không phải
như là cái mà tư duy tưởng tượng ra; lấy hiệu quả của sáng chế thực tiễn để kiểm
nghiệm tính chân thực của triết học. Triết học và khoa học mới phải xuất phát từ tinh
thần “tri thức là sức mạnh” và “lý luận thống nhất với thực tiễn”… từ đó đi đến kết
luận: hiệu quả và sự sáng chế thực tiễn là người bảo lãnh và ghi nhận chân lý của
các triết học, muốn chinh phục tự nhiên thì con người phải nhận thức các quy
luật của nó và tuân theo nó.
2.1.2.2. Bản thể luận triết học.
Bản thể luận triết học của Ph. Bacon chịu ảnh hưởng bởi quan niệm của Anaxago
về “hạt giống”, nguyên tử luận của Đêmôcrit, học thuyết về hình dạng của Arixtot.
Ông cho rằng tồn tại của thế giới vật chất là khách quan, khoa học không thể biết gì
ngoài thế giới vật chất.
Ông cho rằng vật chất luôn luôn gắn liền với vận động. Nhận thức vật chất chính là
nhận thức vận động của chúng. Vận động là bản chất của sự vật, là tính tất yếu của
sinh vật, từ đó Bacon tìm cách nghiên cứu vận động. Ông chia vận động ra thành 19
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 5
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 5
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
hình thức, cả 19 hình thức đó đều là vận động cơ học nhưng ông đã rất đúng đắn khi
coi đứng im là một hình thức vận động.
Ông coi linh hồn cũng giống như một vật thể như lửa hay không khí, nó tồn tại
trong đầu óc con người và vận động theo các dây thần kinh (duy vật tầm thường). Con
người là một sản phẩm của thế giới: ông khẳng định không chỉ thể xác mà cả linh hồn
của con người cũng đều là vật chất. Ph. Bacon còn thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn
thực vật và linh hồn động vật tồn tại trong cơ thể thực vật và động vật. Khoa học
nghiên cứu con người và linh hồn của nó phải là khoa học tự nhiên. Như vậy Ph.
Bacon đi theo đường lối duy vật siêu hình.
2.1.2.3. Nhận thức luận.
Đường lối nhận thức của Ph. Bacon là chủ nghĩa duy cảm. Ông cho rằng không có
tri thức tiên nghiệm mà mọi tri thức đều phải bắt nguồn từ kinh nghiệm, lý tính có
nhiệm vụ chế biến kinh nghiệm thành hệ thống.
Là nhà khoa học thực nghiệm nên Ph. Bacon đặc biệt quan tâm đến vấn đề phương
pháp nhận thức. Là người rất nhiệt tình ủng hộ sự phát triển khoa học, ông có hoài bão
xây dựng cách nhìn mới về thế giới khách quan. Ông đã chỉ ra những hạn chế trong
khả năng nhận thức của con người . Theo ông đây không phải là những hạn chế dẫn
đến sai lầm vụn vặt nhất thời mà là những hạn chế dẫn đến sai lầm hết sức nghiêm
trọng, ông gọi đó là những ngẫu tượng. Theo ông, muốn nhận thức thế giới một cách
khoa học thì người ta phải từ bỏ những ngẫu tượng đang thống trị lâu nay trong nhận
thức từ đó xây dựng học thuyết ngẫu tượng. Ông đã tiến hành phê phán phương pháp
tư duy tư biện của chủ nghĩa kinh viện, chỉ ra những sai lầm thường mắc của phương
pháp này. Để đi đến chân lý con người phải kiên quyết từ bỏ các “ảo tượng” của nhận
thức.
Ông ví phương pháp kinh nghiệm là phương pháp con kiến, tức là lượm lặt nhỏ
mọn mà không biết khái quát. Ông gọi phương pháp kinh viện là phương pháp con
nhện, chỉ vội vã chăng những cái mạng không chắc chắn. Ông cho rằng phương pháp
khoa học phải là phương pháp con ong, từ nhụy hoa mà chế ra mật ngọt. Bacon đề
xuất phương pháp quy nạp loại trừ với ba bước cơ bản: một là, thu thập các dữ liệu;
hai là, lập bảng so sánh các dữ liệu; ba là, quy nạp loại trừ để tìm ra quan hệ nhân quả.
Đường lối nhận thức của Bacon là đường lối duy giáp vì vẫn mang nặng tính kinh
nghiệm. Ông thừa nhận thuyết hai chân lý, cho rằng khoa học và thần học không nên
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 6
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 6
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
can thiệp vào công việc của nhau. Phương pháp nhận thức khoa học: phương pháp con
ong - phương pháp quy nạp khoa học hay quy nạp dựa trên mối liên hệ nhân quả.
