Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SO SÁNH VÀ ỨNG DỤNG VÀO TÌM HIỂU NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRUYỆN CÂY KHẾ CỦA VIỆT NAM VÀ TRUYỆN XÚC CA TỐ VÀ XÚC CA TÁ CỦA LÀO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.68 KB, 22 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC

---------------

BÀI TẬP TIỂU LUẬN

LÝ LUẬN VĂN HỌC SO SÁNH
VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC SO SÁNH VÀ ỨNG DỤNG VÀO TÌM HIỂU
NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRUYỆN CÂY KHẾ CỦA
VIỆT NAM VÀ TRUYỆN XÚC CA TỐ VÀ XÚC CA TÁ CỦA LÀO

Học viên

: Trần Thị Thanh Huyền

Lớp

: Cao học Văn học K50

Hà Nội -2006


PHẦN MỞ DẦU
Trên thế giới hiện nay thuật ngữ văn học so sánh đã trở nên rất quen
thuộc trong giới nghiên cứu và giảng dạy văn học.Tuy nhiên ở nước ta
hiện nay bộ môn văn học so sánh vẫn chưa trở thành 1 mơn chính thức ở
khoa văn các trường đại học. Có thể nói việc tìm hiểu và xây dựng bộ
mơn văn học so sánh vẫn cịn là một vấn dề thời sự.Tôi hi vọng dù chỉ
trong phạm vi một bài tiểu luận nhưng cũng đưa ra được cái nhìn đứng


đắn chính xác về văn học so sánh qua liên hệ với một tác phẩm cụ thể.
Hơn nữa như chúng ta đã biết văn học dân gian co một vị trí đặc
biệt trong đời sống tinh thần và trong nền văn học của mỗi dân tộc trên
thế giới.Văn học dân gian tồn tại song song và cung cấp chất liệu cho văn
học viết.Văn học dân gian nảy sinh từ cuộc sống lao động và đấu tranh
của mỗi dân tộc. Nó thể hiện những tình cảm cao q và đẹp đẽ của người
dân, đó là tình cảm của con người với thiên nhiên đát nước, tình cảm của
con người với con người trong lao động sản xuất và sinh hoạt. Tình cảm
đó được thể hiện qua rát nhiều thể loại: Tiểu thuyết, thần thoại, truyện cổ
tích, sử thi…Nếu như trong sáng tác văn học người ta tối kị sự lặp lại sự
bắt chước những lối mịn… thì trong văn học dân gian đó lại là hiện tượng
phổ biến làm nên một đặc trưng độc đáo, một phương thức sáng tác đặc
thù mang tính loại hình. Sự lặp lại, tương đồng hay bắt chước không phải
chỉ ở một dân tộc,một quốc gia riêng mà nhiều khi cịn có tính tồn
cầu,đối với cả các dân tộc rất xa nhau khó có sự giao lưu về các yếu tố:
Nhân vật, cốt truyện, tình tiết trong tác phẩm, số phận nhân vật, tư tưởng
chủ đề…Chẳng hạn Ông Ngâu Bà Ngâu (Việt Nam)-Ngưu Lang Chức nữ (
Trung Quốc )-Kyonu Chiknio (Triều Tiên), Tấm Cám (Việt Nam)-Cô bé
lọ lem (Pháp). Nét đặc trưng này được thể hiện rõ nhất ở thể loại truyện
cổ tích. Như chúng ta đẵ biết truyện cổ tích được phân chia làm ba
loại:Truyện cổ tích về lồi vật ( thường giới thiệu đặc điểm các loài vật và
mối quan hệ của các con vật với nhau);Truyện cổ tích về những người


thấp cổ bé họng trong xã hội: Người đi ở, mồ côi, con riêng…;Truyện kể
về các dũng sĩ, các nhân vật thông minh tài giỏi hay những nhân vật ngốc
nghếch. Truyện cố tích Cây khế của Việt Nam và “ Xúc Ca Tố và Xúc
Ca Tá” của Lào thuộc thể truyện thứ hai, viết về cuộc đời của những con
người thấp cổ bé họng trong xã hội. Cũng đã có một số các cơng trình
nghiên cứu về mơtíp người mồ cơi trong truyện cổ tích như : “Sơ bộ tìm

hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám” của Đinh Gia
Khánh ( Hà Nội NXBVH- 1968) ; “ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam”
( Nguyễn Đổng Chi, NXBKHXH,1987,1957 ). Đề cập đến vấn đề này các
nhà nghiên cứu đã ít nhiều sử dụng phương pháp so sánh nhưng mới chỉ
tìm hiểu truyện cổ tích nói chung và một số tác phẩm nói riêng. Trên cơ
sở những kiến thức được học bộ môn văn học so sánh cũng như nhận thức
được tầm quan trong của mảng kiến thức văn học dân gian trong văn học
lớp 10 liên quan dến việc giảng dạy văn học cấp ba của tôi nên tôi chọn
dề tài này cho bài tiểu luận của mình.
Sự so sánh, đối chiếu hai tác phẩm khơng nhằm mục đích xác định
tác phẩm nào có giá trị hơn mà để tìm hiểu so sánh, phân tích về: Nhân
vật, kết cấu, cốt truyện, chủ đề tư tưởng…để thấy được nét tương đồng, dị
biệt cơ bản trong truyện cổ tích Việt & Lào cũng như nguyên nhân của
những điểm dị biệt và tương đồng đó.


