Lời mở đầu
Trong các chương trình kinh tế- xã hội và các chiến lược phát triển kinh
tế thì hầu hết các quốc gia đều nhấn mạnh vào việc tăng trưởng kinh tế
nhanh và mạnh.
Nhưng có thật sự chỉ cần tăng trưởng kinh tế nhanh và mạnh thì nó sẽ là
đầu tầu, kéo theo việc giải quyết các vấn đề cơ cấu kinh tế và các vấn đề
xã hội khác.
Thực tế cho thấy rằng nhiều nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao
nhưng những vấn đề về xã hội thì rất phức tạp, thu nhập bình quân tăng
cao nhưng đời sống của nhân dân không được cải thiện, thậm chí còn
thấp hơn.Khoảng cách về giàu nghèo cũng ngày càng tăng thêm.
Phát triển kinh tế bao gồm 3 nội dung : tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu và phúc lợi cho con người.Trong nội dung phúc lợi cho con người
bao gồm 3 vấn đề: bất bình đẳng, đói nghèo và điều kiện sống khác.
Làm rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo để
thấy rằng tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để phát
triển kinh tế. Để từ đó có những biện pháp vừa tăng trưởng kinh tế nhanh
mà còn nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo , để từ đó có thể
đua ra được những chính sách phát triển toàn diện cho quốc gia.
Chương 1:Những vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế
và xoá đói giảm nghèo
1. Tăng trưởng kinh tế
1.1 Bản chất của tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm ( hay gia
tăng ) về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời gian nhất định.
Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ cuat nền kinh
tế tạo ra. Do vậy , để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dung mức
tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế ( tính toàn bộ hay tính bình
quân theo đầu người) của thời kỳ sau so với thời kỳ trước. Như vậy, tăng
trưởng kinh tế được xem xét trên 2 mặt biểu hiện: đó là mức tăng tuyệt
đối hay mức tăng phần trăm(%) hang năm, hoặc bình quân trong một giai
đoạn.
1.2 Các đại lượng
đo lường tăng trưởng kinh tế
- Tổng sản phẩm trong nước( hay tổng sản phẩm quốc nội) –GDP :
thường được hiểu là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ mới được tạo ra trong
năm bằng các yếu tố sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
+Về phương diện sản xuất: GDP có thể xác định đyươc bằng toàn bộ giá
trị tăng của các ngành, các khu vực sản xuất và dịch vụ trong cả nước
Giá trị gia tăng (Y) = Giá trị sản lượng (GO) – Chi phí các yếu tố trung
gian(IE)
+Về phương diện tiêu dung, GDP biểu hiện ở toàn bộ hang hoá và dịch
vụ cuối cùng tính theo giá hiện hành của thị trường, được tạo ra trên
phạm vu lãnh thổ quốc gia hàng năm
GDP =C+ I+ G+ ( X- M )
+Xác định theo phương diện thu nhập
GDP thu nhập = Cp+ Ip+ T
-Tổng sản phẩm quốc dân (GNI):là toàn bộ sản phâtm và dịch vụ cuối
cùng mà tất cả công dân một nước tạo ra và có thể thu nhập trong năm,
không phân biệt sản xuất được thực hiên ở trong nước hay ngoài nước
GNP = GDP + Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài
-Sảp phẩm quốc dân thuần tuý (NNP)
NNP= GNP- Dp
-Thu nhập quốc dân sử dụng(NDI)
NDI = NNP – (Ti+Td) + Sd
-Thu nhập binhg quân đầu người
2.Phát triển kinh tế
21.Bản chất của phát triẻn kinh tế
Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về
mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm
cả sự tăng thêm về quy mô sẳn lượng (tăng trưởng) và cả sự tiến bộ về cơ
cấu kinh tế-xã hội).