Phương pháp này có ý nghĩa rất lớn đến sự hình thành và phát triển khoa học thực
nghiệm và triết học duy vật kinh nghiệm.
Bacon cho rằng, cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức,
mặc dù ông vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi quan niệm chân lý lưỡng tính và chưa khắc
phục được tính thần học trong quan niệm của mình.
Ph. Bacon cũng đòi hỏi quá trình nhận thức phải xuất phát từ kinh nghiệm cảm
tính, còn kinh nghiệm cảm tính lại xuất phát từ thế giới khách quan. Nguyên tắc khách
quan là nguyên tắc hàng đầu của khoa học và triết học mới để nhận thức đúng đắn thế
giới. Tư duy tổng hợp và phép quy nạp khoa học là những công cụ hiệu quả đủ để xây
dựng khoa học thực nghiệm và chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm nhằm khám phá ra các
quy luật của thế giới để con người chinh phục nó và bắt nó phục vụ lợi ích cho chính
mình.
2.1.2.4. Tư tưởng chính trị – xã hội.
Ông ủng hộ việc xây dựng một nhà nước tập quyền hùng mạnh, bảo vệ lợi ích phát
triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, chống đặc quyền của bọn quý tộc. Ông cho rằng
phát triển công nghiệp và thương nghiệp có ý nghĩa quan trọng nhất đối với xã hội.
Ông phản đối đấu tranh của quần chúng, chủ trương phát triển xã hội bằng giáo dục và
khoa học. Ông mong muốn dân tộc Anh thống trị các dân tộc khác.
2.1.3. Đánh giá về chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh.
2.1.3.1. Thành tựu.
Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh có vai trò chống lại triết học và lối tư duy kinh
viện, ủng hộ khoa học. Với phương pháp luận thực nghiệm quy nạp, Bacon đã đặt cơ
sở phương pháp luận cho khoa học tự nhiên thực nghiệm. Vì vậy, không phải ngẫu
nhiên mà Mác gọi Bacon là ông tổ của khoa học tự nhiên thực nghiệm, ở đây là hiểu
theo nghĩa phương pháp luận.
Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm trong triết học Tây Âu thế kỷ XVII còn được biết
đến với tinh thần ủng hộ sự phát triển của các khoa học và phương pháp nghiên cứu
khoa học. Bacon đã đưa ra khẩu hiệu “Tri thức là sức mạnh”. Ông mong muốn những
người đương thời và thế hệ mai sau quan tâm đến sự phát triển của khoa học và làm
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 7
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 7
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
điều đó vì lợi ích của cuộc sống và thực tiễn, vì lợi ích và phẩm giá của con người.
Cho đến nay, khẩu hiệu này vẫn chưa mất đi ý nghĩa và tính thời sự của nó.
2.1.3.2. Hạn chế.
Tuyệt đối hóa nhận thức cảm tính, chưa đánh giá đúng mức vai trò của nhận thức lý
tính.
2.2. Chủ nghĩa duy lý- tư biện Phương Tây.
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển.
Từ sự phát triển của khoa học mà mở đầu là Triết lý Khoa học của Francis
Bacon (1561-1626) với tuyên bố: “Tri thức là Sức mạnh”, đã mở ra thời kỳ Triết học
hiện đại mà đại diện đầu tiên chính là Rene Descartes (1596 – 1650). Descartes là đại
biểu tư tưởng của giai cấp tư sản Pháp trong thế kỷ thứ XVII, đấu tranh không phải để
nắm chính quyền thực tế, mà để tham gia chính quyền với sự câu kết với phong kiến,
hình thức quân chủ tuyệt đối, quân chủ độc đoán, để bảo đảm quyền lợi kinh tế và
pháp lý, nhưng chưa nhằm quyền lợi chính trị tuyệt đối.
Bảo đảm quyền làm ăn, thể hiện về tư tưởng là bảo đảm phát triển khoa học (vì
khoa học đối với họ là phát triển sản xuất), và trong phạm vi này nó phải đánh đổ tư
tưởng Trung Cổ, và trong mức độ này nó đề cao lý tính, nhưng nó lại không tin tưởng
nó, nó không quan niệm rằng khoa học đó chỉ dựa trên cơ sở của người ta (quy nạp
trên kinh nghiệm) mà còn của một cái gì bảo đảm cao hơn là Thượng đế (phản ánh
của Vua trong xã hội).
2.2.2. Nội dung chủ nghĩa duy lý – tư biện Phương Tây.
Đây là trường phái triết học – siêu hình học đề cao lý tính, cố gắng hệ thống hóa
toàn bộ tri thức mà con người đạt được lúc bấy giờ dựa trên cơ sở phương thức tư duy
lý luận, nhằm giúp con người thoát khỏi cách nhìn thiển cận về thế giới.
