Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

NGHIÊN CƯU LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM (TỪ 2002 ĐẾN 8/2010)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.28 KB, 37 trang )

MỤC LỤC:
Trang
I. LẠM PHÁT 2
1. Khái niệm 2
2. Tỷ lệ lạm phát 4
3. Phân loại lạm phát 6
4. Nguyên nhân lạm phát 9
5. Tác động của lạm phát 11
6. Một số VD điển hình 14
• TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM (TỪ 2002 ĐẾN 8/2010) 17
II. THẤT NGHIỆP: 20
1. Khái niệm 20
2. Các dạng thất nghiệp 22
3. Ảnh hưởng của thất nghiệp 24
4. Thất nghiệp tự nhiên 27
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP : 30
1. Đường cong Phillips
30
2. Sự dịch chuyển của đường Phillips
30
3. Mối quan hệ giữa LP-TN trong dài hạn
32
IV. BIỆN PHÁP ĐỂ GIẢM LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP: 33
1. Biện pháp giảm tỉ lệ lạm phát 33
2. Biện pháp giảm tỉ lệ thất nghiệp 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO 37

1
2
I.LẠM PHÁT
1. Khái niệm


Lạm phát là hiện tượng tiền giấy dư thừa so với nhu cầu cần thiết của lưu thông hàng hóa.
Trong kinh tế học, lạm phát được biểu hiện qua sự tăng lên theo thời gian của mức giá
chung của nền kinh tế.
Mức giá chung được hiểu là mức giá trung bình của nhiều loại hàng hóa, dịch vụ và được
đo bằng chỉ số giá.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng
tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại
tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là
lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ
hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu.
Đo lường lạm phát: dùng các chỉ số giá, trong đó có 3 loại chỉ số giá thông dụng:
 Chỉ số giá hàng tiêu dùng CPI
 Chỉ số giảm phát GDP
 Chỉ số giá sản xuất PPI
a.Chỉ số giá hàng tiêu dùng CPI (consumer price index):
Là chỉ tiêu đo lường biến động của mức giá trung bình của hàng hóa dịch vụ ở một thời
điểm nào đó bằng bao nhieu phần trăm so với thời điểm gốc.
Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá. Sự thay đổi của mức giá
chính là lạm phát.


=
=
=
n
i
ii
n
i
iit

qp
qp
CPI
1
00
1
0
Trong đó:
p
i1
: giá sản phẩm i ở thời điểm hiện hành
p
i0
: giá sản phẩm i ở thời điểm gốc
q
i0
: khối lượng mặt hàng i được quy định tính trong chỉ số (ở thời điểm gốc.)
Để xác định CPI, cục Thống kê phải:
 Cố định giỏ hàng: Lương thực, quần áo, chất đốt, đi lại, viễn thông...
 Xác định giá cả: Tìm giá của mỗi hàng hóa và dịch vụ trong giỏ hàng tại mỗi
thời điểm.
 Tính chi phí của giỏ hàng: sử dụng số liệu về giá cả để tính chi phí của giỏ hàng
tại các thời điểm khác nhau.
 Chọn năm gốc và tính chỉ số. Lấy chi phí của giỏ hàng năm t chia cho chi phí
của giỏ hàng trong năm gốc, ta thu được CPI.
3
b.Chỉ số giảm phát GDP (D):
Là chỉ tiêu đo lường biến động của mức giá trung bình của tất cả các hàng hóa dịch vụ mà
một nền kinh tế sản xuất được ở thời điểm hiện hành so với thời điểm gốc



=
=
=
n
i
iti
n
i
itit
qp
qp
D
1
0
1
%
Trong đó:
p
it
: giá sản phẩm i ở năm t
p
i0
: giá sản phẩm i ở năm gốc
q
it
: khối lượng sản phẩm i được sản xuất ở năm t
Khác với Chỉ số giá tiêu dùng CPI, D được tính trên giỏ hàng hoá thay đổi do vậy nó phản
ánh được sự thay thế giữa các hàng hoá, dịch vụ với nhau. Mặc dù vậy nó lại không phản
ánh được sự giảm sút phúc lợi của người tiêu dùng trong trường hợp phải tiêu dùng ít hơn