PHẦN NỘI DUNG

I. Vài nét về văn học so sánh.
Trước hết ta phải hiểu văn học so sánh là gì? Nó là một bộ mơn hay
là một phương pháp?
Văn học so sánh ban đầu chỉ là một phương pháp. Trong cuộc sống
hàng ngày so sánh là một yêu cầu tự nhiên, là một trong những phương
pháp để xác định sự vật về mặt định tính, định lượng hoặc ngơi thứ. Cịn
trong nghiên cứu văn học, nó là một phương pháp dùng để xác định, đánh
giá các hiện tượng văn học trong mối quan hệ giữa chúng với nhau. Tức là
ban đầu nó chỉ là một phương pháp nghiên cứu văn học, được gọi là
phương pháp so sánh.
Đến thế kỉ XIX, nó được coi là một bộ mơn văn học sử được tiến
hành theo phương thức so sánh. Là một bộ môn văn học sử nghiên cứu sự

phát triển của văn học nhân loại qua những mốc lịch sử từ đó vẽ ra bức
tranh phát triển về mặt lịch đại, đồng đại và chỉ ra quy luật phát triển của
văn học, nghiên cứu những đặc điểm chung nhất của văn học nhân loại.
Khái niệm “văn học so sánh” gần gũi tuy nhiên không đồng nhất với “văn
học thế giới”.
Một nhà mĩ học người Rumani ( J.Vianu) đă quan niệm “ văn học
thế giới” không phái là tổng số các nền văn học dân tộc. Lịch sử văn học
thể giới lựa chọn trong khối lượng đồ sộ các sự kiện của các nền văn học
dân tộc để chỉ giữ lại những sự kiện có tầm quan trọng quốc tế trong văn
học thế giới và những sự kiện mà với tư cách là người phát, người truyền
đạt hoặc người tiếp nhận sự ảnh hưởng, chúng đã đóng một vai trị trong
việc hình thành các trào lưu của văn học thế giới.
Như vậy là văn học thế giới chỉ quan tâm tới cái quốc tế ( tương
ứng với cái chung trong phạm trù cái chung trong triết học). Giữa văn học
thế giới với văn học so sánh có những chỗ giống nhau: phát huy những


giá trị tiến bộ chung của các nước khác nhau nhưng văn học so sánh cịn
có thêm một mục đích cơ bản nữa là chứng minh tính đặc thù của các nền
văn học dân tộc. Nó là cầu nối văn học sử dân tộc và văn học thế giới.
Với sự ra đời “ Tạp chí lịch sử văn học so sánh” ( 1886) đã khẳng
định sự ra đời của bộ môn văn học so sánh.
Ngày nay Văn học so sánh ngày càng được xác định là bộ môn khoa
học cần thiết nhằm phục vụ trước hết cho văn học sử dân tộc và văn học
sử thế giới với hai mục đích cơ bản: xác định tính khái quát khách quan
của văn học nhân loại và chứng minh tính đặc thù của các nền văn học
dân tộc.
Bộ môn văn học so sánh đã đề cập trọn vẹn đến một cặp phạm trù:
cái chung – cái riêng. xét về mặt triết học thì cái riêng bao hàm cái chung
và cái đặc thù. Tuy nhiên điều phân biệt này chưa quan trọng, quan trọng

là phải thấy được sự chuyển hoá lẫn nhau giữa cái đặc thù và cái chung,
trong văn học so sánh cũng vậy, phải biết cái đặc thù dân tộc và cái quốc
tế là một việc làm cần thiết nhưng tuyệt đối khơng được coi là mục đích
tự thân.
Đối tượng nghiên cứu của văn học so sánh trước hết là các mối quan
hệ trực tiếp giữa các nền văn học .
Mới đầu các nhà so sánh luận ở Châu Âu ( thế kỉ XIX) thường sử
dụng phương pháp thực chứng. Họ tiến hành đối chiếu văn bản ,để tìm ra
những điểm giống nhau về các mặt: tư tưởng, đề tài, phong cách ,kĩ thuật
xây dựng tác phẩm…để xác định các hiện tượng giao lưu văn học một
cách thuần tuý thực chứng, thuần tuý sự kiện. Họ không chú ý đến các sự
kiện khách quan và chủ quan cụ thể của nhân tố tiếp nhận sự ảnh hưởng,
cũng như không phân biệt hiện tượng bị ảnh hưởng thụ động với hiện
tượng vay mượn chủ động.
Đến cuối những năm 60, sự tiến bộ của văn học so sánh được đánh
dấu bằng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các chuyên gia so sánh XHCN và
phương Tây, chủ trương mở rộng phạm vi nghiên cứu văn học so sánh ra


cả về mặt không gian, thời gian. Văn học so sánh không chỉ nghiên cứu
các quan hệ văn học quốc tế trực tiếp mà còn đề cập đến cả những điểm
giống nhau về loại hình giữa các nền văn học do đặc điểm lịch sử xã hội
giống nhau đẻ ra, chứ không phải do ảnh hưởng giữa chúng với nhau.
Các cơng trình nghiên cứu hiện tượng tương đồng đã cho chúng ta
thấy rằng co hai loại hiện tượng tương đồng: tương đồng lịch sử bao gồm
hiện tượng tương đồng cùng thời, tương đồng kế tiếp và tương đồng phi
lịch sử.
Loại tương đồng lịch sử là tương đồng của những trào lưu thuộc các
nền văn học kế cận nhau như các trào lưu thời Phục hưng, cổ điển… ở
Châu Âu và phương Tây. Cịn loại hình tương đồng phi lịch sử là sự giống