Trường phái này được Descartes đặt nền móng, Xpinôda và Leibniz phát triển theo
khuynh hướng duy vật và duy tâm khác nhau.
2.2.2.1. Quan niệm về bản chất của triết học.
Descartes cho rằng có thể hiểu triết học theo nghĩa rộng – đó là toàn bộ tri thức
mà con người đã đạt được về nhiều lĩnh vực khác nhau, đem lại lợi ích thiết thực và
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 8
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 8
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
trực tiếp cho cuộc sống con người; hoặc theo nghĩa hẹp – đó là siêu hình học, là nền
tảng của thế giới quan, phục vụ gián tiếp cho con người chủ yếu thông qua các khoa
học khác.
Ông cho rằng trình độ của tư duy triết học là thước đo quan trọng nhất đánh giá
sự thông thái của con người và sự ưu việt của dân tộc này so với dân tộc khác. Theo
ông, nhiệm vụ của triết học là xây dựng những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản
làm cơ sở cho sự phát triển của các khoa học, giúp con người làm chủ giới tự nhiên.
2.2.2.2. Bản thể luận triết học.
Trong “Vật lý học” ông thể hiện lập trường duy vật, cho rằng tự nhiên là một
khối thống nhất được tạo nên từ các hạt nhỏ có quảng tính và luôn vận động. Về
nguyên tắc, vật chất có thể phân chia vô tận. Ông cho rằng không có không gian và
thời gian rỗng, đó chỉ là thuộc tính gắn liền với vật chất. Vận động là bất diệt, nhưng
ông mới chỉ biết về vận động cơ học. Ông đưa ra giả thuyết “lốc xoáy” để lý giải về
sự hình thành vũ trụ, theo đó vật chất lúc đầu tồn tại ở trạng thái đồng loại và chuyển
động không ngừng theo chiều xoáy như những cơn lốc, nhờ đó các vật, hạt nặng tụ lại
thành đất, đá; các hạt nhẹ tản ra thành lửa, không khí…
Trong “Siêu hình học” ông thể hiện lập trường nhị nguyên, thừa nhận hai thực
thể độc lập là vật chất và tinh thần. Đặc trưng của thực thể vật chất là quảng tính; đặc
trưng của thực thể tinh thần là có tư duy. Nhưng ông lại cho rằng cả hai đều chịu sự
chi phối bởi thượng đế (duy tâm).
2.2.2.3. Nhận thức luận.
Về nhận thức luận, Descartes theo đường lối duy lý, đấu tranh chống chủ nghĩa
kinh viện. Cơ sở xuất phát của nhận thức là nguyên tắc “nghi ngờ” - nguyên tắc xuất
phát để xây dựng triết học và khoa học mới. Descartes đòi hỏi phải xây dựng triết học
mới. Và triết học mới này phải được hiểu theo hai nghĩa: theo nghĩa rộng: triết học là
tổng thể tri thức của con người về các lĩnh vực; theo nghĩa hẹp: triết học là siêu hình
học – cơ sở thế giới quan của con người. Nhiệm vụ của triết học mới là khắc phục chủ
nghĩa hoài nghi, xây dựng các nguyên tắc chỉ đạo các ngành khoa học khám phá ra
các quy luật của giới tự nhiên… Tóm lại, triết học mới là triết học gắn liền với khoa
học nhằm làm chủ tư duy, nâng cao trình độ lý luận cho con người.
Với nguyên tắc nghi ngờ trên, Descartes đề cao tư duy lý tính và coi thường kinh
nghiệm cảm tính trong hoạt động nhận thức, vì vậy, ông đã xây dựng cơ sở cho chủ
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 9
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 9
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
nghĩa duy lý thời cận đại. Nghi ngờ phổ biến là cơ sở phương pháp luận của triết học
Descartes. Phương pháp luận này mang tính siêu hình, phiếm diện. Ông cho rằng cần
phải nghi ngờ tính đúng đắn của mọi tri thức có trước, nhưng không thể nghi ngờ rằng
mình đang nghi ngờ, mà nghi ngờ là suy nghĩ, từ đó ông nêu luận đề duy lý: “tôi suy
nghĩ vậy tôi tồn tại”. Dù dựa trên nguyên tắc nghi ngờ phổ biến, nhưng Descartes
không đi đến chủ nghĩa hoài nghi mà là bác bỏ nó và xây dựng nguyên lý cơ bản của
toàn bộ hệ thống siêu hình học duy lý của mình. Theo ông, tri thức của con người bắt
nguồn từ ba nguồn gốc: có những tri thức có nguồn gốc khách quan (tri thức về khối
lượng); có tri thức mang nguồn gốc chủ quan (tri thức về cái đẹp); có những tri thức
bẩm sinh (tiên đề toán học). Ông đề xuất phương pháp nhận thức duy lý gồm 4
nguyên tắc:
1) Chỉ thừa nhận là chân lý những gì là hiển nhiên, rõ ràng, rành mạch, không gợi
nghi ngờ.