một loại hàng nào đó. Ví dụ: do sau dịch cúm gà, giá gà trở nên quá đắt so với giá thịt lợn
nên người tiêu dùng sẽ mua ít thịt gà hơn và mua nhiều thịt lợn hơn. Phúc lợi của người
tiêu dùng đã giảm xuống do họ phải tiêu dùng thịt gà ít hơn nhưng D không phản ánh được
điều này cho dù nó phản ánh được sự thay thế giữa thịt gà và thịt lợn.
CPI chỉ phản ánh mức giá của hàng tiêu dùng còn D phản ánh giá của cả hàng hoá do
doanh nghiệp, chính phủ mua. Vì thế D được coi là phản ánh đúng hơn mức giá chung.
D chỉ phản ánh mức giá của những hàng hoá sản xuất trong nước (vì GDP chỉ tính sản
phẩm trong nước) còn CPI phản ánh mức giá của cả hàng hoá nhập khẩu. Ví dụ: khi giá
một chiếc xe ô tô Toyota nhập khẩu tăng thì nó được phản ánh ở CPI nhưng không được
phản ánh ở D.
Tuy nhiên, trên thực tế, số liệu thống kê cho thấy sự khác biệt giữa CPI và D không lớn.
c.Chỉ số giá sản xuất PPI( Producer Price Index):
Là chỉ tiêu đo lường biến động của mức giá trung bình của những hàng hóa dịch vụ bán sỉ,
được dùng làm đầu vào cho sản xuất ở thời điểm hiện hành so với thời điểm gốc.
Thông thường PPI phản ánh tốc độ thay đổi giá ba nhóm hàng hóa: lương thực thực phẩm,
sản phẩm thuộc ngành chế tạo và ngành khai khoáng
Chỉ số này được tính theo giá bán buôn.
Cách tính giống như chỉ số giá tiêu dùng


=
=
=
n
i
ii
n
i
iit
qp

qp
PPI
1
00
1
0
4
Chỉ số PPI thường được tính trong doanh nghiệp chứ không được dùng phổ biến.
2.Tỷ lệ lạm phát :
Là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ tăng thêm hay giảm bớt của giá cả ở một thời điểm nào đó so với
thời điểm trước.
Tỷ lệ lạm phát hàng năm được tính theo công thức:
%100*1
1








−=
−t
t
CPI
CPI
TLLP
Hoặc:
%100*1

%
%
1








−=
−t
t
D
D
TLLP
Nếu tỷ lệ lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự "ổn định
giá cả".
• Ưu, nhược điểm của hai cách tính trên:
 Cách 1 : có thể tính nhanh nhưng không chính xác vì chỉ dựa trên một giỏ hàng
hóa đã chọn.
 Cách 2 : tính chính xác nhưng phải đợi hết năm mới có số liệu thống kê nên
chậm.
Việc tính toán tỷ lệ lạm phát nhằm xác định tình trạng nền kinh tế :
Giảm phát là hiện tượng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục. Giảm phát,
do đó, trái ngược với lạm phát. Cũng có thể nói giảm phát là lạm phát với tỷ lệ mang giá trị
âm. Trong các tài liệu thống kê tình hình kinh tế chính thức, khi đề cập đến giảm phát,
người ta vẫn đặt dấu âm kèm với con số ở mục tỷ lệ lạm phát. Giảm phát thường xuất hiện
khi kinh tế suy thoái hay đình đốn.

