Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT PHÁC VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.05 KB, 19 trang )



 ô 


!"#$%&
'()$'(*
+(,-
./0$ 1%23
/" 45'(
 67
8" 7
9 (:
8 77
;$6737<67
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
+4
Sau hơn 2500 năm tồn tại và phát triển, khởi nguồn từ các hệ thống tư duy lý
luận ở các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại vào khoảng thế kỷ VIII-VI
trước CN, triết học ngày càng đóng vai trò to lớn trong đời sống xã hội loài
người. Triết học không chỉ có vai trò to lớn đối với các nhà khoa học mà còn có
vai trò to lớn đối với rèn luyện năng lực tư duy của con người.
Nền triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản
hợp xướng của triết học phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm
tàng của triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương
Tây sau này. Chính vì vậy mà Ăngghen đã nhận xét: “Không có cơ sở văn minh
Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có Châu Âu hiện đại được”.
Trong đó, cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng nhất nguyên duy vật và nhất
nguyên duy tâm của giai đoạn cực thịnh đã để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch
sử triết học Hy Lạp cổ đại. Trong cuộc đấu tranh này, chủ nghĩa duy tâm ngày
càng thông minh, càng siêu hình tinh vi hơn, còn chủ nghĩa duy vật ngày càng


thực tiễn hơn, càng biện chứng mềm dẻo hơn. Nhờ vào cuộc đấu tranh không
ngừng giữa hai trường phái triết học này mà tư duy lý luận ngày càng được phát
triển hoàn thiện hơn. Tuy có nhiều điểm khác biệt, hệ thống tư duy lý luận đấu
tranh không ngừng nhưng xét trên nhiều khía cạnh, chúng ta vẫn thấy tồn tại
những điểm tương đồng giữa hai trường phái triết học này do chúng có điều kiện
ra đời, quá trình hình thành và phát triển tương đối giống nhau.
Vì vậy, nhóm 2 chúng tôi đã chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa triết
học duy vật chất phác và triết học duy tâm ở Hy Lạp thời cổ đại” để tìm hiểu
nhằm có cái nhìn sâu sắc hơn về hai trường phái triết học này. Việc nghiên cứu
đề tài này giúp chúng ta lý giải được nguồn gốc, điều kiện ra đời, quá trình hình
thành và xu hướng phát triển của hai trường phái triết học này, hiểu được lịch sử
tư tưởng từ các học thuyết nổi tiếng của các nhà Triết học Hy Lạp vĩ đại tiêu biểu
cho từng trường phái cũng như sự tương quan giữa hai trường phái trên.
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 1
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
#6 .=>5;$
$?#%.@(,
616ABCDAEFGHIJKLJMFJNJOFJ;PJQNNRASFITUNRAVNJWIXGYPIZ[YA
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài và
sâu sắc của các quan hệ xã hội. Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ có
khí hậu ôn hòa và rộng lớn bao gồm khu vực miền Nam bán đảo Bancăng, miền
ven biển phía Tây Tiểu Á và vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Êgiê. Sự thuận lợi về
thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng phát triển tất cả các
lĩnh vực nông nghiệp – thủ công nghiệp – thương nghiệp, mở rộng bang giao, tiếp
nhận nhiều giá trị văn hoá. Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để Hy
Lạp trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một nền công – thương nghiệp phát
triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú, đa dạng. Sự hình thành triết học Hy
Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa
những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại,

trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự nhiên).
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại ra đời từ thế kỷ VI trước CN và kéo dài
đến thế kỷ thứ IV. Sự phát triển của nó đã mở rộng sự phân công xã hội, tách lao
động trí óc khỏi lao động chân tay, điều này thúc đẩy sự hình thành tầng lớp trí
thức biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu triết học,
khoa học và sáng tạo văn học nghệ thuật. Sự xuất hiện của những trí thức khoa
học và triết học trong thời kỳ này đã tạo nên một bước ngoặt lớn về nhận thức
của con người, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Xuất phát từ
nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất, những tri thức về khoa học tự nhiên phát triển
mạnh, được trình bày trong hệ thống triết học – tự nhiên của các nhà triết học cổ
đại.
Trong thời đại này, người Hy Lạp đã xây dựng một nền văn minh vô cùng xán
lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Về văn học, người
Hy Lạp đã để lại một kho tàng thần thoại rất phong phú, những tập thơ chứa chan
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 2
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
tình cảm, những vở kịch hấp dẫn Thần thoại là nơi để con người tưởng tượng,
diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi thể hiện đời sống tâm
linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời sống thường ngày. Thần
thoại là nơi đầu tiên để tư duy triết học ra đời và từng bước triết học tách khỏi thần
thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con
người…
Về nghệ thuật, người Hy Lạp đã để lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa
có giá trị. Về luật pháp, người Hy Lạp đã sớm xây dựng một nền pháp luật và thực
hiện khá nghiêm tại thành bang Aten. Về khoa học tự nhiên, các thành tựu toán
học, thiên văn, vật lý được các nhà khoa học tên tuổi như Talét, Pytago,
Ácximét, Ơclít sớm phát hiện ra. Đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di
sản triết học đồ sộ và sâu sắc. Chúng là cơ sở hình thành nên nền văn minh
phương Tây hiện đại. Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ

đại là một tất yếu – đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. Mác
viết: “Các nhà triết học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm
của thời đại mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và
khó nhìn thấy nhất đã được suy tư trong các khái niệm triết học”.
617QI\AUA[]YFITUNRAVNJWIXYPIZ[YA
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với lịch sử ra đời của nền chính trị Hy lạp cổ
đại, mà đỉnh cao là nền dân chủ Aten và phản ánh lịch sử của đất nước này. Do
vậy, lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại có thể chia làm ba giai đoạn:
 AUA[]YFJMFJNJOFJ^NJVD_`
Đây là thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ mới hình thành. Do sự phát triển của sản
xuất, thế giới quan cũ có tính chất tôn giáo, thần thoại dần dần nhường chỗ cho
những hiểu biết khoa học về con người, về vũ trụ. Trên cơ sở đó, triết học với tư
cách là một khoa học bao quát mọi tri thức (khoa học của khoa học) ra đời.
 AUA[]YFIaINJHFJ^bcN[dCNeNJVD_`
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 3
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Đây là thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển đến hình thức cao và cũng là
thời kỳ phồn vinh của triết học cổ đại Hy Lạp. Thời kỳ này, đối tượng nghiên cứu
của triết học được mở rộng sang các vấn đề về kết cấu của vật chất, nhận thức
luận và đời sống chính trị. Trong đó sự đấu tranh giữa hai khuynh hướng nhất
nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm ở giai đoạn cực thịnh đã để lại dấu ấn
sâu đậm nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
 AUA[]YFKCXNOF^NeNJVD_NJf`
Đây là thời kỳ khủng hoảng và suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp.
Cùng với sự suy tàn đó, nền văn hoá mà nó sản sinh ra cũng suy tàn theo. Chiến
tranh, bạo lực, khó khăn ngập tràn đã đưa các nhà triết học giai đoạn này rời xa
các vấn đề siêu hình, phổ quát để đi vào các vấn đề thuộc về đời sống tình cảm,
nội tâm, ham muốn, dục vọng, họ chìm đắm trong suy tư về định mệnh, về sự
hòa đồng huyền diệu giữa con người và thần linh

61gQI[hI[ASiIjbkFITUNRAVNJWIXYPIZ[YA
Một là, triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan, ý thức hệ
và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị.
Hai là, trong nền triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa
các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần và gắn liền với sự
đấu tranh chính trị - tư tưởng; trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu
duy vật của Đêmôcrít và trào lưu duy tâm của Platông
Ba là, trong nền triết học Hy Lạp cổ đại đã xuất hiện phép biện chứng chất phác.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu và sử dụng phép biện chứng để nâng
cao nghệ thuật hùng biện, để bảo vệ quan điểm triết học của mình.
Bốn là, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng
hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế
giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong
nó.
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 4
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Năm là, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người, tìm cách mang lại cho con
người cuộc sống hạnh phúc. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều
quan niệm khác nhau về con người, cố lí giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể
xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ.
#7 $l$'()$
'(*
716RAVNJWImCXnoNIJpNPJQI
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milê – trường phái Hêraclít,
trường phái đa nguyên Empêđốc – Anaxago và đạt được đỉnh cao trong trường
phái nguyên tử luận Lơxíp – Đêmôcrít.
71616RqrF\PJQAAGs
Trường phái triết học Milê do ba nhà triết học: Talét, Anaximăngđrơ và
Anaximen xây dựng nên nhằm làm sáng rõ bản nguyên vật chất của thế giới. Đặc