2) Phân chia sự vật ra thành bộ phận để xem xét từng bộ phận.
3) Nhận thức phải đi từ những cái đơn giản đến những cái phức tạp.
4) Xem xét tất cả các mặt, các bộ phận không bỏ sót cái nào.
Bên cạnh đó, cũng có thể chia triết học của Descartes thành hai bộ phận là siêu hình
học và khoa học (vật lý học). Trong siêu hình học, Descartes là nhà nhị nguyên luận
ngã về phía duy tâm, nhưng trong khoa học, ông lại là nhà duy vật siêu hình máy móc
nổi tiếng.
2.2.3. Đánh giá về chủ nghĩa duy lý – tư biện Phương Tây.
2.2.3.1. Ưu điểm.
Là thế giới quan của giai cấp tư sản trong giai đoạn đang lên của nó, chủ nghĩa duy
lý trong triết học Tây Âu thế kỷ XVII được biết đến như một xu hướng tích cực đấu
tranh chống lại tất cả những gì là kinh viện, giáo điều, vô căn cứ, phản khoa học để
ủng hộ sự phát triển độc lập của nền khoa học mới được xây dựng trên một tư duy lý
luận có tính phê phán. Người đi tiên phong trong cuộc cách mạng về tư tưởng này là
Descartes. Ông vạch ra sự bức thiết phải phá hủy những định kiến vô căn cứ để có thể
xây dựng nền tảng triết học và khoa học vững chắc bắt nguồn từ ánh sáng tự nhiên của
lý trí. Ông cũng cho rằng cần phải xây dựng một triết học thực dụng “giúp con người
trở thành chủ nhân ông của thiên nhiên”.
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 10
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 10
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
2.2.3.2. Hạn chế.
Mặc dù lên tiếng chống lại triết học kinh viện giáo điều nhưng bản thân nó vẫn
chưa thoát khỏi ảnh hưởng của tôn giáo và triết học kinh viện. Nó vẫn chưa thoát ra
khỏi quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học. Mặt khác, trong khi phê
phán tính chất giáo điều của triết học kinh viện thì chính nó lại rơi vào giáo điều bằng
việc sùng bái một lý tính dường như có trước sự phát triển của các khoa học.
3. SO SÁNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH VÀ
CHỦ NGHĨA DUY LÝ – TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY.
3.1. Sự tương đồng.
3.1.1. Cả hai cùng là cơ sở thế giới quan của giai cấp tư sản, là tiếng nói của
giai cấp tư sản chống lại triết học Kinh viện - thế giới quan của chế độ
phong kiến.
Triết học Anh phát triển theo duy vật kinh nghiệm chủ nghĩa. Về phần chính trị học
thì đặt một lý thuyết mới biện chính quyền tuyệt đối của nhà Vua, nhưng không dựa
vào quyền Thượng đế, phá bỏ lý luận thần bí trước mà chỉ dựa vào lợi ích xã hội. Các
nhà duy vật kinh nghiệm Anh đại biểu cho nhân sinh quan tư sản thành hình, mới bắt
đầu nắm xã hội, chưa đủ sức xây dựng một chế độ cộng hòa mà chỉ xây dựng trên một
cơ sở độc tài.
Descartes đại biểu cho nhược điểm giai cấp tư sản Pháp với phương thức đấu tranh
không triệt để của nó trong thế kỷ XVII - liên kết chặt duy tâm trí - duy vật (lập
trường), nhưng về phần nội dung tư tưởng cũng đại biểu cho công trình xây dựng của
tư sản Pháp và Tây Âu nói chung trong thời tiến bộ của nó.
3.1.2. Các nhà duy lý cũng như các nhà duy vật kinh nghiệm đều ủng hộ
khoa học, coi khoa học là chìa khóa giúp con người làm chủ tự nhiên.