5
Nguyên nhân chính của giảm phát là do tổng cầu giảm,Có thể dùng sơ đồ AD-AS để minh họa.
Ban đầu tổng cầu tương ứng với đường AD. Điểm cân bằng của nền kinh tế là
điểm E tại giao điểm của hai đường AD và đường
AS (đường tổng cung). Sau đó, tổng cầu giảm, đường
AD dịch chuyển song song sang trái thành đường AD' cắt
đường AS ở điểm E'. E' là điểm cân bằng mới của nền kinh tế và
so với điểm cân bằng cũ E, sản lượng và mức giá chung đều giảm.
Giảm lạm phát: là hiện tượng xảy ra khi tỷ lệ lạm
phát của năm được xét thấp hơn tỷ lệ lạm phát của năm trước
Tỉ lệ lạm phát là số dương. TLLP t < TLLP t-1.
Thiểu phát : là hiện tượng xảy ra khi tỷ lệ lạm phát thực tế nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến
làm sản lượng thực nhỏ hơn sản lượng dự kiến.
Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn trong quản lý
kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát với giảm phát.
Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được
coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm
một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý
tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát
3-4 phần trăm một năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức
được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm
một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát.
Có những đặc trưng không phải con số tỷ lệ giúp xác định thiểu phát, đó là:
 Khi giá giảm liên tục và tăng trưởng GDP ở mức âm, nền kinh tế mới rơi vào tình
trạng thiểu phát.
 Ngân hàng thương mại gặp khó khăn khi cho vay, đồng thời họ lại đặt ra lãi suất
huy động tiết kiệm thấp- một tình trạng được coi là thị trường tiền tệ trì trệ. Tỷ lệ lạm phát
thấp khiến cho lãi suất thực tế trở nên cao, khiến các nhà đầu tư dè dặt đi vay ngân hàng.
Ngân hàng ứ đọng tiền, nên giảm huy động tiết kiệm bằng cách hạ lãi suất huy động tiết
kiệm.

 Sản xuất trở nên thiếu sôi động. Lạm phát thấp khiến cho tiền công thực tế cao hơn.
Người lao động vì thế có thể giảm cung lao động và tăng thơi gian nghỉ ngơi (xem thêm lý
luận về đường cung lao động uốn ngược). Mặt khác, giá cả sản phẩm thấp làm giảm động
lực sản xuất.
Thiểu phát đôi khi được coi là tình trạng trước giảm phát (một tình trạng trái ngược
với lạm phát nhưng vẫn nguy hiểm đối với nền kinh tế).
6
Tình huống thiểu phát ở Việt Nam
Năm 2008 đánh dấu một năm lạm phát cao, song chỉ đến đầu quý 3, do các biện pháp kiềm
chế lạm phát quá mức, bắt đầu có nỗi lo thiểu phát và "Nhiều người lo ngại Việt Nam cũng
đối mặt với nguy cơ tương tự, nhất là khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 giảm 0,19%.
Đây là lần đầu tiên sau một năm rưỡi trở lại đây, CPI ở mức âm".
3. Phân loại lạm phát:
Có nhiều cách phân loại lạm phát. Khi căn cứ vào những tiêu thức khác nhau thông thường
có hai cách phân loại sau:
• Căn cứ vào khả năng dự đoán:
a. Lạm phát dự đoán P
e(expected)
:
Là lạm phát diễn ra đúng như dự đoán.Lạm phát này không gây ra những tổn that lớn cho
nến kinh tế vì dân chúng sẽ làm giảm thiệt hại của mình bằng hai cách:
 Thứ nhất: hoạch toán thêm tỷ lệ lạm phát (thường gọi là trượt giá) vào những
chi tiêu có liên quan. i = ir + Pe
 Thứ hai: nếu lạm phát dự đoán xảy ra với tỷ lệ lạm phát cao, dân chúng sẽ tránh
giữ tiền mà thay vào đó là vàng, ngoại tệ mạnh hay hàng hóa.
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền
kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội:
 Chi phí mòn giày : lạm phát giống như thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi
suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm
cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên

đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn
giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn
mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
 Chi phí thực đơn : lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các DN sẽ mất
thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
 Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp
do lạm phát DN này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn
doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn
thì giá cả của DN giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với DN tăng giá. Do
nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã
dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
 Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn
của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát.
Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu
nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả
phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
7
 Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước
đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và
vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
b. Lạm phát ngoài dự đoán P
une (unexpected)

Là phần tỷ lệ lạm phát vượt ra ngoài dự đoán của mọi người.Khi đó:
P = P
e
+ P
une
Loại lạm phát này gây ra sự phân phối lại của cải trong dân chúng (giũa người đi vay và
người cho vay, giũa người trả lương va người hưởng lương…)