nhau giữa các nền văn học cách xa nhau về không gian và thời gian. Qua
việc nghiên cứu sự giống nhau phi lịch sử này các nhà nghiên cứu so sánh
sẽ cung cấp tư liệu cho các nhà lí luận văn học để họ rút ra những kết luận
bổ ích và xác đáng về qui luật phát triển chung của văn học. Đồng thời
việc nghiên cứu hiện tượng tương đồng phi lịch sử cũng làm sáng tỏ sự
phát sinh, phát triển của một thể loại, một loại hình văn học cụ thể qua đó
góp cho các nhà lí luận văn học rút ra những kết luận về thể loại hay loại
hình học.
Việc nghiên cứu hiện tượng tương đồng giữa các nền văn học cũng
cung cấp tư liệu và gợi ý hướng dẫn cho các nhà viết sử văn học dân tộc,
cho các nhà phê bình và lí luận để họ khái quát nên những nhận xét và
luận điểm về các vấn đề văn học sử dân tộc hoặc lí luận văn học.
Dựa vào kết quả nghiên cứu của văn học so sánh, các nhà phê bình
và lí luận sẽ có những đánh giá chính xác hơn, tránh sa vào quan điểm
phiến diện sôvanh. cũng như tránh sa vào lơí phê bình thuần t xa rời
thực tế.
Đối tượng nghiên cứu thứ ba của văn học so sánh là các điểm khác
biệt độc lập. Việc so sánh các điểm khác biệt, độc lập khơng phải là mục
đích tự thân, khơng phải chỉ để chứng minh đơn thuần cái này khác cái


kia mà nó nhằm phục vụ những mục tiêu rất cụ thể của nhà nghiên cứu.
đối tượng này là đối tượng bổ sung cho hai đối tượng đầu làm cho văn
học so sánh trở thành bộ mơn hồn chỉnh và hữu hiệu.


CHƯƠNG I: SƠ KHẢO NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ “TIỄN ĐĂNG TÂN
THOẠI” (CÙ HỰU) VÀ “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC” (NGUYỄN DỮ).
I. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GỮA “TIỄN ĐĂNG
TÂN THOẠI” VÀ “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC”.

Trong văn xi Việt Nam thời Trung đại, “Truyền kì mạn lục” là tác
phẩm có giá trị lớn. Tác phẩm đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà
phê bình trên nhiều khía cạnh, phương diện. Đã có nhiều cơng trình khám
phá các vấn đề chính các tác phẩm như: Số phận người phụ nữ về những
motip dân gian,… Vài thập niên gần đây, cùng với sự phát triển của lí
luận văn học so sánh, các nhà nghiên cứu tiến hành tìm hiểu “Truyền kì
mạn lục” trong mối quan hệ với các tác phẩm khác, đặc biệt lưu tâm tới
sự gần gũi giữa “Truyền kì mạn lục” và “Tiễn đăng tân thoại” của Cù
Hựu.
Ngay từ khi tác phẩm mới ra đời, ác học giả thời trung đại đã ý thức
được sự tương đồng ở một mức độ nào đó giữa “Tiễn đăng tân thoại” và
“Truyền kì mạn lục”. Trong lời tựa “Truyền kì mạn lục” viết năm Vĩnh
Định sở niên (1547), Hà Thiện Hán khẳng định: “Xem văn từ của sách
thấy không ra khỏi yêu giận của Tông Cát? Lê Quý Đôn trong “Văn nghệ
chí” phần truyền kỳ ở “Đại Việt thơng sử” cũng cho rằng: “Về đại thể
phỏng theo tập Tiễn đăng của nhà nho đờiNguyễn”. Lời ghi của Phan Huy
Chú trong “Văn tịch chí” cũng thống nhắt với các ý kiến trên phê rằng
“Sách “Truyền kì mạn lục” đại lược bắt chước (hiệu) cuốn “Tiễn đăng tân
thoại” của nhà Nho đời nhưng”.
Mặc dù chỉ ra Nguyễn Dữ “phỏng theo” “bắt chước” “Tiễn đăng tân
thoại” nhưng các học giả thời trung đại khơng có ý coi trm là tác phẩm
sao chép, cảibiên, càng khơng phải là cái bóng của ngun mẫu. Họ đánh
giá cao sức sáng tạo của Nguyễn Dữ, coi tác phẩm là “trứ tác” đặc sắc (Lê
Quý Đôn) và là ông “thiện cổ kì bút” (Vũ Phương Đề).


Sau này, các nhà nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ giữa “Tiễn đăng
tân thoại” và “Truyền kì mạn lục” ở nhiều khía cạnh, phương diện và họ
đều khẳng định sự sáng tạo, phát triển trong thể loại của Nguyễn Dữ.
Trong cuốn “truyện ngắn Trung Quốc thời trung cổ” chương CừHụ

và truyền kì Việt Nam tác giả K.J.Gơn-lư-ghi-na. Sau khi tiến hành so
sánh kỹ lưỡng “Truyền kì mạn lục” và “Tiễn đăng tân thoại” đã rút ra
nhận xét:”Trong các truyện của Nguyễn Dữ, phần lớn là hoạt động phát
triển trên cái nền của những sự kiện lịch sử có thật ở Việt Nam. Nhiều
tình tiết khơng về lịch sử dân tộc đã được đưa vào truyện. Do vậy, tác
phẩm mang đạm tính dân tộc, (Sđd, Nxb Khoa học Moskva, 1980).
Trong bài biết “Về mối quan hệ giữa “Tiễn đăng tân thoại”” và
“Truyền kì mạn lục” (TCVH.S3-1987) tác giả Phạm Tú Châu khẳng định
“truyền kì là một sáng tác văn học thực thụ chứ khơng phải chỉ mới có
“tính chất văn học” càng khơng phải là một “cơng trình ghi chép” như tác
giả khiêm tốn tự nhận”.
Nghiên cứu, học tập các quan điểm, các cách tiếp cận từ những cơng
trình nghiên cứu đã có và tiến hành trong khn khổ cho phép, người viết
đề xuất hướng so sánh, chỉ ra những nét tương đồng và dị biệt hai truyện
trong “Tiễn đăng tân thoại” (mẫu đơn đăng ký) và “Truyền kì mạn lục”
(Mộc miên thụ truyện), từ đó khẳng định những sáng tạo, phát triển cũng
như bản sắc dân tộc trong ngòi bút Nguyễn Dữ.
II. TÌM HIỂU CHUNG VỀ “TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI” VÀ “TRUYỀN KÌ
MẠN LỤC”.