Bacon cho rằng nhiệm vụ triết học là phải cải tạo toàn bộ tri thức mà con người đạt
được và phải phát triển khoa học và triết học. Triết học mới cần phải được coi là khoa
học của mọi khoa học, hoặc là cơ sở của mọi khoa học. Mục đích của triết học và
khoa học mới là xây dựng các tri thức lý luận chặt chẽ đầy tính thyết phục về mọi lĩnh
vực nghiên cứu chứ không phải là củng cố các đức tin mù quáng. Nhiệm vụ của triết
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 11
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 11
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
học mới là đại phục hồi cho khoa học hay xây dựng khoa học mới bằng cách cải tạo
toàn bộ tri thức hiện có, xóa bỏ những sai lầm chủ quan, sử dụng hiệu quả tư duy khoa
học để khám phá trật tự thế giới trong tư duy giống như nó tồn tại trong hiện thực.
Phần tích cực trong tư tưởng Descartes là với cả một hệ thống huyền chúng bao
gồm khoa học mới, Descartes đã đề cao khoa học toán lý và định nghĩa rõ ràng đối
tượng cụ thể của toán lý. Dễ nhận thấy trong tác phẩm Descartes có 2 phần rõ ràng:
xây dựng khoa học mới và biện chính khoa học mới ấy trên cơ sở siêu hình: sự tồn tại
của Thượng đế và sự bất diệt của linh hồn.
3.1.3. Đều chú ý đi tìm phương pháp luận mới cho các khoa học.
Theo Bacon, phương pháp khoa học là công cụ hiệu quả nhất để khắc phục ngẫu
tượng, phương pháp đó có được bằng kinh nghiệm khoa học và phương pháp nhận
thức tối ưu là phương pháp quy nạp khoa học. Ông khẳng định: “Khoa học là khoa
học kinh nghiệm, và thực chất đó là áp dụng phương pháp hợp lý vào trong các tư liệu
cảm tính”. Như vậy, tại Anh đã hình thành một phương pháp luận khoa học nhấn
mạnh vai trò của khoa học thực nghiệm, cảm giác như nguồn gốc đáng tin cậy của tri
thức khoa học.
Nhìn chung, Descartes bộc lộ thế giới quan duy vật siêu hình máy móc, tuy nhiên
vẫn có chỗ thể hiện một số quan điểm biện chứng vượt trước thời đại.
Descartes đưa ra phương pháp hoài nghi: muốn đạt một chân lý tuyệt đối, chúng ta
phải hoài nghi, thậm chí phủ định tất cả cái gì có thể hoài nghi được mới nắm chắc
chắn:
- Tất cả nhận thức thuộc cảm tính (thậm chí có thể so sánh với giấc mơ, kinh nghiệm
cho biết nhận thức cảm tính nhiều khi sai);
- Cái gì thuộc lý tính thậm chí toán pháp mà ta nắm vững nhưng vẫn có thể hoài nghi
được, vì ta có thể giả sử có một ông Thần Ác làm ta mỗi lần tính đều sai lầm.
3.1.4. Cả hai chủ nghĩa đều kiến thiết một hệ thống triết học dựa trên mối
tương liên chủ thể - khách thể hay vấn đề nhận thức luận.
Nếu sai lầm của chủ nghĩa duy lý là tuyệt đối hoá nhận thức lý tính thì sai lầm của
chủ nghĩa kinh nghiệm là tuyệt đối hoá nhận thức cảm tính. Tuy nhiên tất cả lập luận
của hai chủ nghĩa đều dựa trên mối quan hệ giữa con người và bản chất của giới tự
nhiện. Descartes với tham vọng hiểu biết không giới hạn của tư duy khi ông xác lập
mệnh đề "tôi có thể nghi ngờ mọi tồn tại nhưng không thể nghi ngờ tôi tư duy, do đó
tôi tư duy vậy tôi tồn tại". Như vậy có thể hiểu ở một góc độ nào đó, lần đầu tiên
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 12
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 12
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
Thượng đế với tư cách là tồn tại tối cao bị nghi ngờ từ phương diện triết học bởi một
tồn tại khác vốn vẫn bị coi là bé mọn - tồn tại tôi tư duy.
Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh cho rằng cơ sở nhận thức của con người
không phải cái gì khác hơn là cảm giác trong mối quan hệ với thể trạng tâm sinh lý
của họ.
3.1.5. Lý luận nhận thức của hai chủ nghĩa suy cho cùng đều không xuất
phát từ chủ thể mà xuất phát từ khách thể như là yếu tố tác động đến
nhận thức thụ động của con người.
Từ học thuyết ý niệm của Plato đến học thuyết đơn tử của G.V.Leibniz đều biến
tư duy thành bản thể của thế giới mà không đếm xỉa đến kinh nghiệm, cảm giác của
con người, biến những quy luật lôgíc hình thức của tư duy thành quy luật chung của
mọi tồn tại mà không quan tâm đến nội dung của nó. Do đó chủ nghĩa duy lý – tư biện
bắt đầu nhận thức luận là thế giới khách quan độc lập với kinh nghiệm và cảm giác
của con người, tức là bắt đầu từ thế giới khách quan.