Ví du: Cho vay với lãi suất là 15%. Nhưng TLLP là 20%. Vậy, người cho vay đã bị
thiệt hại:
Lãi suất thực= Lãi suất danh nghĩa - TLLP
- 5% = 15% - 20%
Lúc này, người đi vay được lợi.
Lập luận tương tự với người trả lương (DN) và người nhận lương (công nhân).
Lạm phát không dự kiến được là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối
lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng
thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi
vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến
người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự
kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực của lạm
phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không đáng kể và
điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến
động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân
một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách
chống lại loại lạm phát này.
• Căn cứ vào tỷ lệ lạm phát:
a.Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát 1 con số (tỷ lệ lạm phát dưới 10%/ năm.
Loại lạm phát này được xem là là tích cực và cần thiết vì nó có khả năng tạo điều
kiện thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nguyên nhân: do sức ỳ, do sự kỳ vọng.
Sức ỳ của nền kinh tế là hiện tượng khi giá cả tăng lên vào dịp lễ, Tết, sau đó giảm , nhưng
không giảm về đúng mức trước khi tăng giá, luôn tăng lên một chút, gây ra lạm phát với tỉ
lệ thấp.
Do sự kỳ vọng, sẽ điều chỉnh các chỉ tiêu danh nghĩa.
Tác động: tương đối ổn định, có thể ký các hợp đồng với các điều kiện danh nghĩa
8
b. Lạm phát phi mã:

Là loại lạm phát 2 hay 3 con số (tỷ lệ lạm phát từ 10% đến dưới 1000%/ năm). Việt Nam
và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách.
Nguyên nhân : do biến động về phía tổng cung hay tổng cầu .
Tác động: Nhìn chung lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những
biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho nên
mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày, làm giảm đầu
tư. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng
vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn
và tích lũy của cải.
c. Siêu lạm phát:
Là loại lạm phát trên 4 con số (tỷ lệ lạm phát từ 10% đến dưới 1000%/ năm). Siêu lạm phát
là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị.
Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa
cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh tế ngưười Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát
hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo định nghĩa
này thì cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm phát.
Nguyên nhân : Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng
này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm
phát có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng, do
sự căng thẳng về ngân sách chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc
khủng hoảng nợ của Thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm
phát ở một số nước Mỹ La-tinh.
Theo Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát, đó là:
(1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền
(2)giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa bằng một ngoại tệ ổn định
(3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn.
(4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba
năm lên tới 100 phần trăm.
Một trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức sau Thế chiến thứ

nhất.. Từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên
10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh tế Đức đến
mức nó thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức
quốc xã và Thế chiến thứ hai
Tác động: phá hủy tòan bộ hệ thống tài chính, tiền tệ của quốc gia, hay nền kinh tế đó.
4. Nguyên nhân lạm phát
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì lạm phát là một căn bệnh kinh
niên của mọi nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Nó không có bản chất giai cấp mà chỉ có bản
chất kinh tế. Nó có tính thường trực, nếu không thường xuyên kiểm soát, không có những
9
giải pháp chống lạm phát thường trực, đồng bộ và hữu hiệu
thì lạm phát có thể xảy ra ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào
với bất kỳ chế độ xã hội nào.
Biểu hiện của lạm phát là: khi mức chung của giá cả
hàng hoá và chi phí sản xuất đồng thời tăng lên một cách phổ
biến trong một khoảng thời gian đủ dài để nhận rõ xu hướng
này. Nguyên nhân của lạm phát bao gồm:
a. Do sức ỳ của nền kinh tế:
Giá cả tăng đều với 1 tỉ lệ nhất định trong thời gian
dài, nền kinh tế không có những thay đổi lớn nào về cung cầu
hàng hóa, người ta đi đến trông chờ vào tỉ lệ đó, nó sẽ được
hoạch toán vào tất cả các hợp đồng của nền kinh tế. Đó chính là sức ỳ của nền kinh tế, tạo
ra lạm phát ỳ. Đây là lạm phát dự đoán, còn được gọi là lạm phát do quán tính.
Ví dụ cụ thể của hiện tượng lạm phát do quán tính là khi nền kinh tế bị lạm phát
cao, mọi người có xu hướng chỉ giữ lại một lượng tiền mặt tối thiểu để chi tiêu hằng ngày,
họ đem tiền đổi lấy các đồng tiền mạnh khác, vàng hay các loại hàng hoá để tích trữ giá trị,
làm tăng lượng tiền lưu thông trên thị trường, càng làm đồng tiền mất giá và tăng lạm phát.
b. Do cầu kéo:
Khi tổng cầu tăng, dẫn đến mức giá chung của hàng hóa tăng, gọi là lạm phát do
cầu kéo. Lạm phát này do 2 yếu tố:

 Sự gia tăng cung tiền của Ngân hàng Trung ương.
 Sự gia tăng chi tiêu của chính phủ.
Đây là lạm phát không dự đoán được, nên thường đưa nền kinh tế vào vòng xoáy
nguy hiểm, nhất là khi sản lượng đã đạt hoặc vượt mức sản lượng tiềm năng: mất cân đối
về cung - cầu hàng hoá dịch vụ mà trong đó cầu có khả năng thanh toán lớn hơn so với
cung hàng hoá hoặc tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán lớn hơn tốc độ gia tăng
của sản xuất
 Trên thị trường, hàng hoá khan hiếm tương đối so với tiền do đồng thời cả hai
nhóm nguyên nhân hàng và tiền; nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển, năng suất lao động
thấp, năng lực sản xuất đã hầu như đạt tới giá trị sản lượng tiềm năng trong điều kiện trình
độ hiện tại nhưng tiền vẫn được bơm ra quá sức hấp thụ thông qua các van;
chi ngân sách quá lớn so với nguồn thu, mở quá rộng biên độ của hạn mức tín dụng, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc quá nhỏ, lãi suất tái cấp vốn quá thấp, hệ thống thị trường vốn vừa thiếu,
vừa không hoàn hảo trong khi ngoại tệ tràn vào nhiều càng tạo thành những "hợp lực" kích
cầu lên cao hơn so với cung... Khoa học mô tả tình trạng lạm phát này là “quá nhiều tiền
đuổi theo quá ít hàng hoá”.
c. Do chi phí đẩy:
10
Khi chi phí đẩy giá lên ngay cả trong những thời kì tài nguyên không được sử dụng
hết gọi là lạm phát do chi phí đẩy. Đây là hiện tựơng mặt bằng giá cả thị trường bị đẩy lên
do chi phí sản xuất gia tăng quá mức trung bình mà nền kinh tế có thể chịu đựng được:
tăng giá nguyên, nhiên vật liệu; tốc độ tăng tiền lương lớn hơn tốc độ tăng năng suất lao
động quân bình; chi phí khấu hao lớn trong khi thiết bị lại lạc hậu, tiêu tốn nhiều nguyên
liệu và sức lao động nhưng năng suất thấp; chi phí gián tiếp chiếm tỷ trọng quá cao trong
tổng chi phí cho phép làm cho (C+V) chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng giá cả (C+V+M).
Đặc điểm của loại lạm phát chi phí đẩy là thường diễn ra trong điều kiện nền sản
xuất chưa đạt tới mức giá trị sản lượng tiềm năng so với năng lực hiện tại. Lạm phát này
xuất hiện thường đồng thời kéo tốc độ suy thoái kinh tế rất nhanh và khó khắc phục hơn
nhiều so với chống lạm phát cầu kéo… Chi phí sản xuất tăng có thể do các nguyên nhân
sau: do gia tăng tiền lương danh nghĩa, tăng giá nguyên-nhiên-vật liệu, do chi phí sản xuất

tăng nên doanh nghiệp buộc phải tăng giá sản phẩm nhằm bảo đảm lợi nhuận, cuối cùng
thị trường cân bằng tại mức giá cao hơn ban đầu. Năng lực sản xuất của quốc gia giảm có
thể do các nguyên nhân như: giảm sút nguồn nhân lực, do sự gia tăng tỉ lệ thất nghiệp tự
nhiên, do sự biến động chính trị, chiến tranh, thiên tai, do năng lực sản xuất suy giảm nên
khả năng đáp ứng nhu cầu giảm, gây khan hiếm hàng hoá và tăng giá cả.
d. Các nguyên nhân lạm phát khác:
 Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế: xuất hiện khi có quan hệ không bình
thường trong các cân đối cơ bản của nền kinh tế như Công nghiệp - Nông nghiệp, Công
nghiệp nặng - Công nghiệp nhẹ, Sản xuất - dịch vụ, Xuất - nhập khẩu và Tích luỹ - tiêu
dùng... Các quan hệ nói trên không được đặt trong một hoàn cảnh kinh tế cụ thể để có định
hướng cân đối một cách hợp lý sẽ lập tức gây ra hiện tượng đông cứng một bộ phận nguồn
lực kinh tế, giữa chúng không chuyển hoá được cho nhau tạo ra một trạng thái vừa thừa,
vừa thiếu các năng lực sản xuất một cách giả tạo. Vì vậy, còn có thể gọi nhóm nguyên nhân
gây ra loại lạm phát này là sự ách tắc các nguồn vốn, các lợi thế so sánh giữa các vùng
trong nội bộ nền kinh tế và lợi thế so sánh giữa các quốc gia không được khai thác làm cho
sức phát triển bị "đóng băng" hoá. Lạm phát do cơ cấu khiến
ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động, ngành kinh
doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong
ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng
giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh từ đó.
 Lạm phát do xuất khẩu: xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng
cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị
trường trong nước giảm làm tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung
và tổng cầu mất cân bằng.
 Lạm phát do nhập khẩu: khi giá hàng hoá nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm
đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
11
 Lạm phát tiền tệ : cung tiền tăng ( chẳng hạn do Ngân hàng Trung ương mua
ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước, hay chẳng hạn
do Ngân hàng Trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền

trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
 Lạm phát đẻ ra lạm phát: khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý
sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu
trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
5. Tác động của lạm phát:
a. Sự phân phối lại thu nhập và của cải:
Vì giá cả và thu nhập danh nghĩa biến động không cùng tốc độ nên có sự thay đổi
trong thu nhập thực tế dẫn đến sự phân phối lại.
Lạm phát ở mức độ vừa phải có lợi là nó góp phần phân phối lại thu nhập trong xã
hội, giữa những người thừa tiền và những người có hàng hoá cần thanh lý. Sau khi lạm
phát kết thúc thì tiền sẽ phân phối đều hơn, ít trường hợp người này wá nhiều tiền còn
người kia wá nhiều hàng nhưng lại thiếu vốn.
b. Sự điều chỉnh lãi suất danh nghĩa:
Khi lạm phát diễn ra lâu dài, thị trường bắt đầu thích nghi bằng cách có 1 khoản phụ
phí bù đắp cho lạm phát, dần dần hình thành trong lãi suất thị trường.
c. Tác động đến sản lượng:
Kinh tế vĩ mô hiện đại kết luận rằng không có mối quan hệ trực tiếp giữa lạm phát
và mức sản lượng vì sẽ có trường hợp lạm phát cao, sản lượng cao (lạm phát do cầu kéo)
và lạm phát cao nhưng sản lượng thấp (lạm phát do chi phí đẩy).
d. Kích thích gia tăng khối tiền giao dịch trong nền kinh tế:
Khi lạm phát diễn ra, mọi người sẽ có xu hướng cộng thêm phần trượt giá vào các
chỉ tiêu tiền tệ có liên quan, do đó nhu cầu về tiền giao dịch gia tăng.
• Tác động tích cực:
Đối với lạm phát vừa phải hay lạm phát kiểm soát được thì tuỳ theo chiến lược và
chiến thuật phát triển kinh tế mỗi thời kỳ mà các Chính phủ có thể chủ động định hướng
mức khống chế trên cơ sở duy trì một tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu để gắn với một số mục
tiêu kinh tế khác: kích thích tăng trưởng kinh tế, tăng cường xuất khẩu và giảm tỷ lệ thất
nghiệp trong các năm tài khoá nhất định. Một chút lạm phát cũng khiến DN kiếm thêm lợi
nhuận vì thông thường từ khâu nhập nguyên liệu (giá trước lạm phát) đến lúc hoàn thành
sản phẩm bán được cao giá hơn cũng tốt thêm cho doanh vụ. Hoặc hàng năm chính phủ có

