Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận Triết học So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.72 KB, 15 trang )

Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia
Chương I: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI
Đề tài tiểu luận: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và triết
học Pháp gia thời Trung Quốc cổ đại.
Trung Quốc là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á. Lịch sử Trung
Quốc cổ đại đầy biến động được tiếp nối bởi thời trung đaih khá huy hoàng.
Mặc dù xã hội đầy biến động nhưng trong sự biến động đó, nhân dân Trung
Hoa đã tạo nên một nền văn hóa rất rực rỡ. Nhiều hệ thống triết học đã ra đời và
phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải quyết khác nhau cho những vấn đề
thực tiễn chính trị - đạo đức – xã hội mà thời đại đặt ra. Mặt khác, triết học Trung
Hoa cổ đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề con người; vì vậy, vấn đề
về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất (Thiên – Nhân – Địa) là vấn đề mang tính
xuất phát và xuyên suốt qua toàn bộ nền triết học này. Trong quá trình tồn tại và
phát triển của mình, các trường phái triết học Trung Hoa cổ đại không chỉ phê phán,
xung đột nhau mà còn biết hấp thụ những tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh
lý luận của chính mình và chịu ảnh hưởng ít nhiều bởi tư tưởng biện chứng trong
kinh Dịch. (1)
Nổi bật trong nền triết học Trung Hoa cổ đại là tư tưởng triết học Nho gia và
Pháp gia. Hai tư tưởng lớn này đã phát triển trong những bước thăng trầm theo dòng
lịch sử Trung Hoa và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nhân dân cũng như sự cai trị
của các triều đại vua chúa. Ngày nay, hai tư tưởng Nho gia và Pháp gia vẫn giữ lại
được những giá trị tích cực và quan trong trong đời sống tinh thần và văn hóa của
nhân dân Trung Hoa.
Đề tài tiểu luận nhằm nêu bật những đặc điểm riêng của triết học Nho gia và
Pháp gia để từ đó phân tích những nét tương đồng và khác biệt của hai tư tưởng này.
Trong quá trình thực hiện đề tài tiểu luận có sử dụng tài liệu tham khảo chính là sách
triết học dùng cho học viên cao học của Trường Đại Học Kinh Tế Thành phố Hồ
Chí Minh và một số bài phân tích, tổng hợp trên mạng internet.
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 1
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia


Chương II: NHO GIA
2.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển Nho gia
Nho gia là một trường phái triết học lớn được hoàn thiện liên tục và có ảnh
hưởng sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng, của
nhiều quốc gia phương Đông nói chung.
Nho gia được sáng lập bởi Khổng Tử (551 – 479 TCN) vào cuối thời Xuân
Thu. Ông là người rất quan tâm đến các vấn đề đạo đức – chính trị - xã hội. Ông coi
hoạt động đạo đức là nền tảng của xã hội, là công cụ đề gìn giữ trật tự xã hội và
hoàn thiện nhân cách cá nhân cho con người.Thời trẻ, Khổng Tử phải chịu nhiều
khó khăn, vất vả. Ông vừa dạy học vừa nghiên cứu về Đạo của Nghiêu, Thuấn và
Chu Công. Sau nhiều lần ra chốn quan trường nhưng không đạt được sở nguyện,
ông đã tập trung san định lại các sách cổ như: Kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và
soạn bộ Xuân Thu, người sau gọi là Lục Kinh. Sau này học trò của ông đã soạn lại
bộ Trung Dung, Luận Ngữ và Đại học để truyền đạo. (2)
Đến thời Chiến Quốc, do bất đồng về bản tính con người mà Nho gia bị chia
thành tám phái, trong đó có phái của Tuân Tử và phái của Mạnh Tử là mạnh nhất.
Mạnh Tử đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Nho gia nguyên thủy,
ông đã khép lại một giai đoạn quan trọng, gia đoạn hình thành Nho gia; vì vậy, Nho
gia Khổng – Mạnh còn được gọi là Nho gia nguyên thủy hay Nho gia tiên Tần. (1)
Kinh điển của Nho gia gồm hai bộ là Bộ Ngũ kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân
Thu) và Bộ Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử). (1)
2.2. Cơ sở xây dựng và nội dung cơ bản của triết học Nho gia
Nho giáo nguyên thủy là triết lý của Khổng Tử và Mạnh Tử về đạo làm người
quân tử và cách thức trở thành người quân tử, cách cai trị đất nước.
Khổng Tử – người sáng lập Nho gia – tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị
đất nước chính là tự chế ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính
quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Trong tư tưởng của
Nho gia luôn đặt ra yêu cầu về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và chính danh. Yêu cầu sống
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 2
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia

theo lối người xưa theo tam cương, ngũ thường. Thu phục nhân tâm bằng đức của
chính mình. Nếu lấy sức mạnh mà bắt người ta làm thì họ sẽ làm nhưng tâm không
phục, còn lấy đức khuyến khích người ta làm thì họ sẽ làm và tâm họ phục theo.
“Bản thân mà chính đáng thì không cần mệnh lệnh, người khác cũng thi hành” (Kỳ
thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng. Luận Ngữ. Tử
Lộ), có như vậy mới đưa xã hội vào ổn định.
2.3. Nội dung tư tưởng triết học cơ bản của Nho giáo nguyên thủy
Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng của gia đình – xã hội là những quan
niệm đạo đức – chính trị, đặc biệt là ba quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ.
Các quan hệ này được Nho gia gọi là đạo. Khi các quan hệ này chính danh (vua ra
vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ) thì xã hội ổn định,
gia đình yên vui và ngược lại…Xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc loạn lạc, luân
thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lỏng lẻo là do ba quan hệ này rối loạn,
do danh – thực oán trách nhau. Vì vậy, muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã
hội đại đồng thì phải chấn chỉnh lại ba quan hệ đó. Để chấn chỉnh lại ba quan hệ đó,
Nho gia nguyên thủy lấy giáo dục đạo đức làm cứu cánh. (1)
Khổng Tử ít quan tâm đến vấn đề nguồn gốc của vũ trụ nên quan điểm của
ông về trời – đất, quỷ - thần không rõ ràng. Tuy nhiên, để tìm chỗ dưạ vững chắc
cho lý luận đạo đức của mình, Khổng Tử và cả Mạnh Tử đều xây dựng thuyết thiên
mệnh. Dựa trên thuyết thiên mệnh, Khổng Tử cho rằng: Thiên mệnh chi vị tính, xuất
tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo, và Tính tương cận, tập tương viễn. Điều này có
nghĩa là: Con người có tính người, tính người do trời phú, sự phú các tính ấy về cơ
bản là đồng đều ở mỗi con người. Nhưng trong cuộc sống, do điều kiện, hoàn cảnh,
môi trường khác nhau, do những tập quán, tập tục không giống nhau mà người này
khác người kia. Vậy, tập là điều kiện, hoàn cảnh, là nguyên nhân làm biến tính ở
mỗi con người, làm cho con người không giữ được tính do trời phú cho, làm cho con
người trở nên vô đạo; rồi cả nước, cả thiên hạ vô đạo. Vì vậy, muốn giữ được tính
cho con người phải lập đạo; nghĩa là phải làm (giáo dục) cho cả nước, cả thiên hạ
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 3
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia

hữu đạo. Đạo phải có giáo mới sâu sắc, vững chắc và rộng khắp. Còn mục đích của
giáo là làm cho mọi người, mọi nhà, cả thiên hạ hữu đạo. Hữu đạo là thế hiện được
mối quan hệ giữa người và người, giữa người và trời đất – vạn vật một cách đúng
đắn, nghĩa là phù hợp với thiên mệnh, mà thực chất là làm theo các nguyên tắc,
phương châm cơ bản của nho gia. Khổng Tử cho rằng, nếu lập đạo của trời, nói về
âm và dương; lập đạo của đất, nói về cương và nhu; thì lập đạo của người, phải nói
về nhân và nghĩa. (1)
Quan niệm về nhân và nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo đức Nho gia
nguyên thủy, chúng hợp với các quan niêm khác tạo thành hệ thống phạm trù đạo
đức của phái này: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng…
Những phạm trù đạo đức thể hiện các nguyên tắc cơ bản của đạo đức Nho
giáo – đạo đức hướng đến xây dựng mẫu người quân tử. Lấy tu thân làm gốc nhưng
người quân tử phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Để hành động hiệu
quả người quân tử phải thực hành đường lối nhân trị (cai trị bằng tình người, bằng
sự yêu người, coi người như bản thân mình…) và chính danh. Chỉ có như vậy thì
người quân tử - giai cấp cai trị mới xây dựng được một xã hội đại đồng. (1)
Nho gia nguyên thủy khao khát cải biến xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc từ
loạn thành trị là một khao khát thầm kín của cả thiên hạ lúc bấy giờ. Nó thể hiện tính
nhân bản sâu sắc. Đòi hỏi của Nho giáo nguyên thủy về người cai trị - người quân tử
không thể là dân võ biền mà phải là người có một vốn văn hóa toàn diện là một đòi
hỏi chính đáng. Nhưng chủ trương xây dựng một xã hội đại đồng của Nho giáo hoàn
toàn không dựa trên các mối quan hệ kinh tế - xã hội, không xuất phát từ việc xây
dựng nền sản xuất vật chất, không dựa vào quần chúng nhân dân bị trị, tức “bọn”
tiểu nhân, mà chỉ dựa trên các quan hệ đạo đức – chính trị - xã hội, xuất phát từ việc
giáo dục, rèn luyện nhân cách cá nhân cho tầng lớp thống trị và chỉ dựa duy nhất vào
tầng lớp thống trị là một chủ trương duy tâm, ảo tưởng, xa rời thực tế cuộc sống bấy
giờ. Ý tưởng về xã hội đại đồng cho dù đã làm lay động trái tim và khối óc của biết
bao con người, nhưng nó mãi mãi chỉ là một lý tưởng chính trị rất cao đẹp của tầng
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 4
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia

lớp phong kiến thống trị xã hội Trung Quốc. Do không phù hợp với ước vọng của
quần chúng nhân dân, nó mãi mãi chỉ là một lý tưởng. Dù vậy, Nho gia nguyên thủy
Khổng – Mạnh chứa đựng nhiều giá trị nhân bản và toát lên tinh thần biện chứng sâu
sắc. Điều này không có trong Nho giáo hậu Tần. Nho gia nguyên thủy đã làm nổi
bật khía cạnh xã hội của con người; tuy nhiên, khía cạnh xã hội của con người đã bị
hiểu một cách hạn chế và duy tâm.
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 5
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia
Chương III: PHÁP GIA
3.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Pháp gia
Pháp gia là trường phái triết học có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thống nhất
về tư tưởng và chính trị trong xã hội Trung Hoa cổ đại. Là một trong bốn trường
phái triết lý ở thời Xuân thu – Chiến quốc (gần cuối thời nhà Chu từ khoảng thế kỷ 6
TCN cho tới khoảng thế kỷ 3 TCN). Các đại biểu quan trọng của trường phái này là:
Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng, Hàn Phi…
Hàn Phi (280 – 233 TCN) không chỉ tổng hợp ba quan điểm về pháp, thế,
thuật thành một học thuyết có tính hệ thống và trình bày trong sách Hàn Phi mà ông
còn kết hợp ba học thuyết Nho, Lão, Pháp lại với nhau, trong đó, Nho gia được coi
là “vật liệu để xây dựng xã hội”, Đạo gia là “Kỹ thuật thi công”, còn Pháp gia là
“bản thiết kế”.
3.2. Cơ sở xây dựng và nội dung cơ bản của triết học Pháp gia
Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người
khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao,
mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Các nhà Nho tôn quân, Hàn Phi cũng
tôn quân, nhưng tôn quân theo một kiểu khác. Hàn Phi quan niệm pháp luật là công
cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu
rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị
nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn
của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người
yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc

được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu pháp gia cho
rằng để ổn định được đất nước, yêu cầu nhất vẫn là dùng “pháp”, “thế”, “thuật”.
Trong đó nhấn mạnh đến yếu tố pháp luật. Lấy pháp luật làm công cụ đắc lực để
thống trị xã hội, biến pháp luật thành phương tiện, cẩm nang đặc biệt, nhằm đảm bảo
cho sự cai trị thành công, và là chỗ dựa tin cậy vững chắc nhất để vua cai trị dân
chúng. Theo quan điểm của pháp trị thì các quan hệ khác như vua tôi anh – em,
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 6
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia
chồng – vợ, cha – con đều tuyệt đối không tin tưởng mà luôn phải đề cao cảnh giác.
Như vậy, theo Hàn Phi Tử những tình cảm kính trọng, thủy chung, chung hiếu đều
là huyễn hoặc, xa vời, chỉ có pháp luật mới có thể đảm bảo trật tự. Nếu như kết hợp
cả hai hệ tư tưởng đó thì thật hoàn chỉnh. Cầm thanh gươm chuyên chế đi thu phục,
sau đó dùng đức để cai trị thì nước đó tất yếu sẽ cường mạnh.nhau, cha con giữ gìn
cho nhau”.
3.3. Nội dung tư tưởng triết học cơ bản của thuyết pháp trị Hàn Phi
Một là, thừa nhận sự tồn tại của lý – tính quy luật hay những lực lượng khách
quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông yêu cầu
con người phải nắm lấy cái lý về vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp.
(1)
Hai là, thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Do không có chế độ xã hội
nào bất di bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Theo ông, người
thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời
thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao cho thích hợp. Ông
cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật
mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị
dân không thay đổi thì thiên hạ loạn. (1)
Ba là, thừa nhận bản tính con người là ác: Do bản tính con người là ác và do
trong xã hội người tốt cũng có nhưng ít, còn kẻ xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội
yên bình, không nên trông chờ vào số ít, mong họ làm việc thiện (thực hành nhân
nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm điều ác (thực

hiện pháp trị). (1)
Phép trị quốc của Hàn Phi là một học thuyết có nội dung hoàn chỉnh được
tổng hợp từ pháp, thế và thuật; trong đó, pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế
và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách đó. Cả ba pháp, thế, thuật đều là
công cụ trị nước của bậc đế vương. (1)
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 7
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia
Pháp được hiểu là quy định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người
trong xã hội phải tuân theo; là tiêu chuẩn khách quan để định rõ danh phận, trách
nhiệm của con người trong xã hội. Ông đòi hỏi, bậc minh chủ sai khiến bề tôi,
không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong pháp, không hành động trái pháp. (1)
Thế được hiểu là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Địa
vị, thế lực, quyền uy của người trị vì phải là độc tôn (Tôn quân quyền). Theo Hàn
Phi Tử, thế quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi
hành được pháp thì phải có thế. Pháp và thế không tách rời nhau. (1)
Thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển việc,
khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như
thế nào. Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Hàn Phi Tử
đòi hỏi vua phải dùng pháp như trời, dùng thuật như quỷ. Và nếu pháp được công bố
rộng rãi trong dân, thì thuật là cơ trí ngầm, là thủ đoạn của vua được dấu kín. Nhờ
thuật mà vua chọn được người tài năng, trao đúng chức vụ quyền hạn, và loại được
kẻ bất tài. (1)
Ngoài các nội dung “Pháp”, “Thế”, “Thuật” đã nêu ở trên, tư tưởng Pháp gia
còn hết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính
các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương
thực và của cải làm cho đời sống no đủ.
Như vậy, tư tưởng Pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và
phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng Pháp trị phải phát
triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về “Thế”, “Thuật”, “Pháp” vừa được

phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn
Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là
muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội
có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn “trị quốc bình thiên hạ”
được. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được vương quốc Tần ra sức vận dụng và
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 8
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia
kết cục đã đưa nước Tần đến thành công trong việc kết thúc cục diện phân tán cát
cứ, thống nhất được đất nước Trung Hoa sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
Thuyết pháp trị của Hàn Phi nói riêng, của Pháp gia nói chung chủ trương lấy
pháp luật làm căn bản trong việc cai trị đất nước, chủ trương nhà cầm quyền không
phải chú trọng nhiều đến việc tu thân theo nghĩa là đặt ra luật pháp cho rõ ràng và
ban bố cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chỉnh. Vì vậy, về nguyên tắc,
chủ trương pháp trị đối lập với chủ trương nhân trị. Nhưng xét cho cùng, pháp trị
cũng chỉ là một hình thức cụ thể của nhân trị mà thôi. Bởi vì muốn thi hành được
các chủ trương của phái Pháp gia nêu ra, xã hội cũng cần có một đấng minh quân,
một nhà vua sáng suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chịu khép mình theo nguyên
tắc đó. Trong thời đại bấy giờ, chủ trương của phái Pháp gia dùng pháp luật để trị
nước là đúng đắn. Nhờ vậy, nước Tần đã trở nên hùng mạnh và thống nhất được
Trung Quốc. Nhưng mặt khác, phái này quá nhấn mạnh đến biện pháp trừng phạt
nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục…là đi ngược lại văn
minh nhân loại. Vì vậy, do thực hành triệt để pháp trị mà nhà Tần đã thống nhất
được đất nước và cũng do thực hành triệt để pháp trị mà nhà Tần mất nước. Từ thời
Hán về sau, dù Pháp gia không chính thức được công nhận, nhưng những tư tưởng
có giá trị của phái này đã được các học phái khác hấp thụ để bổ sung, hoàn chỉnh
quan điểm của mình. (1)


QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 9
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia

Chương IV: SO SÁNH ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA
TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ PHÁP GIA
4.1. Những nét tương đồng của triết học Nho gia và Pháp gia
4.1.1. Về hoàn cảnh ra đời tư tưởng Triết học
Cả hai trường phái triết học đều ra đời trong bối cảnh xã hội Trung Quốc có
nhiều biến động, loạn lạc. Do đó, yêu cầu thời đại phải có một tư tưởng dẫn dắt, đưa
xã hội từ loạn thành trị. Những đại diện tiêu biểu của hai trường phái triết học này là
Khổng Tử, Mạnh Tử (Nho gia) và Hàn Phi Tử (Pháp gia) đều là những người có tâm
huyết với sự nghiệp trị nước, trị dân, đưa đất nước thoát khỏi cảnh loạn.
4.1.2. Về quan điểm đối với nhà vua – người nắm giữ quyền lực cao nhất
Tuy cách đánh giá và những nguyên tắc đặt ra cho vị minh quân lý tưởng của
hai trường phái triết học này có khác nhau, nhưng điểm cốt lõi đều đòi hỏi Nhà vua
phải là người sáng suốt, am hiểu các nguyên tắc nhân trị. Nho gia là nhân trị. Còn
pháp trị suy cho cùng cũng là nhân trị. Bởi vì muốn thi hành được các chủ trương
của phái Pháp gia nêu ra, xã hội cũng cần có một đấng minh quân, một nhà vua sáng
suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chịu khép mình theo nguyên tắc đó.
4.1.3. Về những điểm hạn chế của cả hai trường phái triết học
Nho gia và Pháp gia là hai tư tưởng triết học có ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài
đến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng, của nhiều quốc gia phương
Đông nói chung. Cả hai tư tưởng triết học này ra đời đã phản ánh và đáp ứng được
yêu cầu lịch sử của xã hội bấy giờ. Tuy nhiên, về sau chúng ngày càng trở nên gò
ép, khắt khe, nặng nề và bảo thủ, đi ngược lại xu hướng phát triển của văn minh
nhân loại. Do đó, để áp dụng thành công triết học Nho gia và Pháp gia cần phải có
sự chắt lọc và sáng tạo cho phù hợp với từng thời kỳ, từng hoàn cảnh.
4.2. Những điểm khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia
4.2.1. Cơ sở xây dựng và nội dung cơ bản
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi (Pháp gia) đối lập với tư tưởng Nho gia
là bởi ông có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 10
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia

mượn đời xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo
hiện tại, Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được
bắt nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc
chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực tế:
“Trẻ con đùa nghịch với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy gỗ làm thịt.
Nhưng chiều đến, thế nào cũng trở về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể đùa để
chơi, nhưng không thể dùng để ăn. Khen những điều truyền tụng từ thời thượng cổ,
hùng biện mà không chắc chắn, nói chuyện nhân nghĩa của các tiên vương mà
không biết sửa đổi nước, thì đó cũng đều là những điều có thể dùng để đùa chơi chứ
không dùng để trị nước.
4.2.2. Quan điểm về các vấn đề chính trị xã hội
Nhìn chung, cả Nho gia và Pháp gia đều yêu cầu mọi việc phải luôn biến đổi.
Nho gia nhấn mạnh đến tính tương đối của tri thức con người cũng như của chế độ,
còn Pháp gia đi đến kết luận rằng, cần phải lấy yêu cầu trước mắt làm phương
hướng cho việc giải quyết các vấn đề chính sự. Nó đòi hỏi người đứng đầu bộ máy
quyền lực phải luôn theo sát tình hình thực tế: “Bậc thánh nhân không cốt trau dồi
chuyện xưa, không noi theo những nguyên tắc bất biến, khi bàn việc làm ở đời thì
dựa theo tình hình của thời mình mà đặt ra những biện pháp”.
4.2.3. Một số nét tiến bộ
4.2.3.1. Nho gia
Nho giáo đã đưa ra những tiêu chuẩn đạo đức nhằm cải tạo con người, hoàn
thiện nhân cách con người.
- Đạo Nho giáo đưa ra những hiểu biết sơ khai về quy luật chuyển biến, tiến
hóa của trời đất, muôn vật.
- Đạo Nho giáo hướng con người đến sự nhân, nghĩa, thủy chung.
- Đạo Nho giáo đặc biệt quan tâm đến đạo đức con người, quan hệ giữa vua
tôi, cha con, chồng vợ…
Nho giáo đưa ra những quan điểm tiến bộ về giáo dục
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 11
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia

- Lập ra trường học, Nho gia hướng con người vào rèn đức luyện tài, cải tạo
nhân tính.
- Giáo dục giúp nâng cao dân trí, mở đường cho khoa học nghệ thuật phát
triển.
4.2.3.2. Pháp gia
Thông qua tư tưởng của Hàn Phi Tử, có thể thấy ông là một người có khả
năng tư duy rất siêu phàm, học thuyết của ông tiến bộ thuộc vào bậc nhất trong lịch
sử tư tưởng cổ đại. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử là sự kết hợp của ba trường
phái lớn: “Pháp”, “Thuật”, “Thế”. Dù thời đó có nhiều học thuyết như Nho gia, Mặc
gia…, song đều bị Tần Thủy Hoàng chối bỏ và cho rằng Nho giáo chỉ là “cơm bụi
canh bùn”, bắt đốt sách chôn nho, giết hại kẻ sĩ Mục đích chính của Hàn Phi Tử là
“khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người
già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị
xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”. Vì mục đích đó, cho
nên, pháp trị hay pháp trở thành tiêu chuẩn khách quan để đánh giá, phân định phải
– trái, tốt – xấu, đúng – sai của hành vi và là tiêu chuẩn để phân định danh phận.
Pháp là cơ sở để mọi người biết rõ bổn phận trách nhiệm, là khuôn phép để khen –
chê, thưởng – phạt. Sự hiện diện của pháp luật sẽ giúp nhân tâm, vạn sự quy về một
mối. Lấy pháp làm chuẩn nên pháp là cái gốc của thiên hạ. Bởi vậy, từ mục đích,
tính chất…đến ý nghĩa tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử tương đối hoàn chỉnh và
tiến bộ so với đương thời, ngày nay vẫn được đánh giá rất cao bởi tính thực tiễn và
có thể áp dụng để xây dựng nhà nước.
4.2.4. Một số điểm hạn chế
4.2.4.1.Nho gia
- Phong kiến dựa vào Nho gia khắc nghiệt chặt chẽ trong quan hệ tam
cương ngũ thường.
- Nho gia ở vị trí độc tôn thời phong kiến làm cho bệnh khuôn sáo giáo điều
phát triển mạnh trong tư tưởng giáo dục, khoa học.
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 12
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia

- Nho gia thể hiện tính nguyên tắc, thuyết chính danh, tất cả phải có tôn ti
trật tự, làm đúng bổn phận của mình.
- Các nhà Nho chỉ chăm lo học hành, thi cử, xa rời thực tế, sản xuất kém
phát triển.
- Nho gia nhấn mạnh tư tưởng thiên mệnh, nghĩa lễ, người dưới phải phục
tùng người trên.
- Nho gia mang tính hai mặt đan xen giữa các yếu tố vô thần và duy tâm tôn
giáo. Học thuyết Nho giáo mang tính cải lương duy tâm.
- Hạn chế vai trò của phụ nữ, tư tưởng trọng nam khinh nữ, tam cương ngũ
thường, phân biệt đẳng cấp.
4.2.4.2.Pháp gia
- Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình
phạt nghiêm khắc.
- Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá
máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp
luật.
- Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp
với pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
- Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất;
thực ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau.
- Ở họ, có lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức
lịch sử, dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử.
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 13
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia
Chương V: KẾT LUẬN
Với những nội dung trên, có thể xem Đức trị và Pháp trị là hai mặt, hai hình
thức cơ bản của hoạt động quản lý của Nho gia và Pháp gia. Song, trái với tư tưởng
bỏ mặc cho tự nhiên tự phát triển của Lão tử và tư tưởng xuất thế của Trang Tử, cả
Khổng Tử và Hàn Phi Tử đều là những nhà cải cách đề cao vai trò của hoạt động
quản lý quốc gia và trách nhiệm của những nhà cầm quyền. Mục tiêu mà hai ông

cùng hướng tới là xây dựng một quốc gia phong kiến thống nhất, xã hội có trật tự,
kỷ cương và thịnh vượng. Nhưng chủ trương, phương pháp thực hiện của Nho gia
và pháp gia khác nhau, có thể nói là trái ngược nhau. Điểm khác nhau căn bản giữa
Nho gia và Pháp gia là: đề cao vai trò của đạo đức, Nho gia chỉ chú ý hành động tự
nguyện được xuất phát từ động cơ bên trong của chủ thể; ngược lại, tuyệt đối hóa
vai trò của pháp luật, Pháp gia chỉ chú trọng sự cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước,
tức là dùng áp lực từ bên ngoài. Khổng Tử muốn cai trị xã hội bằng đạo đức nhân
đạo, bằng tình cảm nhân bản-nhân ái, cho nên chính sách quản lý quốc gia của ông
cốt được lòng dân, nhưng kém tính khả thi và lâu đạt tới kết quả. Hàn Phi đề cao duy
lý, duy lợi và không ngại dùng hình phạt, thuật trong cai trị nên đạt được kết quả
nhanh nhưng không bền vì dân bị buộc tuân theo chứ không ủng hộ chính quyền.
Tóm lại, có thể quan niệm: Đức trị và Pháp trị là những học thuyết chính trị- pháp lý
tiêu biểu của Trung Hoa cổ đại, bao gồm hệ thống những quan niệm được đề xuất,
bổ sung và hoàn thiện bởi các đại biểu tư tưởng của Nho gia và Pháp gia nhằm lý
giải thực trạng và nguyên nhân của xã hội trong bối cảnh lịch sử đặc biệt là thời kỳ
Xuân thu- Chiến quốc (771-221 tr.cn); trên cơ sở đó đề xuất những đường lối chiến
lược trị nước trong đó đạo đức hay pháp luật được xem là công cụ chủ yếu, nhằm
hướng tới xây dựng quốc gia phong kiến Trung Quốc thống nhất, trật tự kỷ cương
và thịnh trị.
Pháp luật và đạo đức là hai lĩnh vực khác nhau thuộc hình thái ý thức xã hội. Tuy
nhiên hai vấn đề này nay lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Pháp luật là một
biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức; ngược lại đạo đức là những
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 14
Tiểu luận Triết học: So sánh nét tương đồng và khác biệt của triết học Nho gia và Pháp gia
nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi
phối, điều chỉnh hành vi con người trong quan hệ với người khác, nhưng nhiều khi
rất cần sự hỗ trợ của pháp luật. Bởi vì nếu không kết hợp với tính nghiêm minh,
khoa học của pháp luật thì giáo dục đạo đức trở thành vô nghĩa.
QTKD Lớp Đêm 1 – Trần Thị Bích Ngọc – Nhóm 12 – STT:72 15

×