Còn chủ nghĩa duy vât kinh nghiệm thì cho rằng kết quả của nhận thức không gì
khác hơn là kinh nghiệm do cảm giác đem lại. Khoa sinh lý học tự nhiên đầu thế kỷ
XVIII xác nhận điều đó. Tất cả những gì ngoài phạm vi của kinh nghiệm đều không
đáng tin cậy. Như vậy, các nhà kinh nghiệm có ý hướng chống lại các nhà duy lý một
cách trực tiếp từ phương diện nhận thức luận. Theo cách hiểu này thì nhận thức luận
của chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm bắt nguồn từ cảm giác và kinh nghiệm. Mà cảm
giác và kinh nghiệm là tác động của thế giới khách quan tới nhận thức con người.
3.1.6. Tuy đấu tranh với nhau gay gắt nhưng có khi chúng lại chịu ảnh
hưởng của nhau.
Leibniz thừa nhận bên cạnh những chân lý của lý trí còn có cả các chân lý của sự
kiện bắt nguồn từ kinh nghiệm. Những khái niệm khoa học cơ lý mà giai cấp tư sản
xây dựng được - trong Leibnitz - chỉ được bảo vệ với cương vị hình thức ngoại diện.
Thế giới cơ lý mới xây dựng được với khoa học toán lý theo Leibnitz là chân lý,
nhưng là chân lý ngoại diện; nhưng căn bản là tồn tại của tinh thần, vật chất là ngoại
diện của tinh thần, tư tưởng phong kiến nặng, phủ định sự tồn tại của ngoại giới. Nó
chỉ là ngoại diện. Nhưng ngoại diện này có, và có những quy luật quy định sự liên
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 13
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 13
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
quan giữa ngoại diện và tinh thần. Sự liên quan do Thượng đế tạo ra nhưng chỉ một
lần thôi.
Hay như Locke trong khi phê phán gay gắt học thuyết về tư tưởng bẩm sinh của
Descartes thì vẫn chịu ảnh hưởng của Descartes khi ông phân chia các đặc tính của sự
vật thành “chất có trước” và “chất có sau”.
3.2. Sự khác biệt.
Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý – tư biện là hai khuynh hướng
nhận thức đối lập nhau đấu tranh gay gắt với nhau trong suốt chiều dài lịch sử triết
học. Cho đến thế kỷ XVII, trước những biến đổi lớn của xã hội Tây Âu, sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học, sự đối lập của hai khuynh hướng nhận thức này càng thể hiện
rõ nét.
3.2.1. Các tranh chấp giữa chủ nghĩa duy lý - tư biện và chủ nghĩa duy vật
kinh nghiệm Anh liên quan đến mức độ mà chúng ta phụ thuộc vào
kinh nghiệm tri giác trong nỗ lực để đạt được kiến thức.
Chủ nghĩa duy lý - tư biện cho rằng có những cách đáng kể, trong đó các khái niệm
và kiến thức của chúng ta có được là độc lập với kinh nghiệm tri giác. Còn chủ nghĩa
kinh nghiệm Anh cho rằng kinh nghiệm tri giác là nguồn gốc tối hậu của tất cả các
khái niệm và kiến thức của chúng ta.
Chủ nghĩa duy lý - tư biện nói chung phát triển quan điểm theo hai cách. Đầu tiên,
họ lập luận rằng có những trường hợp nơi mà nội dung của các khái niệm, kiến thức
của chúng ta vượt xa những thông tin mà cảm giác kinh nghiệm có thể cung cấp. Thứ
hai, họ xây dựng các giải thích bằng lý do nào mà trong một số hình thức này hoặc kia
cung cấp thông tin bổ sung về thế giới.
Trong khi đó chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm trình bày bổ sung vào dòng tư tưởng.
Đầu tiên, nó phát triển các giải thích bằng cách nào kinh nghiệm cung cấp các thông
tin mà chủ nghĩa duy lý - tư biện suy diễn dẫn, trong phạm vi chúng ta đã biết ở lập
luận đầu tiên. Thứ hai, chủ nghĩa kinh nghiệm Anh phản bác giải thích của chủ nghĩa
duy lý - tư biện lý do nào là nguồn khái niệm hay kiến thức.
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 14
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 14
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
3.2.2. Đối lập giữa chủ nghĩa duy lý - tư biện và chủ nghĩa duy vật kinh
nghiệm Anh diễn ra trong nhận thức luận, các nhánh của triết học
dành cho việc nghiên cứu bản chất, nguồn và giới hạn của kiến thức.