thể phát hành thêm một lượng tiền mới để tiêu xài cho những chương trình công cộng hoặc
giải quyết thiếu hụt ngân sách khiến đồng tiền được xoay vòng tạo ra thêm của cải, trực
12
tiếp đẩy cao tổng sản lượng quốc dân GDP lên thêm một mức. Dĩ nhiên nếu quá đà sẽ có
nguy cơ gây ra lạm phát nặng hoặc siêu lạm phát và làm các hoạt động kinh tế sẽ bị tê liệt.
Chỉ có thể chấp nhận có lạm phát vừa phải trong điều kiện nền kinh tế còn chưa đạt tới giá
trị sản lượng tiềm năng so với điều kiện hiện tại, khi mà nhiều nhân tố của sản xuất vẫn
còn nằm trong tình trạng ngủ yên hoặc chưa có phương án khả thi để phát huy các tiềm
năng đó. Khối tiền tệ chung Châu âu EC và một số nước bắc Âu như Thuỵ Điển, Na Uy,
Đan mạch, v.v đã điều hành CSTT bằng cơ chế Ngân hàng Trung ương đảm bảo lạm phát
mục tiêu: nghĩa là Ngân hàng Trung ương sử dụng công cụ CSTT để duy trì và đảm bảo
một mức lạm phát mục tiêu giao động xung quanh một chỉ số CPI được xác định là 2 hoặc
3%/năm và nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng GDP trong năm. Cơ chế này đã và đang phát huy
nhiều tác dụng tích cực ít nhất trong vòng 5 năm qua.
• Tác động tiêu cực:
Khi lạm phát xảy ra thì hầu hết mọi thành phần của nền kinh tế đều trở thành nạn
nhân của lạm phát, bởi nhìn một cách tổng thể thì mỗi người đều là người tiêu dùng. Tuy
nhiên, 4 thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất là:
 Người về hưu : lương hưu là một trong những “hàng hoá” ổn định nhất về
giá cả, thường chỉ được điều chỉnh tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng hoá
đã tăng lên gấp nhiều lần.
 Những người gửi tiền tiết kiệm: hẳn nhiên sự mất giá của đồng tiền khiến cho
những người tích trữ tiền mặt nói chung và những người gửi tiền tiết kiệm
đánh mất của cải nhanh nhất.
 Những người cho vay nợ: khoản nợ trước đây có thể mua được một món
hàng nhất định thì nay chỉ có thể mua được những món hàng có giá trị thấp
hơn. Vậy ai là người được hưởng lợi? Có lẽ khi đồng tiền mất giá dần thì
người sung sướng nhất chính là những con nợ vì nay khoản nợ họ phải trả có
vẻ nhẹ gánh hơn.
 Những người thuộc diện nghèo trong xã hội (thu nhập dưới 1USD/ngày): đây

là những người chịu hậu quả nặng nề nhất của lạm phát khi số tiền ít ỏi của
họ giờ đây không đủ cho 1 bữa ăn gia đình.
Giá cả tăng mạnh sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Lạm phát cao làm giảm giá
trị đồng tiền trong nước. Khi các mức giá cả trong tương lai khó dự đoán hơn thì các kế
hoạch chi tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ trở nên khó thực hiện hơn. Người dân ngày càng lo
ngại về việc sức mua trong tương lai của họ bị giảm xuống và mức sống của họ cũng vì
vậy mà kém đi. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi
hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất (ví dụ: khi có lạm phát, nếu ngân hàng không
tăng lãi suất tiền gửãi thì dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào
đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao...). Lạm phát cao đặc biệt ảnh hưởng xấu đến những
người có thu nhập không tăng kịp mức tăng của giá cả, đặc biệt là những người sống bằng
13
thu nhập cố định như là những người hưởng lương hưu hay công chức. Phúc lợi và mức
sống của họ sẽ bị giảm đi.
• Ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động của ngân hàng:
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các
ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân
hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến
của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối với mỗi
ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng
(17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới,
rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động
gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng
bất ổn cho cả hệ thống Ngân hàng Thương mại.
Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm
khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân
kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với
những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép.
Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu

đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng
Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở
lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối
với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn
trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh
khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi.
Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng hóa,
thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát, nhưng lại
khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng
35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong
đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài
ngân hàng lớn, Ngân hàng Nhà nước thực sự khó khăn trong việc kiểm soát chu
chuyển của luồng tiền này, các Ngân hàng Thương mại cũng khó khăn trong việc phát
triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền thiếu,
nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài
hoạt động.
Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh
hưởng lớn đến hoạt động của các Ngân hàng Thương mại. Sự không ổn định của giá cả,
bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó
khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính – tín
dụng.
6. Một số ví dụ điển hình:
a. Zimbabwe:
14

×