Những vấn đề cơ bản của định nghĩa trên bao gồm:
+ Trước hết sự phát triển bao gồm cả sự tăng thêm về khối lượng của cải
vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã
hội
+Tăng thêm về quy mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế-xã hội là
hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc vưa độc lập tương đối của lượng
và chất.
+Sự phát triển là một quá trình tiến hoá theo thời gian do những nhân tố
nội tại của bản than nền kinh tế quyết định.
+Kết quả của sự phát triến kinh tế-xã hội là kết quả của một quá trình vận
động khách quan, còn mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội đề ra là thể hiện
sự tiếp cận tới các kết quả đó.
Phát triẻn kinh tes là một khái niệm chunh nhất về sự chuyển biến của
nền kinh tế,từ trạng thiái thấp lên một trạng thái cao hơn.Do vậy không có
tiêu chuẩn chung về sự phát triển. Để nó lên trình độ phát triển cao, thấp
khác nhau giữa các nền kinh tế trong mối thời kỳ, các nhà kinh tế học
phân quá trình đó ra các nấc thang: kém phát triển, đang phát triển và
phát triển…gắn với các nấc thang đó là những giá trị nhất định mà hiện
tại chưa có sự thống nhất hoàn toàn.
2.2 Các đại lượng đo lường phát triển kinh tế
Ngoài các chỉ số về tăng trưởng kinh tế, các đại lượng đo lường phát triển
kinh tế còn sử dụng các chỉ số phản ánh sự biến đổi cơ cấu kinh tế- xã hội
Các chỉ số xã hội của phát triển
-Tuổi thọ bình quân trong dân số:phản ánh một cách tổng hợp về tình
hình sức khoẻ của dân cuu trong một nước.Trong đó nó bao hàm sự văn
minh trong đời sống của mức sinh hoạt vật chất và tinh thần được nâng
cao.
-Mức tăng dân số hằng năm:là một chỉ số đi liền với chỉ số tăng thu nhập
bình quân đầu người.
-Số calo bình quân đầu người (calo/người/ngày): chỉ số này phản ánh
mức cung ứng các loại nhu cầu thiết yếu nhất đối với mọi người dân, về
lương thực, thực phâtm hang ngày được quy đổi thành calo.Nó cũng thấy
một nền kinh tế giải quyết được nhu cầu cơ bản như thế nào.Với nền kinh
tế đã phát triển thì chỉ tiêu này ít ý nghĩa.
-Tỷ lệ người có học ( biết chữ) trong dân số:cùng với chỉ số này còn dùng
chỉ số tỷ lệ trẻ em đến trường trong độ tuổi đi học,hay trình độ phổ cập
văn hoá của người lao động trong dân số.Các chỉ số này phản ánh trình độ
phát triển và sự biến đổi về chất của xã hội.Xã hội hiện đại đã coi việc
đầu tư cho giáo dục và đào tạo là lĩnh vực đầu tư cho phát triểnkinh tế- xã
hội trong dài ạn.Tỷ lệ người biết chữ và trẻ em đi học cao, đồng nghĩa với
sự văn minh xã hội, và nó thường đi đôi với nền kinh tếcơ mức tăng
trưởng cao.Do vậy nó là một chỉ số quan trọng để dánh giá trình độ phát
triển kinh tế- xã hộicủa một nước
-Các chỉ số khác về phát triểnkinh tế- xã hội: một số các chỉ số khác cũng
hay được dùng như về mặt bảo hiểm, chăm sóc sức khoẻ (số gường bệnh,
số bệnh viện, viện an dưỡng, số bác sĩ,y sĩ tính bình quân cho một triệu
dân).Về văn hoá, giáo dục có tổng số các nhà bác học, giáo sư, tiến sỹ, số
lớp học, trường học, viện nghiên cứu, thư viện, bảo tàng…tính bình quân
cho nghìn hoặc triệu dân.