điểm của trường phái này là đặt vấn đề: thực chất của thế giới là gì? Đóng góp
quan trọng nhất của trường phái này là đã đặt nền móng cho sự hình thành các
khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ sung và làm phong phú
thêm những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh của các
mặt đối lập…
Talét (624 – 547 TCN) xuất thân trong một gia đình thương gia giàu có, ông
không chỉ là nhà triết học mà còn là nhà toán học, nhà thiên văn học… Talét đặt
vấn đề thực chất của thế giới là một thứ vật chất: nước . Nước là yếu tố đầu tiên,
là bản nguyên của vạn vật; vạn vật bắt đầu từ nước và luôn quay trở về với nước;
không có nước thì không có gì cả. Về phương pháp tư tưởng, Talét đã quan niệm
được sự vật trong cái biến chuyển của nó: nước là chất động, chuyển thành các
chất khác.
Theo Anaximăngđrơ, apeiron là cái vô định hình, bởi vì nó chứa trong mình
những lực lượng đối lập nhau; chính sự đấu tranh của những lực lượng đối lập
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 5
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
này mà vạn vật có hình thể, tính chất khác nhau được sinh ra, và sau đó, các vật
đối lập nhau sẽ hủy diệt nhau để trở về với apeiron.
Về sau Anaximen cho vật chất là khí, khí có hai đặc điểm: phổ biến hơn nước,
nhưng nó vẫn có tính chất cụ thể. Do có năng lực tụ và tán mà không khí có thể
biến thành nước, đất, đá hay lửa.
71617RqrF\PJQAsRUIGtN
Do nhà ẩn dật Hêraclít sáng lập. Hêraclít (530 – 470 TCN) là một nhà biện chứng
nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại, ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc chủ
nô ở thành phố Êphétdơ. Ông sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ
các tư tưởng biện chứng chất phác từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản nguyên của
thế giới là lửa. Ông xem thế giới “vừa tồn tại vừa không tồn tại”, “không ai tắm
hai lần trong một dòng sông”, thế giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa
mang tính hài hòa vừa xung đột”. Hêraclít đã xây dựng những khái niệm căn bản

của biện chứng pháp: khái niệm vạn vật biến chuyển, mâu thuẫn nội bộ trong
mỗi vật, không phải là mâu thuẫn giữa cái này và cái kia, mà là trong sự đồng
nhất có mâu thuẫn mà chính nó đồng nhất là vì nó mâu thuẫn với nó.
7161gRqrF\PJQA[UF\CXsFuiPs[vIwFUxU\]
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật,
Empêđốc (490 – 430 TCN) và Anaxago (500 – 428 TCN) cố vượt qua quan niệm
đơn nguyên sơ khai của các trường phái như Milê – trường phái Hêraclít, xây
dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng. Theo
Empêđốc, có 4 nhân tố: lửa - khí - nước - đất, chịu sự tác động của hai loại lực là
tình yêu và thù hận. Yêu thì hợp nhau, ghét thì xa nhau do vậy các nhân tố tổng
hợp và giải tán tùy theo yêu và ghét. Dựa trên quan điểm này, Empêđốc cho rằng
vũ trụ vận động phát triển với quy trình gồm bốn giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Tình yêu chiến thắng và ngự ở tâm vũ trụ, đẩy hận thù ra ngoài
biên, vũ trụ như quả cầu duy nhất, đồng nhất, thống nhất, không phân chia.
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 6
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
+ Giai đoạn 2: Hận thù tiến vào tâm vũ trụ, đẩy tình yêu ra khỏi tâm, vũ trụ bắt
đầu phân hóa.
+ Giai đoạn 3: Hận thù chiến thắng và ngự ở tâm vũ trụ, đẩy tình yêu ra ngoài
biên, vũ trụ hoàn toàn bị phân hóa thành bốn yếu tố lửa - khí - nước - đất.
+ Giai đoạn 4: Tình yêu tiến dần vào vũ trụ, đẩy hận thù khỏi tâm và kết hợp với
bốn yếu tố lửa - khí - nước - đất tạo nên hay làm mất đi sự vật.
Cũng theo trường phái đa nguyên nhưng Anaxago cho rằng vạn vật được sinh ra
từ những cái tương tự như chúng mà ông gọi là hạt giống, cực nhỏ và có thể phân
chia đến vô tận. Sự biến hóa về chất của vạn vật là kết quả thay thế phần lớn các
hạt giống trong chúng. Dưới tác động của Nus – trí tuệ thuần túy hay linh hồn
của thế giới mà các hạt giống sinh sôi, nảy nở và thay thế cho nhau. Theo
Anaxago, mầm nào sẽ sinh giống nấy, nhưng mỗi hạt giống sẽ chứa tất cả các hạt
giống khác ở liều lượng nhỏ hơn.