Các câu hỏi xác định nhận thức luận bao gồm:
- Bản chất của kiến thức mệnh đề - kiến thức là một đề xuất cụ thể về thế giới?
- Làm thế nào để đạt được kiến thức?
- Các giới hạn của kiến thức?
Sự bất đồng giữa chủ nghĩa duy lý - tư biện và chủ nghĩa kinh nghiệm Anh chủ yếu
liên quan đến câu hỏi thứ hai, liên quan đến các nguồn của các khái niệm và kiến thức.
Trong một số trường hợp, bất đồng về chủ đề này dẫn đến những phản hồi mâu thuẫn
cho các câu hỏi khác. Hai trường phái này có thể không đồng ý về bản chất của tự
nhiên hoặc về các giới hạn của tư tưởng và kiến thức.
Descartes cho rằng kiến thức đòi hỏi phải có sự chắc chắn và đảm bảo, thế giới bên
ngoài là vượt quá những gì bằng chứng thực nghiệm có thể cung cấp. Chúng ta không
bao giờ có thể chắc chắn ấn tượng giác quan của chúng ta không phải là một phần của
một giấc mơ hay một sự lừa dối Chỉ có trực giác và suy diễn có thể cung cấp sự
chắc chắn cần thiết cho kiến thức, và cho rằng chúng ta có một số kiến thức nội dung
của thế giới bên ngoài, các luận điểm trực giác/suy diễn là đúng sự thật.
Một số các khái niệm của chúng ta đã không được thu được từ kinh nghiệm. Thay
vào đó, chúng là một phần hợp lý của chúng ta tạo nên, và kinh nghiệm chỉ đơn giản
là kích hoạt một quá trình mà chúng ta ý thức nắm bắt chúng. Động lực chính thúc
đẩy chủ nghĩa duy lý - tư biện nên chấp nhận là: nội dung của một số khái niệm dường
như vượt xa bất cứ điều gì chúng ta có thể thu được từ kinh nghiệm.
Phản hồi của chủ nghĩa kinh nghiệm Anh được đưa ra bởi Locke. Đầu tiên, đó là
vấn đề giải thích nó là gì cho một người nào đó để có một khái niệm bẩm sinh. Nếu có
một khái niệm bẩm sinh đòi hỏi phải có ý thức giải trí hiện tại hoặc trong quá khứ, sau
đó vị trí của Descartes là mở cửa cho trường hợp điển hình rõ ràng. Trẻ em nhỏ và
những người từ các nền văn hóa khác không có ý thức giải trí các khái niệm về Thiên
Chúa và không làm như vậy. Thứ hai, có phản đối rằng chúng ta không cần phải hấp
dẫn đối với các khái niệm bẩm sinh ở nơi đầu tiên. Trái ngược với lập luận của
Descartes, chúng ta có thể giải thích như thế nào kinh nghiệm cung cấp tất cả các ý
tưởng của chính ta, bao gồm cả những người chủ nghĩa duy lý - tư biện có là bẩm
sinh, và với nội dung mà các nhà chủ nghĩa duy lý - tư biện gán cho chúng.
Theo Locke, kinh nghiệm bao gồm cảm giác bên ngoài và phản ánh. Tất cả các ý
tưởng của chúng ta là hoặc đơn giản hay phức tạp, trước đây chúng ta nhận được một
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 15
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 15
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
cách thụ động trong cảm giác hay phản ánh và sau này được xây dựng bởi tâm trí từ
các vật liệu đơn giản thông qua các hoạt động khác nhau về tinh thần.
3.2.3. Bản chất của nhận thức luôn là vấn đề trung tâm đối với bất kỳ lý luận
nhận thức nào, cho dù nó có thể được trình bày trực diện hay không.
Trong cả chủ nghĩa duy lý - tư biện lẫn chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh, nhận
thức được xem như kết quả hoạt động tư duy của chủ thể nhằm thấu hiểu thế giới bên
ngoài. Nhưng nếu chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh cố gắng nghiên cứu những tư
tưởng của con người từ phương diện nội dung thì chủ nghĩa duy lý - tư biện lại chú
trọng nghiên cứu khía cạnh lôgíc của các tư tưởng, quan tâm đến các hình thức khác
nhau của chúng.
Luận điểm xuất phát của chủ nghĩa duy lý - tư biện là tư duy đồng nhất với tồn tại
về mặt nội dung song cần phải tìm hiểu cơ sở của tồn tại ở các quy luật lôgíc chi phối
nhận thức chân thực. Như vậy chủ nghĩa duy lý - tư biện có tham vọng xây dựng
"khoa học của mọi khoa học" một cách tư biện. Trái lại, chủ nghĩa duy vật kinh
nghiệm Anh, do phát triển trong thời kỳ cơ học, luôn muốn song hành với khoa học
khi hướng tới một số nguyên tắc chung của tồn tại dựa trên những dữ kiện của các
khoa học thực nghiệm.