b) Các chỉ số về cơ cấu kinh tế
-Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội
-Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương(X-M)
-Chỉ số về mức tiết kiệm-đầu tư(I): I = GNP- C+ X –M
-Chỉ số cơ cấu nông thôn và thành thị
-Chỉ số về sự liên kết kinh tế :chỉ số này biểu hiện ở mối quan hệ trong
sản xuất và giao lưu kinh tế giữa các ngành và các khu vực trong nước, sự
chặt chẽ của mối liên kết được đánh giá thông qua trao đổi các yếu tố đầu
vào- đầu ra trong các ma trận liên ngành, liên vùng. Điều đó thể hiện sự
tiến bộ của nền sản xuất trong nước bằng việc đáp ứng được ngày càng
nhiều các yếu tố sản xuất do trong nước khai thác
3.Nghèo đói và phương pháp tiếp cận
3.1 Đói nghèo và các khía cạnh của nghèo đói
Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn cầu và đang thu hút nỗ lực
chung của cả cộng đòng quốc tế nhằm từng bước xoá bỏ đói nghèo và
nâng cao phúc lợi chủa người dân. Tuy nhiên, rất khó có thể đưa ra một
khái niệm chung, thống nhất về thế nào là đói nghèo.Hầu hết tất cả đều
coi đói nghoè là tình trạng một nhóm người trong xã hội không có khả
năng được hưởng “một cái gì đó” ở mức độ tối thiểu cần thiết. Sự khác
nhau về việc xác định “ cái gì đó” đã tạm chia thành ba trường phái chính
trong quan niệm về nghèo đói.
Trường phái thứ nhất , được coi là trường phái phúc lợi, coi một xã hội có
hiện tượng đói nghèo khi một hay nhiều cá nhân trong xã hộiđó không có
được một mức phúc lợi kinh tế được coi là cần thiết để đảm bảo một cuộc
sống tối thiểu hợp lý theo tiêu chuânt của xã hội đó.Cách hiểunày coi” cái
gì đó” là phúc lợi kinh tế của cá nhân, hay độ thoả dụng cá nhân.Tuy
nhiên, vì độ thoả dụng vốn là một khái niệm mang tính ước lệ, không thể
đo lường hay lượng hoá được,nên người ra thường đồng nhất nó với một
khái niệm khác cụ thể hơn, đó là mức sống.Khi đó, tăng thu nhập được
xem là điều quan trọng nhất để nâng cao mức sống hay độ thoả dụng cá
nhân.
Quan niệm về nghèo đói như vậy tuy được coi là cần , nhung chưa đủ vì
đói nghoè còn bao hàm nhiều khía cạnh khác chứ không chỉ riêng thu
nhập.Vì thế, trường phái thứ hai, trường phái nhu cầu cơ bản, coi “cái gì
đó” mà người nghèo thiếu là một tập hợp những hang hoá và dịch vụ
được xác định cụ thểmà việc thoả mãn chúng là điều kiện tiên quyết để
đảm bảo chất lượng cuộc sống.Những nhu cầu cơ bản đó bao gồm lương
thực thực phẩm, nước, điều kiện vệ sinh, nhà ở, quần áo, giáo dục, y tế cơ
sở và giao thông công cộng.Trong nhưng nhu cầu đó thì nhu cầu về dinh
dưỡng là quan trọng nhất. Điểm khác biệt chính giữa trường phái này so
với truờng phái phúc lợi là nó không đi vào xác định mức sống hay độ
thoả dụng cá nhân, mà là một hệ thống các hang hoá cơ bản được coi là
mọi cá nhân có quyền được hưởng.Trường phái này bătd nguồn từ những
nghiên cứu đầu tiên của nhà kinh tế người Anh Seebohm Rowntree trong
những năm 1900 và phổ biến từ thập niên 70.Quan niệm này về nghèo
đói được phản ánh rất rõ qua định nghĩa về đói nghèomà Hội nghị Quốc
tế về vấn đề này tại Thái Lan năm 1993 đã đưa ra, theo đódn là tình trạng
một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ
bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển
kinh tế-xã hộivà phong tục tập quán của từng địa phương.