7161:RqrF\PJQAF\CXsFNLGCoFjxtPwsiyIRtN
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy lạp cổ đại với Lơxíp là
người sáng lập và Đêmôcrít là người kế thừa và phát triển. Theo Lơxíp và
Đêmôcrít, cơ sở biến chuyển bất sinh bất tử là nguyên tử. Lần đầu tiên tư tưởng
duy vật Hy Lạp đạt tới một khái niệm vật chất thoát khỏi cảm tính trực quan, quy
định vật chất một cách khoa học, chính xác, bằng khối và hình. Lơxíp (500 – 440
TCN) cho rằng cái tồn tại (nguyên tử) tồn tại nhưng cái không tồn tại (chân
không) cũng tồn tại. Nguyên tử và chân không cùng là khởi nguyên của thế giới.
Kế thừa tư tưởng của người thầy Lơxíp, Đêmôcrít (460 – 370 TCN) đã phát triển
học thuyết nguyên tử lên một trình độ mới. Là một trong những nhà duy vật lớn
nhất thời cổ đại, Đêmôcrít cho rằng tất cả mọi vật đều hình thành từ những
nguyên tử, đó là phần tử vật chất bé nhỏ, là cơ sở của mọi vật, không phân chia
được nữa và không thể cảm nhận được bằng trực quan. Tính đa dạng của các
nguyên tử giải thích tính đa dạng muôn vẻ của các sự vật trong thế giới vật chất.
Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcrít là quyết định luận (thừa nhận
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 7
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
nguyên tử vận động trong chân không theo luật nhân quả và tính quy luật của các
hiện tượng tự nhiên).
717RAVNJWImCXNzi
Giai đoạn Hy Lạp cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường phái
triết học Pytago, trải qua trường phái duy lý Êlê và đạt được đỉnh cao trong
trường phái duy tâm khách quan của Xôcrát – Platông, tức thế giới ý niệm.
71716RqrF\PJQAXNU\]
Xuất phát từ quan điểm đạo đức phải phục tùng tôn giáo để cùng thống trị thiên
hạ và qua đó lý giải tính thống nhất của thế giới mà Pytago đã đặt nền móng cho
chủ nghĩa duy tâm thời cổ Hy Lạp. Pytago (571 – 497 TCN) là nhà triết học, toán
học uyên bác, sinh ra và lớn lên ở vùng Tiểu Á. Do ảnh hưởng của toán học, ông
cho rằng “con số” là bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Một vật

tương ứng với một con số nhất định, con số có trước vạn vật. Pytago coi linh hồn
bất tử tồn tại độc lập với thể xác và chịu sự chi phối bởi luật luân hồi.
71717RqrF\PJQA/Gs
Trường phái Êlê do Xênôphan thành lập theo tinh thần duy vật, nhưng sau đó
được Pácmênic phát triển theo tinh thần duy lý ngả về khuynh hướng duy tâm
khi dựa trên khái niệm nền tảng – tồn tại. Điều này đã mở ra một giai đoạn mới
trong sự phát triển tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại coi cái khởi nguyên của thế
giới không phải là một sự vật cụ thể mà là tồn tại.
Xênôphan (570 – 478 TCN) là bạn của Talét nên chịu ảnh hưởng của nhà triết
học này. Ông cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng cũng trở về với
đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài.
Ông cho rằng, nhận thức cảm tính nếu không sai lầm thì cũng không đầy đủ.
Bằng cảm tính, chúng ta không thể nhận thức được bản chất sự vật. Muốn nhận
thức được bản chất sự vật phải dựa vào tư duy, lý tính.
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 8
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Pácmênic (500 – 449 TCN) xuất thân trong một gia đình trí thức giàu có ở Êlê.
Ông cho rằng, tồn tại là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật trong
thế giới, bản chất của sự tồn tại là bất biến, vĩnh hằng, đơn nhất và tồn tại – bản
chất của vạn vật chỉ có thể được nhận thức bởi tư duy lý tính. Theo Pácmênic, có
hai cách nhận thức thế giới là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tồn tại là
một phạm trù triết học mang tính khái quát cao, và nhận thức bởi tư duy lý tính.
Quan niệm tồn tại đã đánh dấu một giai đoạn mới trong phát triển triết học Hy
Lạp cổ đại.
Dênông (490 – 430 TCN) là người bảo vệ nhiệt thành trường phái Êlê. Ông đưa
ra những apôri nghĩa là tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua
chúng, ông chứng minh rằng, “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”, còn
tính phức tạp, đa dạng và vận động của thế giới là không thực, không thể dùng
trực quan cảm tính để nhận thức sự vật, mà phải dùng tư duy trừu tượng mới thấy