1. Tác giả:
Tác giả của “Tiễn đăng tân thoại” là Cù Hựu (1347 - 1433) tiên chữ
là Tơng Cát. Ơng sinh ravà lớn lên tại Sơn Dương, huyện Hồi An, tỉnh
Giang Tơ. Ơng là một tác gia viết truyền kì, sáng tác thơ nổi tiếng, ơng
đồng thời là một học giả Cù Hựu sống vào buổi giao thời giữa nhà No và
Minh …, loạn lạc liên miên, xã hội đen tối .


Tác giả của “Truyền kì mạn lục” là Nguyễn Dữ quê ở xã Đoàn Lâm,
Hạ Gia Phúc, Hồng Châu, nay là Thanh Miện, Hải Dương. Ơng là một

dịng dõi khoa hoạn đẵtngf thi đỗ và làm quan, ôm ấp lý tưởng hành đạo.
Nguyễn Dữ sống vào khoảng cuối thế kỉ 15, nửa đầu thế kỷ 16. Đây là thế
kỉ loạn li, rối ren, đen tối trong lịch sử Việt Nam. Nội chiến kéo dài, đất
nước chìm trong cảnh nồi da xáo thịt, huynh tệ tương tàn.
Mặc dù có sự khác nhau về thời đại lịch sử nhưng bối cảnh xã hội
phong kiến mà Cù Hựu và Nguyễn Dữ phải sống có những nét tương
đồng. Họ đều bất lực trên cuộc đời, bế tắc trong việc chọn lựa cho mình
một chố đứng trong xã hội.

2. Tác phẩm:
2.1. Tên tác phẩm và vấn đề thể loại:
“Tiễn đăng tân thoại” [

] có nghĩa là: Khêu đén ghi lại những câu

chuyện lưu truyền trong dân gian. Trong đó chữ “thoại” (giai thoại) chỉ
những câu chuyện hay, hấp dẫn do sáng tạo, hư cấu mà nên.
“Truyền kì mạn lục” [

] có những là: Ghi chép tân mạn những

truyện hoang đường, kỳ ảo trong dân gian. Trong đó chữ “truyền kỳ” [

]

được dùng với những hoang đường.
Cả hai tác phẩm đều được thể loại truyền kì.
Truyền kì [ ] là một thể loại văn học bắt nguồn từ Trung Quốc, ở
Trung Quốc hai từ này chỉ những chuyện hoang đường khơng có thật
được hiểu với nghĩa mỉa mai châm biếm; Thời kì khơng nằm trong kho

“văn” và bị xếp vào “ngoại thư”.
Theo giáo sư Trân Xuân Đề, truyền kì có những là truyền thuyết
đồng nghĩa với chữ chí (ghi chép). Kỳ là kỳ quái, kỳ dị. Thời kỳ là truyền
bá những câu chuyện kỳ quái, sau này, nó trở thành mộtthể loại văn học.
2.2. Thời gian ra đời và kết cấu:


“Tiễn đăng tân thoại” viết năm thứ 11 niên hiệu Hồng Vĩ đời Minh
(1378), 3 năm sau (1381) mới được in. tác phẩm gần 4 quyền, mỗi quyển
gồm 5 truyện. Ngồi ra cịn có 2 truyện phụ lục.
“Truyền kì mạn lục” ra đời vào khoảng giữa thế kỉ 16. tác phẩm
cũng gần 4 quyển, mỗi quyển có 5 truyện. Gần đây, GS Nguyễn Đình Na
đã tìm thấy cho 2 truyện phụ lục bị thất lạc của tác phẩm. Đây là việc làm
có ý nghĩa nhưng rất lớn đối với việc nghiên cứu “Truyền kì mạn lục” và
“Tiễn đăng tân thoại”.
Nhưvậy, 2 tác phẩm hoàn toàn giống nhau về mặt kết cấu.
2.3. Chủ đề:
“Tiễn đăng tân thoại”: tập truyện hầu hết là các truyện tình đậm
hương son phấn và truyện quái dị của quỷ thần. Qua đó, tác giả phần nào
những hiện thực xã hội đương thời cũng hoặc nói lên nguyện vọng của kẻ
sĩ của người dân.
“Truyền kì mạn lục” bên trong cái vẻ hoang đường kì ảo, tác phẩm
là cả một nội dung xã hội phong phú đa dạng, một khunh hướng sáng tạo
đậm đà tư tưởng nhà văn.
*Bước đầu tìm hiểu những nét chung, chúng ta thấy có nhiều điểm
tương đồng giữa 2 tác phẩm. Song với hai tác giả, hai thời đại, hai thời kỳ
địa hướng khác nhau, hai tác phẩm có nhiều nét khu biệt đáng chú ý. Vậy
mối quan hệ tương đồng và dị biệt này thể hiện như thế nào trong các
truyện cụ thể của hai tác phẩm.