Một khăn lớn nhất đối với quan niệm đói nghèo theo trường phái nhu cầu
cơ bản là nhu cẩu cơ bản cũng thay đổi tuỳ theo tuổi tác, giới tính… và
các đặc điểm nhân khẩu khác, cũng như mức độ tham gia các hoạt đọng
của từng cá nhân.Vì thế, trường phái thứ ba không quan tâm đến những gì
thiếu để thoả mãn độ thoả dụng cá nhân hay nhu cầu cơ bản của con
người , mà chú trọng đến khả năng hay năng lực của con người.Do vây,
trường phái này còn được gọi là trường phái năng lực, mới nổi lên từ
những năm 80 với người đi tiên phong và nhà kinh tếhọc người Mỹ gốc
Ấn Độ Âmrtya Sen.Theo ông, giá trị cuộc sống của con người không chỉ
phụ thuộc duy nhất vào độ thoat dụng hay thoả mãn các nhu cầu cơ bản,
mà đó là khả năng mà một con người có được, là quyền tự do đáng kể mà
họ được hưởng, để vươn tới một cuộc song mà họ mong muốn.Như vây,
truờng phái này khác cơ bản so vớicác trường phái trên ở chỗ nó chú
trọng đến việc tạo cơ hội cho người nghờ đế họ có thể phát huy năng lực
theocách mà họ tự chọn
Từ sự phân tích trên có thể thấy, tuy chúng ta không thể tìm được một
khái niệm duy nhất đầy đủ và đói nghèo, nhưng có thể chỉ ra những biển
hiện cơ bản hay những khía cạnh chủ yếu của đói nghèo.Việc chỉ ra
những khía cạnh như vậy rất quan trọng vì nó quyết định các thước đo đói
nghèo cũng như định hướng cho chính sách XĐGN.
Ngày ngay, hầu hết các tổ chức quốc tế như NHTG, Liên Hiệp Quốc đều
đã mở rộng khái niệm đói nghèo để bao hàm cả những khía cạnh về năng
lực như Sen đã đề xuất. Theo đó, đói nghèo gồm những khía cạnh cở bản
sau:
-Trứoc tiên và trên hết là sự khốn cùng về vật chất được đo lường theo
một tiêu chí thích hợpvề thu nhập hoặc tiêu dùng
-Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ tiếu thốn về giáo
dục và y tế
-Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức là khả năng một hộ gia
đình hay cá nhân bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập hoặc về sức khoẻ
-Cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói và quyền lực của người
nghèo.
3.2 Thước đo đói nghèo
Để tính toán một thước đo đói nghèo, cần có ba yếu tố.Thứ nhất, cần lựa
chọn một tiêu chí nghiên cứu và chỉ số phản ánh phúc lời.Thứ hai, cần lựa
chọn một ngưỡng nghèo, đólà mức giới hạn mà cá nhân hay hộ gia đình
nằm dưới mức đó sẽ bị coi là nghèo.Cuối cùng, phải chỏna một thước đo
đói nghèo được sử dụng để phản ánh cho tổng thể hoặc một nhóm dân cư.
a).Xác định các chỉ số phúc lợi
Những khía cạnh cơ bản cuả đói nghèo được nên trên có thể chia làm
khía cạnh tiền tệ và phi tiền tệ. Khía cạnh tiền tệ của đói nghèo được phản
ánh chủ yếu qua mức chi tiêu bình quân đầu người, vị chỉ số này tổng hợp
được rất nhiều yếu tôd có thể làm cải thiện chất lượng cuộc sống, như chi
cho ăn uống, học hành,thuốc thang và các dịch vụ y tế.Ngoài ra, thước đo
chi tiêu còn bao gồm cả tính toán về “ giá trị sử dụng” hang năm của
những hàng hoá lâu bềnvà nhà ở
Các khía cạnh phi tiền tệ của đói nghèo được dùng để đo tình trạng thiếu
thốn về y tế, giáo dục, các mối quan hệ xã hội, sự bất an, kém tự tin hay
thiếu quyền lực…Trong một số trường hợp, có thể ước tính giá trị của các
chỉ số phi tiền tệ này, nhưng đa phần phải dựa trên các đánh giá chủ quan
do cá nhân tự khai báo qua các cuộc điều tra.