được thực chất sự vật là gì.
7171gRqrF\PJQAmCXNziDJQIJ{CUFITU|yIRQNwGUNyF\
Trường phái này thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống
lại nền dân chủ Athen và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử
luận. Được xây dựng bởi Xôcrát và Platông, học trò của ông, hoàn thiện.
Xôcrát (469 – 399 TCN), khác với nhiều nhà triết học khác, không chủ trương
nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn thời gian nghiên cứu về con
người, đạo đức. Xuất phát từ đạo đức học duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ sở
của điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác, và chỉ có cái thiện phổ biến mới
là cơ sở của đạo đức, mới là tiêu chuẩn của đức hạnh.
Platông (427 – 347 TCN), xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Athen.
Ông trở thành nhà triết học kiệt xuất nhất thời cổ đại Hy Lạp bởi quan niệm triết
học duy tâm khách quan. Ông đã xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với
nội dung chính là “thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của
khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 9
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Trong thuyết ý niệm, Platông chia thế giới ra thành thế giới ý niệm và thế giới sự
vật. Theo Platông, sự sinh thành thế giới sự vật xảy ra gắn liền với bốn yếu tố cơ
bản là tồn tại, không tồn tại, con số và sự vật cảm tính. Đối với ông, thần linh là
thước đo của vạn vật, Platông cho rằng con người là sự kết hợp của thể xác khả
tử với linh hồn bất tử. Linh hồn của con người là sản phẩm của linh hồn vũ trụ,
bao gồm ba bộ phận: cảm nhận, ý chí và lý trí. Hoạt động cơ bản của con người
là nhận thức. Nhận thức chân lý là cơ sở để con người có được hành vi đạo đức,
và hành vi đạo đức của con người là chỗ dựa cho các hoạt động chính trị - xã hội.
#g "#$%&
'(*$'(*+(
,
g16aNqjF\[}F\

Trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại luôn có sự đấu tranh không ngừng giữa hai
trường phái triết học duy vật chất phác và triết học duy tâm, tuy nhiên, giữa hai
trường phái này vẫn tồn tại nhiều điểm tương đồng khi chúng ra đời, hình thành
và phát triển trong cùng một điều kiện lịch sử, tại một quốc gia nhờ có điều kiện
tự nhiên thuận lợi đã sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có nền công –
thương nghiệp phát triển, có nền văn hóa tinh thần phong phú, đa dạng, sớm hội
tụ đủ các điều kiện cho khoa học và triết học hình thành và phát triển rực rỡ.
Trong những nền văn minh cổ đại rực rỡ mà ngày nay người ta biết được thì nền
văn minh Hy Lạp xuất hiện muộn hơn cả, nhưng nó lại rất phong phú, đặc biệt là
về triết học. Điều đó có thể giải thích bằng tính chất điển hình của chế độ chiếm
hữu nô lệ ở đây. Hy Lạp đã có một chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển tới hình
thức cao. Sự phát triển của nó đã mở rộng sự phân công xã hội, tách lao động trí
óc khỏi lao động chân tay, tạo điều kiện cho tầng lớp trí thức chủ nô nghiên cứu
triết học, khoa học và sáng tạo văn học nghệ thuật. Vì vậy, cả hai trường phái
triết học duy vật và duy tâm ở Hy Lap cổ đại đều gắn liền với lịch sử ra đời của
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 10
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
nền chính trị Hy Lạp cổ đại và phản ánh lịch sử của đất nước này, chúng đều trải
qua ba giai đoạn: giai đoạn hình thành, giai đoạn cực thịnh và giai đoạn suy tàn.
Do triết học thời kỳ Hy Lạp cổ đại được nghiên cứu bởi tầng lớp trí thức chủ nô
nên trường phái triết học duy vật chất phác và triết học duy tâm đều giống nhau ở
chỗ nó thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan, ý thức hệ và phương pháp luận
của giai cấp chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự
xã hội, là công cụ nô dịch, đàn áp các giai cấp khác về mặt tư tưởng, củng cố vai
trò thống trị của mình. Điều đó thể hiện rõ nét trong tư tưởng của hai nhà triết
học Đêmôcrít – tiêu biểu cho trường phái duy vật chất phác và Platông – tiêu
biểu cho trường phái duy tâm đối với vấn đề chính trị - xã hội, họ đều đứng trong
lập trường của giai cấp chủ nô thống trị, đề cao vai trò của giai cấp chủ nô và của
Nhà nước, đồng thời xem thường vai trò của tầng lớp nô lệ, đặc biệt là Platông,

với ông, nô lệ không phải là người mà chỉ là động vật biết nói, không có đời sống
đạo đức.
Về nội dung nghiên cứu, cả hai trường phái triết học đều hướng sự quan tâm về
giới tự nhiên và vũ trụ, cố gắng lý giải bản chất, khởi nguyên của thế giới, tập
trung nghiên cứu về con người, về nhận thức, về quan hệ giữa linh hồn và thể
xác, về đời sống đạo đức - chính trị - xã hội của con người.
Khi bàn về vấn đề con người, cả hai trường phái triết học duy vật chất phác và
triết học duy tâm ở Hy Lạp cổ đại đều rất coi trọng vấn đề con người. Các nhà
triết học duy vật và duy tâm đã đưa ra rất nhiều quan điểm khác nhau về con
người, cố lí giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức –
chính trị - xã hội của con người. Dù vẫn còn nhiều bất đồng, song nhìn chung,
các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa. Về
mặt nhận thức luận, khi bàn về vấn đề “tư duy con người có khả năng nhận thức
được thế giới hay không”, đa số các nhà triết học đều khẳng định con người có
khả năng nhận thức được thế giới, tuy nhiên, trong khi các nhà triết học duy vật
chất phác quan niệm con người có khả năng nhận thức thế giới, có khả năng đạt
được chân lý khách quan thông qua nhận thức cảm tính thì các nhà triết học duy
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 11
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
tâm lại đề cao nhận thức lý tính, coi thường nhận thức cảm tính, vì họ cho rằng
nhận thức cảm tính chỉ mang lại những kiến giải sai lầm, ảo giả về thế giới sự
vật.
g17aDJQIbAEN
Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học duy vật của Đêmôcrít và triết học
duy tâm của Platông đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong lịch sử triết học Hy
Lạp cổ đại, đồng thời cũng thể hiện rõ nét sự khác biệt giữa hai trường phái chủ
nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy tâm trong thời đại này.
 BnpF[B{CUFJE\A~UNqmCXnON}FNYA
Khi bàn về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất đã thể hiện