CHƯƠNG II: NHỮNG KẾ THỪA VÀ SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DỮ
TRONG “ TRUYỀN KÌ MẠN LỤC”
“Truyền kì mạn lục” qua so sánh “Mẫu đơn đăng ký” và “Mộc miên thụ truyện”.
(A)

“Mẫu đơn đăng ký”: truyện về cây đèn mẫu đơn là truyện

T9 thuộc quyển 2 của “Tiễn đăng tân thoại”
(B)

“Mộc miên thụ truyện”: truyện cậy gạo là truyện T3

thuộc g1 của “Truyền kì mạn lục” .
I. TỪ “MẪU ĐƠN ĐĂNG KÝ” ĐẾN “MỘC MIÊN THỤ TRUYỆN”: NHỮNG
KẾ THỪA:
Tìm hiểu những kế thừa của Nguyễn Dữ chính là việc so sánh, rút ra
những điểm tương đồng giữa (a) và (B). Người viết tiến hành so sánh trên
các phương diện:

1. Motipe người lấy vợ ma.
Đây là môtype thườgn thấy trong truyện truyền kì. Motype này tạo
ra khơng khí ma qi, rùng rợn trong tác phẩm. Motype này có ý nghĩa
khác nhau với motype người lấy vật ở tct.

2. Cốt truyện, kết cấu.
Cả hai tác phẩm đều cùng có một cốt truyện, một kiểu kết cấu.
(A) và (B) đều viết về số phận bi thảm của người phụ nữ. Họ là
những cô gái chết trẻ (oan hồn của họ khơng siêu thốt mà vẫn còn quyến
luyến trần gian. Họ quyến rũ những chàng trai ham mê sắc dục, sau đó

cùng nhau tác oai tác quái và bị đạo nhân trừ diệt. Viết về số phận bi thảm
của người phụ nữ không phảichỉ lúc còn sống, hai tác phẩm dựng lại chút
hạnh phúc trần gian mà họ cố níu kéo sau khi đã chết. Nhưng niềmhạnh
phúc ấy chẳng kéo dài bao lâu, ho còn bị trừng phạt bi thảm hơn gấp
nhiều lần.
(A) và (B) đều có cùng một cách kết thúc, một cách mở đầu.


(A) mở đầu bằng việc giới thiệu nhân vật Trình Trung Ngộ và cuộc
gặp gỡ giữa chàng với nàng Nhị Khanh (B) cũng dành giới thiệu thân
thếKiều Sinh và cuộc gặp gỡ với Lệ Khanh ở phầnđầu tác phẩm. Kết thúc
của cả 2 tác phẩm là sự trừng phạt đối với những hồnma và sự bí ẩn ra đi
khơng để lại tung tích của vị đạo sĩ.

3. Khơng gian - thời gian:
Không gian trong cả hai tác phẩm đều vắng vẻ, hiu quạnh, có phần
ma qi. Tính chất ma qi thể hiện rõ nhất khi các tác giả miêu tả “nhà”
của các hồn ma. “nhà” của Lệ Khanh là “chùa giữa Hồ Tây, đến tận cùng
hành lang thì thấy một gian buồng tối trong buồng đặtquan tài ”. Hình ảnh
ngơi chùa vắng vẻ, hiu quạnh giữa hồ được nhắc tới 3 lần trong “Chiếc
đèn mẫu đơn”, “Nhà” của Nhị Khanh là một nơi thuộc “Đơng Thơn
“Chung quanh có bức tường rào bằng gióng tre, thỉnh thoảng chen lẫn một
vài khóm lau khơ, trong có túp lêu gianh nhỏ lụp xụp”, “thấy ở gian bên
phía tả kê một chiếc giườngmây nhỏ, trên giường có một cỗ áo quan…”
Ở đây, người viết nhận thấy chi tiét Nhị Khanh “chét đã nửa năm,
hận qn ở ngồi đồng ngày bên cạnh làng”. Khơng phù hợp với phong
tục vủa người Việt Nam. Phải chăng đây là chi tiết Nguyễn Dữ học tập
nguyên mẫu từ tác phẩm của Cù Hựu?.
Thời gian trong hai tác phẩm chủ yếu là nửa đêm, là những đêm tối
trời. Điều này rất phù hợp với quan niệm của người phương đông. Nửa

đêm là lúc ma quỷcó thể hiện hình phần của 2 câu chuyện mà mô tả hầu
hết những dị biệt của 2 câu chuyện bị bao phủ bởi bóng đêm là dụng ý của
các tác giả: để nhằm phát triển thệ tích chất kỳ ảo, ma quái trong tác
phẩm.
Từ nhận thức về không gian và thời gian nhưvậy, người viết có liên
tưởng tới khơng khí thời đại mà các tác giả phải sống tăm tối tăm triền
miên, nghe đâu đó tiếng kêu rên của chết chóc, loạn li, chiến tranh.


4. Tương quan hệ thống nhân vật.
“Chiếc đèn mẫu đơn” gồm có những nhân vật chính:
-Kiều sinh: “nhà ở dưới núi Trấn Minh, mới goá vợ”.
-Lệ Khanh: chết khi mới k17 tuổi.
-Kim Liên: Là a hoàn làm bằng đồ mã, tay xách đèn mẫu đơn.
-Vị đạo nhân ở ẩn trên núi xuống giúp nhân dân trừ yêu ma rồi bí
mật một cách bí ẩn. “Chuyện cây gạo” gồm có những mặt chính.
-Tình Trung Ngộ: “là chàng trai đẹp ở đất Bắc Hà, nhà rất giàu, thuê
thuyền xuống vùng Nam buôn bán”
-Nhị Khanh: Người chết khi mới 20 tuổi.
-Vị đạo nhân: từ nơi xa đến giúp nhân dân trừ yêu ma rồi biến mất
một cách bí ẩn.
Như vậy hệ thống mật ở 2 truyện tương tự nhau.
Hơn nữa, ở từng cặp nhân vật cũng có nhiều nét tương đồng:
-Kiều Sinh (người đến ở nhờ) và Tình Trung Ngộ (gặp gỡ giữa
đường) không phải là những cái tên cụ thể. Tên ấy với nghĩa ây chỉ nói
lên hồn cảnh gặp gỡ của họ với những cơ gái trong truyện Kiều Sinh và
Tình Trung Ngộ đều là những người ít học, khơng am tường hay coi trọng
đạo đức phong kiến.
-Lệ Khanh và Nhị Khanh đều là những cô gái đẹp “Lệ Khanh” tuổi
chứng mười bảy, mười tám, quần hồng áo biếc, yểu điệu thướt tha”, “nàng