3.2.4. Điểm chung của hai trường phái này là đều kiến thiết một hệ thống
triết học dựa trên mối tương liên chủ thể - khách thể hay vấn đề nhận
thức luận. Song chúng bất đồng với nhau ở chỗ xác định nguồn gốc
của nhận thức và cách tiếp cận nhận thức từ phía chủ quan hay khách
quan.
Chủ nghĩa duy lý – tư biện thì tuyệt đối hoá nhận thức lý tính còn chủ nghĩa duy vật
kinh nghiệm Anh thì tuyệt đối hoá nhận thức cảm tính.
Mặc dù chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh của Locke đã khởi đầu đúng hướng
(xuất phát từ cảm giác) nhưng đã vội vàng khái quát quá sớm khi cho rằng chỉ có kinh
nghiệm, thực nghiệm là đáng tin còn những gì ngoài kinh nghiệm, nhất là tri thức siêu
hình, thì không có cơ sở vững chắc.
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 16
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 16
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Thế kỷ XVI, XVII ở Tây Âu diễn ra nhiều biến đổi bước ngoặt trong lịch sử. Cùng
với sự thay đổi mạnh mẽ trong phương thức sản xuất là những đột phá về mặt đời
sống tinh thần, thể hiện sự đoạn tuyệt với chế độ phong kiến nặng nề và những uy
quyền trung cổ đã từng phong toả, kìm hãm lý trí con người. Nhiều nhà tư tưởng đã
mở đường cho tinh thần mới của thời đại, trong đó Ph. Bacon và R. Descartes là một
trong những người tiên phong và có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử nhân loại. Hai
ông là những đại biểu xuất sắc đại diện cho hai trường phái triết học ở Tây Âu thời kỳ
cận đại.
Cả hai trường phái này đã đóng góp rất lớn cho việc phát triển khoa học, sự phát
triển của nhận thức và thúc đẩy xã hội phát triển, dẫn đến sự bùng nổ của các cuộc
cách mạng công nghiệp, kỹ thuật, công nghệ, dẫn đến sự ra đời kinh tế tri thức. Những
gợi mở đầy khát vọng, quyết liệt, mạnh mẽ về tri thức khoa học, phương pháp nhận
thức khoa học, về ứng dụng tri thức khoa học trong đời sống, về tiến bộ xã hội… đã
được triển khai không ngừng trong dòng chảy lịch sử của nhân loại, mở ra thời đại
hiện đại của văn minh trí tuệ, của kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức là tất yếu trên con
đường phát triển của nhân loại. Tiến hành xây dựng và phát triển kinh tế tri thức,
chúng ta trân trọng tư tưởng của các nhà triết học đi trước trên tinh thần kế thừa, học
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 17
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 17
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
hỏi và vận dụng theo quan điểm lịch sử – cụ thể, gắn lý luận với thực tiễn và phương
pháp luận biện chứng Mácxít.
Với những phân tích trên về hai trường phái lớn trong lịch sử triết học Phương Tây
nói riêng và lịch sử triết học Thế giới nói chung, chúng ta sẽ có một cái nhìn đúng đắn
và sâu sắc hơn về hai trường phái này. Từ đó, chắt lọc những tinh hoa, những ý tưởng
có tính thời đại để áp dụng vào cuộc sống thực tiễn ngày nay sao cho phù hợp, và loại
bỏ những tính chất siêu hình, cảm tính để đi tới một chân lý đúng đắn.
Một lần nữa, chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã hướng dẫn tôi làm tiểu luận
này, cảm ơn các bạn đã theo dõi.
Xin chân thành cảm ơn!
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 18
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 18
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học – Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (Phần I - Đại
cương về lịch sử triết học).
2. Lịch sử triết học – GS.TS Nguyễn Hữu Vui – NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội,
1998.
3. Đại cương lịch sử triết học Phương Tây – PGS.TS Đỗ Minh Hợp và PGS.TS
Nguyễn Thanh, TS. Nguyễn Anh Tuấn – NXB Tổng hợp TP.HCM.
4. Đại cương lịch sử triết học Phương Tây – PGS.TS Đinh Ngọc Thạch – Đại học
Tổng hợp TP.HCM, 1993.
5. Cùng nhiều tham khảo khác trên Tạp chí Triết học, Tạp chí khoa học xã hội và
các trang mạng online.
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 19
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 19
Tiểu luận triết học
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 20
HV thực hiện: Phạm Thị Mai Nhóm 11 – Lớp Đêm 1 – K22 20