sự khác biệt cơ bản giữa hai trường phái triết học Hy Lạp cổ đại: duy vật chất
phác và duy tâm; nếu như các nhà triết học duy vật cho rằng bản chất của thế giới
là vật chất, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất có trước và
quyết định ý thức thì các nhà triết học duy tâm lại quan điểm: bản chất của thế
giới là tinh thần, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai, ý thức có trước
và quyết định vật chất.
 BnpF[BDJ•AF\CXsFITUNJV\A€A
Như đã trình bày ở trên, theo quan điểm của trường phái triết học duy vật chất
phác thì bản chất của thế giới là vật chất, thế giới khởi nguồn từ vật chất, với
Talét thì đó là nước, với Hêraclít là lửa, theo Empêđốc là 4 nhân tố: lửa - khí -
nước - đất. Còn Đêmôcrít quan niệm rằng nguyên tử và khoảng trống là cơ sở
đầu tiên cấu tạo nên mọi vật. Ông quan niệm sinh vật biết đổi là do sự sắp xếp
của các nguyên tử.
Đối với các nhà triết học theo trường phái duy tâm thì thế giới khởi nguồn từ ý
thức, tinh thần là bản chất của thế giới. Do ảnh hưởng của toán học, Pytago cho
rằng “con số” là bản nguyên của thế giới, là bàn chất của bạn vật; còn đối với
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 12
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Pácmênic thì đó là “tồn tại”. Đến thời đại của Platông, ông cho rằng ý niệm là
nguồn gốc sinh ra thế giới. Ý niệm tồn tại ngoài con người, ngoài cảm giác của
con người. Platông thừa nhận có hai thế giới tồn tại: thế giới ý niệm, là thế giới
tồn tại vĩnh viễn, bất biến, bất động, tuyệt đối chân thực; và thế giới sự vật cảm
tính là thế giới tồn tại không chân thực, luôn luôn biến đổi, là cái bóng của ý
niệm, do ý niệm sản sinh ra, phụ thuộc vào ý niệm.
 Bn•NR‚
Về vũ trụ thì các nhà triết học duy vật chất phác cho rằng vũ trụ là vô tận, vĩnh
cửu; có vô số thế giới phát sinh, phát triển và tiêu diệt. Trường phái triết học duy
tâm thì ngược lại, họ cho rằng vũ trụ này không tồn tại thực, tất cả chỉ là sự phức
hợp của ý niệm, của tinh thần; do ý niệm quy định, do thượng đế quyết định và

không tồn tại.
 BnpF[BGAFJJ}F 
Trường phái triết học duy vật chất phác đã bác bỏ quan niệm về sự sản sinh ra sự
sống và con người của thần thánh. Theo các nhà triết học duy vật thì sự sống là
kết quả biến đổi dần dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Đêmôcrít còn phân biệt rõ
ràng sự vật và sinh vật khác nhau ở chỗ sự vật không có linh hồn, còn sinh vật có
linh hồn: linh hồn được cấu tạo bởi các nguyên tử hình cầu, giống như nguyên tử
của lửa vận động với vận tốc cao. Nguyên tử linh hồn sinh ra nhiệt, nhiệt làm cho
cơ thể hưng phấn và vận động. Ông coi cái chết là sự phân tán của các nguyên tử
cấu tạo nên thể xác và các nguyên tử cấu tạo nên linh hồn chứ không phải là linh
hồn rời khỏi thể xác.
Trong khi đó, các nhà triết học theo trường phái duy tâm lại cho rằng con người
bao gồm linh hồn và thể xác tồn tại độc lập với nhau. Theo Platông, “Linh hồn
của con người là một bộ phận của linh hồn vũ trụ do thượng đế sáng tạo ra do đó
nó bất tử và tồn tại vĩnh hằng”. Khi con người chết, linh hồn sẽ thoát ra khỏi con
người và bay lên trú ngụ ở một vì sao. Khi thể xác mới ra đời, linh hồn bay
xuống nhập vào thể xác đó và tạo ra con người hoàn chỉnh bao gồm cả linh hồn
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 13
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
và thể xác. Trong khi bay xuống nhập vào thể xác con người, linh hồn đã lãng
quên hết quá khứ. Vì thế, nhận thức của con người thực chất chỉ là sự hồi tưởng,
sự nhớ lại của linh hồn về những điều mà nó đã lãng quên.
 BnpF[BFJoFNJfI 
Theo chủ nghĩa duy vật chất phác, mà tiêu biểu là Đêmôcrít, sở dĩ con người có
những cảm giác khác nhau về màu sắc, mùi vị, âm thanh, nóng lạnh là do những
nguyên tử phối hợp tạo nên chủ thể nhận thức. Điều đó có nghĩa là đối tượng của
nhận thức là vật chất thế giới xung quanh con người và nhờ sự tác động của đối
tượng nhận thức vào con người nên con người mới nhận thức được. Trong đó
cảm giác là bước đầu của nhận thức. Đêmôcrít quan niệm bề ngoài của sự vật