trẻ trung, thậtlà bậc quốc sắc”. Còn Nhị Khanh “là một giai nhân tuyệt
sắc” họ cùng xinh đẹp là vậy nhưng họ cịn có cùng một cảnh ngộ đáng
thương: “Lệ Khanh” họ phù, tên là Lệ Khanh, tên chính là Thấu Phương,
con gái Phán quan châuPhụng Hố trên kia cha mẹ đều mất cả, gia cảnh sa
sút, đã khơng anh em lại ít bà con, chỉcó một thân, cùng Kim Liên tạm ở
phía Tây Hồ”. Nhị Khanh “là cháu gái củ ông cụ Hồi, là một nhà danh giá
trong làng, hai thân mất sớm, cảnh nhà đơn hàn. Mới đây bị người chồng
ruồng bỏ mà phải dời xa ở bên ngoài luỹ làng”.


Và họ (Lệ Khanh và Nhị Khanh) đều là những hồn ma cịn vướng
bụi trần thế, hiện hình để tìm chút hơi ấm dương gian.
*Trên đây là những nét giống nhau có thể xemnhw là sự kế thừa của
Nguyễn Dữ từ tác phẩm “Chiếc đèn mẫu đơn” . Nhưng người viết muốn
lưu ý rằng: đây chỉ là những điểm tương đồng về mặt hình thức chứ khơng
phải sự giống nhau về ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm.
II. TỪ “MẪU ĐƠN ĐĂNG KÝ” ĐẾN “MỘC MIÊN THỤ TRUYỆN” :
NHỮNG SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DỮ .

1. “Chuyện cây gạo” mang đậm phong vị văn học Việt Nam.
Luận đề này được thực hiện ở
2.1.1. Tên truyện:
“Mẫu đơn đăng ký” (chuyện cây đèn mẫu đơn) là một mã văn hố.
Trong đó, chiếc đền mẫu đơn là một tín hiệu thể hiện văn học Trung Hoa.
Ở Trung Quốc, đèn lồng là một vật rất phổ biến; hoa mẫu đơn được coi
như chúa của các lồi hoa. Ở Việt Nam khơng có đèn mẫu đơn. Chình vì
thế chi tiết này khơng xuất hiện trong mjt của Nguyễn Dữ.
“Mộc miên thụ truyện” có tín hiệu văn hố là hình ảnh cây gạo quen
thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Chi tiết ng để hai hồn ma của Nhị
Khanh và Lệ Khanh lấy cây gạo làm nơi ngụ náu rất thống nhất với quan

niệm của người Việt Nam “hồn cây đa, ma cây gạo” - quan niệm đã là nơi
ma quỷ hay ở. Tên tác phẩm “Mộc miên thụ truyện” được Nguyễn Dữ
khai thác từ cội nguồn văn hoá dân gian, mang đậm phong vị văn hoá Việt
Nam.
2.2. Chi tiết khác:
Tiến hành so sánh các chi tiết, người viết nhận thấy sự tinh tế và ý
thức xây dựng truyện của Nguyễn Dữ. Ở đây “Mẫu đơn đăng ký” có chi
tiết “ơng hàng xóm sinh nghi, chọc nhịm sang thấy một bộ xương trang
điểm son phấn ngồi dưới đàn cùng Kiều Sinh”. Phong tục của người
Trung Quốc là ở nhà sát nách, vách tường thường dán bằng giấy. Người


Việt Nam thường ở nhà tách biệt, thường là nhà tranh vách đất, cho nên
Nguyễn Dữ đã bỏ đi chi tiết ấy. Việc lược bỏchi tiết này không chỉ
giảmnhẹ đi phần ma quỷ trong tác phẩm mà còn cho thấy ý thức sáng tạo
của Nguyễn Dữ, ý thức xây dựng truyện sao cho “ẩn trong cái ma quái là
những cảnh thật của lịch sử Việt Nam”.
Bên cạnh việc thổi ngọn gió văn hố Việt Nam vào tác phẩm, tước
đi những trang văn hố phù hợp, sáng tạo lớn nhất, có ý nghĩa nhất của
Nguyễn Dữ thể hiện quan niệm nhân văn của tác giả.

2. Tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Dữ.
Quan niệm nhân sinh và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn
Nguyễn Dữ thể hiện ở các điểm:
2.1. Ý nghĩa của tiêu đề:
Không chỉ phản ánh phong tục Việt Nam, tiêu đề “Trên cây gạo”
cịn có một ý nghĩa hết sức sâu sắc.
Cù Hựu đặt tên tác phẩm “chiếc đền mẫu đơn” dựa vào chi tiết: “a
hồn KL ln cầm cây đèn lồng hình 2 bơng hoa mẫu đơn”, “chợt K.Sinh
thấy một a hoàn cầm cây đèn lồng hình hai bơng hoa mẫu đơn đi lên đi