b).Lựa chọn và ước tính ngưỡng nghèo
Ngưỡng nghèo( hay còn gọi là chuẩn nghèo) là ranh giới để phân biệt
giữa người nghèo và người không nghèo. Nó có thể là một ngưỡng tính
băng tiền(thí dụ, một mức tiêu đung hay thu nhập nào đó),hay phi tiền
tệ(ví dụ, một trình độ học vấn nhất định).Có hai cách chính để xác định
ngưỡng nghèo:
-Ngưỡng nghèo tuyệt đối: lag chuẩn tuyệt đói về mức sống được coi là tối
cần thiết để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khoẻ mạnh.Phương
phápchung để xác định ngưỡng nghèo này sử dụng một rổ các loại lương
thực đưộcci là cần thiết để đảm bảo mức độ dinh dưỡng tốt cho con
người.Rổ lương thực đó sẽ tính đến cả cơ cấu tiêu dùng lương thực của
các hộ gia đình đặc thù của một nước.Trên cơ sở đó, hai ngưỡng nghèo
tuyệt đói sẽ được tính toán.Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để
mua một rổ lương thực thực phẩm hàng ngày, gọi là ngưỡng nghèo lương
thực thựcphẩm(LTTP). Ngưỡng nghèo này thường thấp vì nó không tính
đến chi tiêu cho các sản phẩm phi lương thực khác.Ngưỡng nghèo thứ hai
là ngưỡng nghèo chung , bao gồm cả phần chi tiêu cho các sản phẩm phi
lương thục.
-Ngưỡng nghẽo tương đối: được xác định theo phân phối thu nhập hoặc
tiêu dùng chung trong cả nước để phản ánh tình trạng của một bộ phận
dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng(thí dụ, ngưỡng nghèo
tương đối có thể là 50% mức thu nhập trung bình của cả nước).
Do đặc thù của một nước đang phát triển có điểm xuất phát thấp, Việt
Nam chúng ta còn đưa ra khái niệm về đói và thiếu đói, để đảm bảo tính
chất ưu tiên hoá chính xác hơn trong các chính sách XĐGN của chính
phủ. Đó là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối
thiểu, chỉ đủ khả năng đảm bảo có được mức lương thực cần thiết để tồn
tại. Trong bộ phận này có những người đói gay gắt, là tình trạng của một
bộ phận dân cư có mức sống cách xa dưới mức tối thiểu, phải đói ăn chịu
đứt bữa theo những thời gian nhất định.
Trên bình diện quốc tế, để tiện so sánh mức độ đói nghoè giữa các nước,
NHTG đã tính toán để ngưỡng nghèo tuyệt đối quốc tế cho các nước thu
nhập thấp( có GNP trên đầu người từ 755 đô la/năm trở xuống, tính theo
giá năm 1999) kà 1 đo la/ngày và cho các nước thu nhập trung bình
thấp(GNP trênm đầu người theo giá năm 1999 từ 756-2.966 đô la/năm) là
2 đô la/ngày. Để đảm bảo tính so sánh được giữa các nước, những
ngưỡng nghẽo này được tính theo ngang giá sức mua.Theo cách tính này,
với mặt bằng giá cả của Mỹ hiện nay cao gấp khoảng 5 lần so với ở Việt
Namthì chỉ cần khoảng 20 xem ở Việt Nam là mua được một hang hoá
giá trị tương đương với 1 đô la ở Mỹ.Do đó, hai ngưỡng nghèo quốc tế
trên khi quy đổi ra điều kiện của Việt Nam thì nó tương đương vói các
ngưỡng 20xen và 40 xen một ngày.Theo báo cáo của NHTG năm 2003, tỉ
lệ dân số sống dưới mức 1đôla/ngay theo ngang giá sức mua ở Việt Nam
là ,9%, 14,6% và Ấn Độ 34,7% .Như vậy, từ năm 1993 đến 2002, tỉ lệ
dân số sống dưới ngưỡng nghèo quốc tế 1 đôla/ngày ở nước ta đã giảm
2/3, một thành tích hết sức to lớn so với bình diện chung của thế giới.