toát ra những hơi thở tinh tế tạo thành hình ảnh của chúng, những hơi thở tinh tế
đó tác động vào cơ quan cảm giác của con người làm cho mọi người cảm nhận
được sự vật.
Còn đối với trường phái duy tâm, họ cho rằng chỉ có nhận thức lý tính mới có thể
khám phá ra bản chất đích thức của thế giới, phát hiện ra chân lý; nhận thức cảm
tính không bao giờ có thể đạt tới tri thức chân thực của thế giới mà chỉ mang lại
sai lầm, ảo giả. Nếu như các nhà triết học duy vật đề cao vai trò của nhận thức
cảm tính thì các nhà triết học duy tâm hoàn toàn ngược lại; họ đề cao vai trò của
nhận thức lý tính và hạ thấp vai trò của nhận thức cảm tính, họ cho rằng nhận
thức chẳng qua chỉ là sự hồi tưởng, nhớ lại những ý niệm.
 B{CUF[ASiIJtFJNRHƒx„J…A
Cuối cùng, về quan điểm chính trị - xã hội thì trường phái duy vật chất phác
đứng về lập trường của phái chủ nô dân chủ, kịch liệt chống lại phái chủ nô quý
tộc. Tiêu biểu là Đêmôcrít, ông ra sức bảo vệ và tuyên truyền cho chế độ dân chủ
của chủ nô. Ông ca ngợi, cổ vũ tinh thần thân ái, tính ôn hoà, lợi ích chung và
quyền lợi chung của công dân tự do. Ông đề cao Nhà nước, chính Nhà nước
đóng vai trò duy trì trật tự và điều hành xă hội.
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 14
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Còn trường phái triết học duy tâm, mà tiêu biểu là Platông, lại đề cao vai trò của
chế độ quý tộc, đứng trên lập trường của phái chủ nô quý tộc chống lại chế độ
dân chủ tiến bộ của xã hội. Platông chủ trương duy trì các hạng người trong xã
hội, cũng có nghĩa là duy trì sự bất bình đẳng giữa mọi người. Nhà nước ra đời là
để đáp ứng những nhu cầu đó. Theo Platông, hình thức cộng hoà là “Nhà nước lý
tưởng”, trong đó quyền thống trị tuyệt đối thuộc về tầng lớp chủ nô quý tộc. Nhà
nước, đó là hiện thân của cả ba đức tính: thông thái, can đảm và thận trọng.
Trong “Nhà nước lý tưởng”, Platông chia xã hội ra thành 3 đẳng cấp dựa vào đặc
trưng đạo đức. Đẳng cấp thứ nhất là các nhà triết học, các nhà thông thái, giữ vai
trò lănh đạo xã hội; đẳng cấp thứ hai là quân nhân có trách nhiệm bảo vệ “Nhà

nước lý tưởng”; đẳng cấp thứ ba là dân lao động tự do, thợ thủ công và những
người tự do khác làm ra sản phẩm nuôi sống Nhà nước.