xuống “Kiều Sinh và cô gái dắt nhau đi, con hầu cầm đèn mẫu đơn đi trên
dẫn đường” và chi tiết mẫu đơn trước linh cữu có treo một cây đèn lồng
hình hai bơng hoa.
Theo tương quan, truyện của Nguyễn Dữ phảiđặt là “Cây hồ cầm”.
Bởi người A hoàn đi htoe Nhị Khanh bao giờ cũng cầm một cây hồ cầm:
“Thấy người con gái cùng ả thị nữ mang theo đến một cây hồcầm”.
“Cạnh linh cữu có người con gái nặm bằng đát tay ôm cây hồ cầm
đứng hầu”
Nhưng Nguyễn Dữ lại đặt tên truyện là “Cây gạo”. Hình ảnh cây
gạo “tương truyền là rất cổ tác giả truyền là đã sống được hơn trăm
nam”. Xuất hiện ở cuối tác phẩm. Khi Nhị Khanh và Tình Trung Ngộ bị
dồn đuổi không nơi nương tựa, bị người đời “đào mả phá quan tài” rồi


xương cốt “vứt bỏ xuống sơng cho trơi theo dịng nước”, họ bèn “nương
tựa vào cây gạo ấy”. Việc chú ý xây dựng hình ảnh cây gạo cho thấy quan
niệm của Nguyễn Dữ. Ơng ln ủng hộ hạnh phúc lứa đơi, ln kiếm tìm
hạnh phúc cho cg. Đối với Nguyễn Dữ ma cũng như người, cũng cần có
nơi nương náu và . Cây gạo ấy chính là “mái nhà” của hồn ma Nhị Khanh
và Tình Trung Ngộ. Đây là quan niệm đúng đắn và mới mẻ, đầy chất nhân
bản của Nguyễn Dữ.
2.2. Tính cách nhân vật.
Ở đây, người viết chỉ so sánh tính cách hai nhân vật Lệ Khanh và
Nhị Khanh.
-ở “Mẫu đơn đăng ký”, Lệ Khanh hiện lên hoàn tồn mang tính chất
ma. Nàng hiện ngun hình là
Chi tiết làm phát triển tính chất ma quái của nhân vật.
Lệ Khanh hầu như khơng có tính cách. Nàng nói 5 lần: hầu như là
những câu thông thường, một lời trách móc, một lời cung khai.
-ở ‘“Mộc miên thụ truyện” Nhị Khanh hiện lên mang tính chất

người nhiều hơn, sống động hơn. Nhị Khanh có tính cách, có tình cảm
hơn, đáng yêu hơn. Nàng nói tới 11 lần và hầu hết là những đoạn thể hiện
tâm hồn, bộc lộ tâm tình một cách sâu sắc, xúc động.
Nhị Khanh vừa nhẹ nhàng ý từ mà lại không kém phần nồng nàn,
táo tạo. Khi gặp Tình Trung Ngộ, “chàng kiếm một lời nói kín đáo để thử
khêu gợi” nàngđã “xốc xiêm đi thẳng” nhưng không quên bâng quơ hẹn
chàng một cách tế nhị, kín đáo: “Ta lâu nay rượu xuân quá chén… mê mệt
nằm dài… không lênchơi cầu Liễu Khê lần nào cả… Đêm lên thăm cảnh
cũ…” Cũng trong cảnh gặp gỡ Lệ Khanh “ngoảnh lại mỉm cười” rồi vào
nhà cùng Kiều Sinh. Cách xây dựng tình huống của nội dung khiến người
đọc cảm thấy nhân vật gần gũi và có cảm tình hơn.
Lệ Khanh và Nhị Khanh cùng gặp nhau ở một điểm là khao khát
cuộc sống trầnthế với những ái ân xác thịt. Ở nhân vật Nhị Khanh, khao
khát này được khắc hoạ nồng cháy hơn mãnh liệt hơn.


Lệ Khanh đi lại với Kiều Sinh nhưng không hề thổ lộ những tâm sự,
nỗi lịng của mình. Người đọc chỉ thấy giọng kể của tác giả: “Nàng cử chỉ
đáng u, nói năng dịu dàng, bèn bng màn kề gối, vui thú hết mực”.
Nhị Khanh gợi lên trong lòng người đọc sự cảm thông và chia sẻ.
Bởi nàng thẳng thắn bộc lộ khát khao hạnh phúc mãnh liệt và táo bạo hơn nữa, đó gần như sự bộc lộ quan niệm nhân sinh của con người.
“nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời
để cho sống ngày nào, nên tìm những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ
thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng
khơng thể được nữa”.
“Nay dám mong công tử quạt… đôi chút”.
“Sau bằng ngay trên mắt, tìm thú vui say, để khỏi phụ mất một thời
xuân tươi tốt”.
Quan điểm, hành động này của Nhị Khanh là một thách thức, một sự
tấn công vào quan điểm đạo đức nho gia bấy lâu chiết toả mọi khát khao

của cg. Nguyễn Dữ không chỉ tiến bộ hơn Cù Hựu mà còn tiến bộ hơn các
nhân văn cùng thời. Ơng nhìn thấy và dám thẳng thắn cho nhân vật của
mình bày tỏ cái khát khao bình dị rất con người. Điều đó cịn khẳng định
tư tưởng và đạo từ trong gốc rế của Nguyễn Dữ.
2.3. Tình yêu trong hai tác phẩm.
Với “Cây đền mẫu đơn” Cù Hựu không có ý định khắc hoạ mộttình
u. Mối quan hệ giữa Kiều Sinh và Lệ Khanh hồn tồn chỉ mang tính
chất tình dục, bẳnnng, khơng hề náyinh tình cảm. Chính vì vậy mà khi
gặp Kiều Sinh, Lệ Khanh đã kể tội chàng “Bạc tình đến thế cho nên thiếp
hận chàng lắm đấy” Kiều Sinh chết là do ép buộc bởi”nằng nắm lấy tay
Kiều Sinh đến trước quan tài. Quan tài tự mở nắp cô gái kéo chàng cùng
vào, nắp liền đậy ngay lại”.
Nhưng ở “cây gạo” Nguyễn Dữ đã xây dựng một tình yêu thực sự
giữa Nhị Khanh và Tình Trung Ngộ. Đó là tình u thương thắm thiết
nồng nàn của đơi trai gái. Đó là lời thề vàng đá, sắt son của họ:


“Đồng huyệt cha trịn nguyền ước ấy.
Vìa sau một thác sẵn son liều”
Tình Trung Ngộ chỉlà tay lái bn mạt hàng - hạng người bị coi
khinh trong xã hội và Nhị Khanh chỉ là ma nhưng tinh yêu của họ vẫn
thậtđẹp đẽ, sâu đậm. Với việc xây dựng nhân vật là lái bn và ma,
Nguyễn Dữ có ý tránh né khơng động chạm tới cuộc sống hiện thực.
Nhưng tình u thương của Tình Trung Ngộ khi biết Nhị Khanh là ma vẫn
muốn theo, khi mê man vẫn nói chuyện với nàng và tình nhưng chết bên
quan tài nàng - Tình yêu thương ấy làm xúc động biết bao người, nó còn
là ước mơ của biết bao người. Nguyễn Dữ đã hiểu thấu, đã khắc hoạ thành
cơng khát vọng tình u của con người qua hoạt động nhân dân của mình.
Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ thể hiện trong tc “Chuyện cây
gạo” thật sâu sắc. Tuy vậy ở cuối truyện hai hồn ma vẫn bị trừng phạt.

Đây là kết cục đau thương của tất cả những gì vượt ra khỏi lễ giáo. Chết
rồi vẫn chia thôi bị tước đoạt hạnh phúc. Chút hạnh phúc trần gian mong
manh ấy chỉ là thống chốc trong đêm tối, là hư vơ ảo ảnh mà con người
trong xã hội bị toả chiết bởi muôn vàn lễ giáo. Kết thúc tác phẩm là sự thể
hiện tư tưởng đạo đức Nho gia, thể hiện tính chất giáo huấn chung của các
truyện trong tác phẩm.
3.Cá tính sáng tạo của Nguyễn Dữ trong những bài thơ và lời
bình.
3.1. Những bài thơ.
Trong 2 tác phẩm “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục” đều
có xen kẽ một số bài thơ. Việc này có ý nghĩa: một là thể hiện tài năng
của tác giả. Bởi theo quan niệm thời trung đại, văn xuôi là thể loại không
đáng trọng, chỉ Thơ mới là thể loại văn học cao quý. Hai là các bài thơ thể
hiện tâm trạng mặt được cô đọng và sâu sắc hơn.
“Mẫu đơn đăng ký” khơng có thơ, trong “Mộc miên thụ truyện”. Hai
bài thơ của nàng Nhị Khanh bằng chữ hán làm theo thể đường luật miêu tả


lại những cuộc ái ân. Chúng thể hiện một tâm hồn thi sĩ trong tính cách
nhân vật, làm cho mặt người hơn.
3.2. Lời bình:
Lời bình ở cuối mỗi truyện trong “Truyền kì mạn lục” là nét đặc sắc
so với “Tiễn đăng tân thoại” của Cù Hựu. Tuy vậy, có những truyện mà
lời bình và nội dung tư tưởng khơng thống nhất với nhau. Ở “Mộc miên
thụ truyện” cũng vậy. Nội dung truyện thể hiện mối cảm thông sâu sắc với
nỗi khổ, niềm khát khao hạnh phúc của nhân vật. Nhưng lời bình của tác
phẩm lại chủ yếu phê phán thói đa dục của kẻ “thất phu”.
Sở dĩ có sự kiện này là bởi ở trong bản thân Nguyễn Dữ có sự tồn
tại của hai luông tư tưởng đan xen: vừa chính thống, vừa tiến bộ. Ơng
đồng tình, thể hiện được niềm khát khao hạnh phúc. Đây là sự tiến bộ

trong tư tưởng Nguyễn Dữ. Một mặt, Nguyễn Dữ vẫn mang tư tưởng thời
đại: phê phán, lên án thói đa dâm, đồi truỵ, cách kết thúc. Hai lời bình của
“Mộc miên thụ truyện” cho thấy Nguyễn Dữ chưa vượt qua được nửa con
người Nho gia chính thống, chưa vượt qua được những quan niệm kiềm
toả hạnh phúc con người của xã hội đương thời, để nângcao khẳng định
phần tử tiến bộ của mình.

III. KẾT LUẬN CHUNG.
Trên đây là hướng khám phá truyện “Mộc miên thụ truyện” thông
qua việc so sánh với “Mẫu đơn đăng ký” của Cù Hựu. Người viết đã cố
gắng làm sáng rõ những điểm tương đồng và dị biệt nhấn mạnh vào sự
khác biệt. Từ đó, người viết chỉ ra những sáng tạo, sự phát triển của
Nguyễn Dữ so với Cù Hựu và cả với những năm cùng thời. Từ nhận thức
về ý thức sáng tạo của Nguyễn Dữ, chúng ta có thể khẳng định “Truyền kì
mạn lục” đích thực là thành quả lao động nghệ thuật của ông, là giá trị
thẩm mỹ đặc sắc ông đóng góp cho nền văn học nước nhà. Đây chính là lí
do khiến các học giả ngày càng đánh giá cao sức sáng tạo của nội dung
khi nghiên cứu tác phẩm của ông.



×