c). Các thước đo đói nghèo thông dụng
Sau khi xác định được ngưỡng nghèo, có thể tính toán một số thước đo để
mô tả qui mô, độ sâu và có độ nghiêm trọng của đói nghèo. Ba thước đo
thông dụng nhất phản ánh các khía cạnh đó lần lượt là chỉ số đếm đầu
( hay còn gọi là tỉ lệ đói nghèo), khoảng nghèo và bình phương khoảng
nghèo.Ba thước đo đó đều có thể được tính bằng công thức chung như
sau:
α
α
−
=
∑
=
z
yz
N
P
i
M
i
)(
1
1
Trong đó , y
i
là mức chi tiêu (hoặc thu nhập) tính trên đầu người, tính cho
người thứ I,z là ngưỡng nghèo, N là tổng dân số, M là số người nghèo và
“ al pha” là đại lượng đo mức độ quan tâm đến sự bất bình đẳng giữa
những người nghèo.
Khi α = 0, đẳng thức trở thành M/N tức là tỉ lệ những người nằm dưới
ngưỡng nghèo.Chỉ số này được gọi là chỉ số đếm đầu hay tỉ lệ đói
nghèo.Thông thường chỉ số này được biểu diễn dưới dạng phần trăm.Nó
cho biết quy mô đói nghèo (hay diện nghèo) của một quốc gia.
Khi α =1, đẳng thức trên cho biết sự thiếu hụt trong chi tiêu củấcc hộ
nghèo so với ngưỡng nghèo và nó được biểu hiện như mức trung bình của
tất cả mọi người trong dân cư.Khoảng nghèo được tính là tổng các mức
thiếu hụt của tất cả người nghèo trong nền kinh tế.Nó cho biết chi phí tối
thiểu để đưa tất cả người nghèo lên mức sống ngang bằng với ngưỡng
nghèo, trong điều kiện mọi khoản chuyển giao đều được chuyển đến đúng
đối tượng.
Khi α = 2, ta có chỉ số bình phương khoảng nghèo.Chỉ số này thể hiện
mức độ nghiêm trọng ( hay cường độ) của đói nghèovì nó đã làm tăng
thêm trọng số cho những nhóm người có khoảng nghèo lớn hơn trong số
những người nghèo ( túc là tăng thêm trọng số cho những nhóm nghèo
nhất trong dân số).