Triết học Hy Lạp cổ đại được xem là thành tựu rực rỡ của văn minh phương Tây,
là những viên gạch đầu tiên xây nên toàn bộ ngôi nhà văn minh của Châu Âu
ngày nay. Sự xuất hiện của những tri thức khoa học và triết học trong thời kỳ này
đã tạo nên một bước ngoặt lớn về nhận thức của con người, phá vỡ ý thức hệ
thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã
có sự gắn bó với nhu cầu thực tiễn và gắn với khoa học. Các nhà triết học sau này
đã nhìn thấy ở triết học Hy Lạp cổ đại mầm mống của tất cả các kiểu thế giới
quan sau này và xem nó là một đỉnh cao của triết học nhân loại.
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với nền chính trị và chế độ chiếm hữu nô lệ tồn
tại ở Hy Lạp lúc bấy giờ, trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm từ lúc hình thành,
cực thịnh cho đến khi suy tàn, trong suốt quá trình ấy, nền triết học Hy Lạp luôn
tồn tại sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật –
duy tâm, vô thần – hữu thần và gắn liền với sự đấu tranh chính trị - tư tưởng;
trong đó, đặc biệt là cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học duy vật chất
phác và triết học duy tâm đã để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử triết học Hy
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 15
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Lạp cổ đại, với hai tên tuổi tiêu biểu đại diện cho hai trường phái là Đêmôcrít
cho trường phái duy vật và Platông cho trường phái duy tâm.
Tuy luôn xảy ra sự đấu tranh, bất đồng tư tưởng về quan điểm khởi nguyên thế
giới, vũ trụ, về nhận thức, con người và về quan điểm chính trị - xã hội nhưng
đồng thời, hai trường phái duy vật – duy tâm cũng tồn tại những nét tương đồng
về điều kiện lịch sử hình thành và phát triển, về đối tượng nghiên cứu Việc
nghiên cứu, phân tích những nét tương đồng và khác biệt giữa hai trường phái
triết học cổ đại này giúp chúng ta hiểu thêm tư tưởng học thuyết của các nhà triết
học vĩ đại thời đại này, đồng thời bổ sung, hoàn thiện thêm tư duy lý luận làm

nền tảng, cơ sở hiểu biết để nghiên cứu, khám phá những vấn đề mang tính lý
luận trong thực tiễn, trong cuộc sống chúng ta.
00

 !"#$%
&'()*)+
, /,01234567581595:15;5<99=,>14?@9=,A95B4C2D;4EFD,+
+<4G,@,FHD14?@9=,A95B4CD;4EFD,I
I<4FJ4F,>K4LMN14?@9=,A95B4CD;4EFD,O
+PQ "&'R( ST &'R(UV
+=,A95B4W.CXY945Z9;5<4V
+=[\1G;5<,,2]V
+I=[\1G;5<,F@1G.C]1^K;]F_4`%1@a@GHb
+O=[\1G;5<,1G.C]1972.Y1Lac;`]Kd4=c9e
++=,A95B4W.C9fKg
++=[\1G;5<,C9@GHg
+++=[\1G;5<,h2]g
++I=[\1G;5<,W.C9fK/5<45i.@14?@jd4=<9`2@9d1Gk
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 16
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Ilm P#no%&R( SU &
'R(U()*)p
Iq9[L1GFr1Gp
I+q/5<4M,09+
P&SV
=,A95B4CD;4EFD,F[s4atK2:95:159q.=q4=u4?@Xv1K,15;5[L1GfC2:15w1GX,]1
GD45Fx.y]1afC1]19H:1Mz1Gd,15:Xv1K,154?@5f.U.1G:C1@Cqa.Z95,014?@
15w1G9=,95{4/5H@5B4X:9=,A95B49=H1G95\,/|1:CF}9DH1]1Kz9M[~41GHJ92~1X-15Y1
95{44?@4H11G[\,;5<Xu•95{45095x195HD,X:9d1G,<H1G.C]195.€9=,A95B4CD;4E

FD,1G@C9•/5,=@F\,F}4‚6qGƒ1M‚X~,15.4x.95q4y„1X:Gƒ1X~,/5H@5B4<415:9=,A9
5B46@.1:CF}158195ZC…9=,A95B4CD;4EFD,KxKK_1G4?@9Z94N4<4/,>.95AG,~,i.@1
6@.1:CX:atK1‚2:Kz9F†154@H4?@9=,A95B415f12HD,V
‡‡b
n%Pe
.
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính Trị
Quốc Gia (tái bản lần thứ 2), 2005.
2. Học Viện chính trị, Đề cương bài giảng Triết học Mác – Lênin, NXB Chính
Trị Hành Chính, 2009.
3. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch sử Triết học phương Tây, NXB Tổng hợp TP HCM,
2006.
4. Tiểu ban Triết học trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, Triết học phần I:
Đại cương về lịch sử triết học, 2011.
5. />su-doi-lap-giua-quan-diem-duy-tam-va-quan-diem-duy-vat-phan-1-a.html
6. />7. />HVTH: Trần Đình Duy
Page | 17
Tiểu luận triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
8. />%C6%B0%C6%A1ng-t%C3%A2y?p=3#!p=1
9. />%E1%BA%ADt-bi%E1%BB%87n-ch%E1%BB%A9ng?p=3#!p=1
HVTH: Trần Đình Duy
Page | 18

×