4.Tăng trưởng kinh tế và vấn đề phúc lợi xã hội
4.1.Tăng trưong kinh tế, thu nhập bình quân tăng lên mà đời sống nhân
dân không được cải thiện
Tăng trưởng kinh tế để cải thiện đời sống nhân dân là mục đích mà chính
phủ một số nước theo đuổi, song không phải tất cả các nước, chính phủ
đều theo đuổi mục tiêu này.Những mục tiêu ưu tiên khác nhau trong phát
triển kinh tế không có nghĩa là các nguyên nhân làm cho tăng trưởng kinh
tế là nâng cao thu nhập của mọi gia đình người dan…Những nguyên nhân
đó là : thứ nhất trong một số trường hợp chính phủ muốn tăng thêm sức
mạnh quân sự, hoặc danh tiếng của đất nước và danh tiếng của các tập
đoàn cai trị mà đã đầu tư vào hệ thống quân sự hoặc các dự án to lớn
trong rừng rậm, trên sa mạc, đât là những đầu tư đưa lại ít lợi ích trực tiếp
cho những người dân.Thứ hai, do các nguồn lực khan hiếm để tạo ra sự
tăng trưởng tiếp theo, do vậy một bộ phận lớn thu nhập được dùng để tái
đầu tư.Nếu quá trình này tiếp tục trong một thời gian dài thì không những
không nâng cao được đời sống nhân dân mà trái lại còn làm cho mọi tiêu
dùng giảm sút, mặc dù vẫn tạo ra được sự tăng trưởng kinh tế.Thứ ba, khi
thu nhập và tổng quỹ tiêu dùng tăng lên nhưng những người giàu có lại
nhận được toàn bộ hoặc phần lớn phần tăng thêm này.Dẫn đến tình trạng
người giàu sẽ giàu thêm, còn người nghèo lại nghèo đi.Như vậy,có thể dễ
dàng giải thích vì sao trong khi quá trình công nghiệp hoá đang tiến triển
và tổng thu nhập quốc dân của đất nước liên tục tăn lên thì còn số đông
dân chúng ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh còn sống trong nghèo
khổ.
4.2 Tăng trưởng kinh tế nhưng khoảng cách giàu nghèo càng tăng thêm
Trong khi một đất nước đạt được tăng trưởng kinh tế cao, có nghĩa là
tổng thu nhập quốc dân của đất nước đó tăng lên, thu nhập bình quân đầu
người của đất nước đó tăng lên nhưng điều đó không có nghĩa là thu nhập
của mọi người dân trong đất nước đó đều tăng lên, cuộc sống được cải
thiện.Khi mà phần lớn thu nhập và tổng quỹ tiêu dùng tăng lên đó lại
được phân chia cho người giàu, còn người nghèo chỉ nhận được số ít
hoặc thậm chí không được nhận thì dẫn tới tình trạng người giàu sẽ giàu
hơn, người nghèo càng nghèo đi làm khoảng cách giàu nghèo càng tăng
thêm, và khi đó thì cơ hội của người nghèo trong xã hội càng ít.Nền kinh
tế tiếp tục tăng trưởng thì người nghèo cũng ít có cơ hội hưởng kết quả
của sự tăng trưởng đó.
4.3 Các phương thức phân phối
Để đạt được những mục tiêu ưu tiên trong phát triển kinh tế, chính phủ
các nước đã sử dụng các phương thức phân phối khác nhau.Có hai cách
phân phối thường được sử dụng, đó là phân phối theo chức năng và phân
phối theo mức độ thu nhập. Phân phối theo chức năng dựa vào quyền sở
hữu của các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất và vai trò của từng
yếu tố.Phân phối theo mức độ thu nhập là một hình thức phân phối lại
giữa những nhóm người có mức thu nhập giàu-nghèo khác nhau.Nếu tăng
trưởng nhằm mục tiêu nâng cao không ngừng đời sống nhân dân thì trong
phân phối sẽ đánh giá cao vai trò của yếu tố lao động và do đó thực hiện
cho mọi người lao đọng có khả năng nâng cao thu nhập của mình.Nếu
chính phủ nhằm mục tiêu ưu tiên cho lợi ciáh những người giàu có thị sẽ
đánh giấco vai trò của vốn và tài sản, do đó chính sách phân phối theo lao
động bị hạn chế, thu nhập từ quyền sở hữu các nguông vốn tái sản là chủ
yếu.Qúa trình phân phối lại thường được thực hiện qua thuế, trợ cấp và
chi tiêu công cộng của chính phủ nhằm giảm bớt mức thu nhập của người
giàu và nâng cao mức thu nhập của người nghèo.Nhưng đây không phải
là hình thức cơ bản để nâng cao thu nhập của đại bộ phận nhân dân.
5.Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với xoá đói giảm nghèo
5.1Xoá đói giảm nghèo là yếu tố đảm bảo công bằng xã hội và tăng
trưởng bền vững
Xoá đói giảm nghèo không chỉ là công việc trước mắt mà còn là nhiệm
vụ lâu dài. Trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xoá sự
nghèo,giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã
hộigiầmnhj, công bằng, dân chủ, văn minh.
Xoá đói giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một
cách thụ động mà phải tạo ra đọng lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự
vươn lên thoát nghèo. Xoá đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ
giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều
khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối
đồng đều cho phát triển , tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo
đảm sự ổn định cho giai đoạn “ cất cánh”.
Do đó, xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu cuat tăng
trưởng(cả trên góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều kiện
( tiền đề)cho tăng trưởng nhanh và bền vững.Trên phương diện nào đó,
xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội
cho chương trinhg xoá đói giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng
trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài
hạn thì kết quả xoá đói giảm nghèo lại là tiền đề cho tăng trưởng nhanh
và bền vững.Tình hình cũng giống nhưviệc thực hiện người cày có ruộng
ở một số nước đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp.Nhiều
nông dân nhờ đó đã thoát ra khỏi đói nghèo và có điều kiện tham gia thực
hiện cách mạng xanh, tạo sự phát triển mới cho ngành nông nghiệp
5.2 Xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế trên diện
rộng với chất lượng cao và bền vững, tạo ra những cơ hội thuận lợi để
người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản
xuất, kinh doanh và hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng.
Tăng trưởng với chất lượng cao là để giảm nhanh mức nghèo đói.Thực
tiễn nhũng năm vừa qua đã chứng minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao
Nhà nước có sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương
trình hỗ trợ vật chất, tài chính và cho các xã khá khăn phát triển cơ sở hạ
tầng kinh tế, xã hội cơ bản. Người nghèo và cộng đòng nghèo nhờ đó có
cơ hội vươn lên thoát khỏi đói nghèo.Tăng trưởng kinh tế là điều kiện
quan trọng để xoá nghèo trên quy mô rộng; không có tăng trưởng mà chỉ
thực hiện các chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo
truyền thống thì tác dụng không lớn
Tăng trưởng trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững trước hết tập
trung chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp phát triển
ngành nghề, tạo cơ hội nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát
triển nhằm tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp, tăng thu nhập cho
người nghèo…
5.3 Xoá đói giảm nghèo được đạt thành một bộ phân của kế hoạch, chiến
lược phát triển
Công tác xoá đói giảm nghèo phải được quan tâm ngay từ khi xây dựng
chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội dài hạn, trung hạn và hàng
năm, coi đó là một nhiện vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội của nhà nước đói với công tác xoá đói giảm nghèo.Thông qua kế
hoạchcủa toàn xã hội và mục tiêu và hoạt động xoá đói giảm nghèo quốc
gia.Nhà nước xây dựng các biện phấp thiết yếu như đầu tư hỗ trợ sản
xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, lập các quỹ cứu trợ xã hội… để giúp đỡ,
bảo vệ người nghèo.Duy trì liên tục sự trao đổi, phân phối mang tính thị
trường, nhưng không loại người nghèo ra khỏi những nguồn lực và lợi ích
của sự thịnh vượng chung về kinh tế.Kinh nghiệm thế giới cho thấy sự
thiếu vắng vai trò của nhà nước đặc biệt có hại đối với người nghèo, cộng
đồng nghèo, vì người nghèo không tự bảo vệ được các quyền của mình,
hơn nữa trong thành quả chung của tăng trưởng kinh tế, nhà nước có vai
trò nòng cốt và có trách nhiệm thu hút sự tham gia tích cực của cộng
đồng, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội
Chương 2 Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam