LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với sự phát triển của kinh tế một quốc gia nói chung và quá trình hoạt động kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp nói riêng đều chịu ảnh hưởng có thể là khách quan hoặc chủ
quan của rất nhiều yếu tố. Những tác động đó có thể là những tác động tích cực, thúc đẩy
kinh tế và cũng có thể là những tác động tiêu cực.
Suy thoái kinh tế tác động tiêu cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội. Trong giai đoạn này
tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp
tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến các Công ty cắt giảm sản lượng, đầu tư vào
trang thiết bị, nhà xưởng, mở rộng sản xuất cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm
sút. Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao do hoạt động kinh doanh đình trệ. Kéo theo đó là lợi nhuận
của các doanh nghiệp giảm theo. Nhu cầu về vốn cũng suy giảm làm cho lãi suất giảm
xuống trong thời kỳ suy thoái.
Nền kinh tế thế giới đã trải qua một năm 2012 đầy khó khăn, ảm đạm và đang có
dấu hiệu phục hồi. Tuy nhiên, những thiệt hại mà suy thoái kinh tế thế giới gây ra là
không hề nhỏ. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế bắt nguồn từ Mỹ năm
2008 đã nhanh chóng lan rộng ra toàn cầu, kéo theo đó là tình trạng suy thoái diễn ra trên
toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Vào đầu tháng 10/2008. IMF ước tính thiệt hại của
cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ lên đến 1,4 nghìn tỷ USD và ngay sau đó là việc hàng
loạt các ngân hàng và tập đoàn tài chính lớn của thế giới tuyên bố phá sản, hoặc được nhà
nước cứu bằng quốc hữu hóa, hay bị mua lại với giá rẻ mạt. Kéo theo đó là tình trạng suy
thoái trên toàn thế giới diễn ra nhanh chóng.
Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới,
nhất là từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) nên khó có thể tránh
khỏi những tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu. Suy thoái kinh tế tác động tới tất cả
các mặt: thị trường, giá cả, thanh toán và nguồn hàng, trong đó nổi bật là thị trường và giá
cả. Vì vậy hoạt động kinh doanh của các công ty, doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng
nghiêm trọng. Những tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế đến Việt Nam đã khiến cho
các doanh nghiệp trong nước đang phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, công ty cổ
phần kim loại màu Nghệ Tĩnh cũng không phải là một ngoại lệ. Trong quá trình thực tập
tại công ty, thông qua việc thu thập nguồn dữ liệu, phân tích những đặc điểm về tình hình
hoạt động kinh doanh mặt hàng kim loại màu của công ty và thấy được những khó khăn
mà công ty gặp phải trong giai đoạn suy thoái kinh tế là: Nhu cầu về hàng hoá trong và
1
ngoài nước giảm, giá cả mặt hàng bất ổn dẫn đến doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh mạt hàng kim loại màu của công ty cũng giảm sút.
Từ những khó khăn trên, vấn đề cấp thiết nhất đặt ra đối với công ty hiện nay là suy
thoái kinh tế có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kinh doanh mặt hàng kim loại màu
của công ty ? Có những giải pháp nào để khắc phục những ảnh hưởng đó và thúc đẩy hoạt
động kinh doanh trong thời gian tới ? Suy thoái kinh tế là vấn đề hiện đang được nhiều
người quan tâm nhưng vấn đề được đặt ra đối với công ty cổ phần kim loại màu Nghệ
Tĩnh là hoàn toàn mới và việc giải quyết nó là hết sức cần thiết. Vì vây, tôi chọn đề tài
“Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tới hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần kim loại
màu Nghệ Tĩnh” nhằm tìm hiểu, phân tích từ đó đưa ra những giáp phải giải quyết vấn đề.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Vấn đề về suy thoái kinh tế hiện đang được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong
khuôn khổ trường Đại học Thương Mại, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này,
dưới đây là một số công trình nghiên cứu điển hình:
1. “Một số giải pháp kích cầu nhằm hạn chế ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tới hoạt
động kinh doanh thiết bị văn phòng trên địa bàn Hà Nội”. – Của sinh viên Trịnh
Thị Huyền- Gíao viên Đào Thế Sơn hướng dẫn- Khoa Kinh Tế- Năm 2009.
Đề tài tập trung đi sâu vào nghiên cứ, phân tích suy thoái kinh tế đã có những tác động
tiêu cực đến nền kinh tế, làm giảm nhu cầu của thị trường đối với mặt hàng thiết bị văn
phòng trong cả nước nói chung và tác động tới hoạt động kinh doanh trên địa bàn Hà Nội
nói riêng. Mục đích của luận văn là nghiên cứu những tác động này và qua đó đề xuất một
số giải pháp kích cầu đối với mặt hàng thiết bị văn phòng trên địa bàn Hà Nội.
2. “Giải pháp hạn chế ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tới hoạt động xuất khẩu thép
sang thị trường Trung Đông của công ty cổ phần tập đoàn Thành Nam”. – Của sinh
viên Lương Thị Mai Anh- Khoa Thương Mại Quốc Tế- năm 2011.
Đề tài khóa luận đi sâu vào nghiên cứu, phân tích những ảnh hưởng của suy thoái kinh tê
tới hoạt động xuất khẩu thép sang thị trường Trung Đông và đưa ra những giải pháp nhằm
hạn chế những ảnh hưởng đó.
3. “Giải pháp hạn chế sự biến động của giá vật liệu xây dựng đến hoạt động kinh
doanh của công ty TNHH An Thương” Của sinh viên Hà Thị Huệ- Khoa Kinh
Tế- năm 2011.
2
Nội dung chính của đề tài khóa luận là đi sâu và phân tích những ảnh hưởng của sự biến
động giá vật liệu xây dựng tới hoạt động kinh doanh của công ty TNHH An Thương, từ
đó đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đó.
4. “Phân tích ảnh hưởng của lạm phát tới kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
cổ phần thực phẩm Đức Việt” Của sinh viên Hồ Thị Thơ- Khoa Kinh Tế- Năm
2011.
Đề tài khóa luận nghiên cứu những ảnh hưởng của lạm phát tới kết quả kinh doanh của
công ty cổ phần thực phẩm Đức Việt, từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm khắc
phục, ngăn chặn những ảnh hưởng đó.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu vào mục tiêu nghiên cứu, giải
quyết được các vấn đề liên quan đến suy thoái kinh tế, những tác động của suy thoái tới
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đưa ra những biện pháp nhằm đối phó với
những tác đông tiêu cực của suy thoái kinh tế. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên
chỉ nghiên cứu trên các mặt hàng như thiết bị văn phòng, vật liệu xây dựng hay thực
phẩm,… hay chỉ nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu thép. Ngoài ra, những công trình trên
đã hoàn thành khá lâu, cách đây 2 năm thậm chí là 5 năm, trong khi tình hình kinh tế
trong nước và quốc tế có nhiều biến động. Vì vậy, đây là đề tài mới và không trùng lặp
với những công trình đã nghiên cứu trước đó.
Đề tài “Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tới hoạt động kinh doanh của công ty cổ
phần kim loại màu Nghệ Tĩnh” sẽ đi sâu tìm hiểu, phân tích những ảnh hưởng của suy
thoái kinh tế từ đó đưa ra những giáp phải giải quyết những vấn đề đó.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài
Trong tình hình bối cảnh kinh tế thế giới đang lâm vào tình trạng suy thoái và tác
động tiêu cực đến hoạt động tới hoạt kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nói
chung và ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu từ hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần
kim loại màu Nghệ Tĩnh nói riêng. Từ vấn đề cấp thiết đặt ra đối với công ty, cần phải
giải quyết một số vấn đề như sau:
- Tìm hiểu sự tác động của suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh mặt hàng
kim loại màu của công ty cổ phần kim loại màu Nghệ Tĩnh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những tác động tiêu cực của suy thoái
kinh tế đến hoạt động nhập kinh doanh mặt hàng kim loại màu của công ty.
Nhận thức được tầm quan trọng của những vấn đề này trong việc giúp doanh nghiệp
có định hướng kinh doanh hiệu quả trong tình hình kinh tế hiện nay, kết hợp với những lý
3
luận tiếp thu được trong quá trình học và tìm hiểu thực tế trong thời gian qua, em đã chọn
đề tài “Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh kim loại màu của
công ty kim loại màu Nghệ Tĩnh ” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu ở đây là các cuộc khủng hoảng kinh tế, suy thoái kinh tế trong
và ngoài nước, những tác động của suy thoái kinh tế đối với nền kinh tế thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng, những chính sách quản lý của chính phủ trong thời gian gần
đây, và những tác động của suy thoái tới hoạt động kinh doanh mặt hàng kim loại màu
của công ty kim loại màu Nhgệ Tĩnh.
• Các mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
a, Mục tiêu nghiên cứu
Để có thể giải quyết tốt những vấn đề trên, mục tiêu nghiên cứu của đề tài khóa luận
được đặt ra là:
- Khái quát các vấn đề lý thuyết liên quan tới hoạt động kinh doanh cùng với những lý
luận cơ bản về suy thoái kinh tế, nguyên nhân và ảnh hưởng của nó đến hoạt động
kinh doanh nói chung.
- Tìm hiểu thực trạng hoạt động kinh doanh mặt hàng kim loại màu Nghệ Tĩnh trước
và sau suy thoái kinh tế, phân tích và so sánh để thấy được những ảnh hưởng của suy
thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh của công ty hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của
suy thoái kinh tế và thúc đẩy hoạt động kinh doanh mặt hàng kim loại màu của công
ty trong thời gian tới.
b, Phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ tình hình thực tiễn của công ty cổ phần kim loại màu Nghệ Tĩnh, đề tài
khóa luận đã phân định nội dung và phạm vi nghiên cứu như sau:
• Phạm vi nghiên cứu về không gian: Đề tài khóa luận được đề xuất để nghiên cứu
sự ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh của công ty tại cổ
phần kim loại màu Nghệ Tĩnh trên thị trường xuất khẩu đặt biệt là tại thị trường
Nhật Bản và các nước Tây Âu.
• Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2012,
đây là giai đoạn mà hoạt động kinh doanh của công ty chịu ảnh hưởng từ cuộc
suy thoái kinh tế thế giới. Những giải pháp, định hướng kinh doanh cho giai đoạn
2013- 2015.
4
5. Phương pháp hệ nghiên cứu các vấn đề
* Phương pháp thu thập dữ liệu
- Nguồn dữ liệu thứ cấp
Nguồn dữ liệu thứ cấp là dữ liệu thu thập từ các nguồn trong và ngoài công ty bao
gồm các báo cáo và tài liệu của công ty từ các phòng ban cung cấp: Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh qua các năm từ 2008 – 2012, báo cáo chi tiết về doanh thu, chi phí, lợi
nhuận qua các năm. Mục đích thu thập các dữ liệu thứ cấp là phục vụ cho quá trình phân
tích, đánh giá thực trạng ảnh hưởng của suy thoái đến hoạt động kinh doanh mặt hàng
kim loại màu của công ty.
* Phương pháp phân tích dữ liệu
- Phương pháp xử lý, phân tích số liệu
Sau khi đã thu thập được các dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp, đề tài khóa luận tiến
hành phân tích, xử lý các dữ liệu đó bằng các phương pháp: thống kê, phân tích và tổng
hợp các kết quả để đưa ra kết luận về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty trong
giai đoạn suy thoái kinh tế.
- Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp xem xét các chỉ tiêu phân tích bằng cách dựa
trên việc so sánh số liệu với một chỉ tiêu cơ sở (chỉ tiêu gốc). Tiêu chuẩn để so sánh là
doanh thu, lợi nhuận, chi phí, của các năm trước so với năm sau. Trên cơ sở so sánh để
đưa ra kết luận những yếu tố nào tăng, giảm hay không đổi qua các năm. Sử dụng
phương pháp này để phân tích được ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tới hoạt động kinh
doanh mặt hàng kim loại màu của công ty qua từng giai đoạn hay từng thời kỳ. Và sử
dụng phương pháp này sẽ so sánh, đối chiếu và đánh giá sự tăng giảm doanh thu qua
các năm.
- Phương pháp phân tích
Sau khi tiến hành thu thập số liệu, điều tra phỏng vấn, phỏng vấn trực tiếp, xử lý,
phân tích dữ liệu ta phân tích tổng hợp. Đưa ra được các kết luận ảnh hưởng của suy
thoái kinh tế tới hoạt động kinh doanh mặt hàng kim loại màu và từ đó biết được các
nguyên nhân và các biện pháp giải quyết nhằm hạn chế ảnh hưởng của suy thoái kinh tế
tới hoạt động kinh doanh của công ty.
- Phương pháp biểu đồ, bảng biểu
Là phương pháp sử dụng các sơ đồ hình vẽ về cung cầu, các đồ thị về giá trị hàng hóa
tiêu thụ hay hình vẽ, biểu đồ thể hiện mối quan hệ giữa chi phí, doanh thu, lợi nhuậnVới
5
mỗi dữ liệu thể hiện trên biểu đồ dựa trên báo cáo tài chính của công ty qua 3 năm gần
đây và một số dữ liệu được lấy từ phòng kinh. Thông qua các biểu đồ, bảng biểu sẽ giúp
ta đánh giá mối tương quan giữa các đại lượng tương quan giữa các đại lượng để có thể
phân tích dựa trên nguồn dữ liệu thu thập được.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Trong đề tài này, ngoài lời mở đầu, lời cảm ơn, mục lục, các danh mục bảng biểu, sơ
đồ, hình vẽ, từ viết tắt, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn bao gồm 4 nội dung chính
sau:
Lời mở đầu
Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về suy thoái kinh tế và hoạt động kinh doanh của
công ty
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần kim loại màu Nghệ
Tĩnh và tác động của suy thoái kinh tế tới hoạt động kinh doanh của công ty.
Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm đối phó với những tác động tiêu cực của
suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần kim loại màu Nghệ Tĩnh.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm suy thoái kinh tế
Suy thoái kinh tế được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau:
Theo giáo trinh Kinh tế học vĩ mô, suy thoái kinh tế được định nghĩa: “Suy thoái kinh
tế là sự suy giảm lượng GDP của một quốc gia, hoặc tăng trưởng âm trong vòng hai quý
liên tiếp trở lên trong một năm”.
Theo quan điểm của cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) Hoa Kỳ cho rằng:
“Suy thoái kinh tế là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều tháng”.
Suy thoái kinh tế có thể liên quan sự suy giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế của
toàn bộ hoạt động kinh tế như: việc làm, đầu tư và lợi nhuận của doanh nghiệp. Các thời
kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngược lại, tăng nhanh giá cả
(lạm phát) trong thời kỳ đình lạm.
Sự suy thoái trầm trọng và lâu dài được gọi là khủng hoảng kinh tế. Sự tan vỡ tàn phá
kinh tế là gọi sự suy sụp/đổ vỡ kinh tế. Việc suy giảm kinh tế của nhiều quốc gia trong
cùng một thời điểm dẫn đến suy thoái kinh tế thế giới.
Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là:
6
- Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hoá lâu bền trong các doanh
nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo
đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng cắt giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
- Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm
xuống do hoạt động sản xuất bị đình trệ, đầu tư bị hạn chế, tiếp theo là hiện tượng cắt
giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
- Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi
nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong
giai đoạn kinh tế suy thoái.
Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh, do nhu cầu giảm làm cho hàng hoá sản xuất
ra không tiêu thụ được. Nhu cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong
thời kỳ suy thoái.
1.1.2. Khái niệm về hoạt động kinh doanh
Theo giáo trình Quản trị doanh nghiệp (2010): “Kinh doanh là một, một số hoặc tất cả
các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hàng hóa dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận.”
Kinh doanh, hiểu theo nghĩa rộng nhất là một thuật ngữ chung để chỉ tất cả những tổ
chức và hoạt động sản xuất ra hàng hóa hay dịch vụ cần thiết cho cuộc sống hàng ngày
của con người.
Kinh doanh là một hệ thống sản xuất hàng hóa và dịch vụ để thỏa mãn các nhu cầu
của xã hội. Theo cách hiểu định nghĩa mang tính hệ thống này, chúng ta có thể thấy mối
lên hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp với các tổ chức khác trong xã hội. Mỗi hoạt động được
thực hiện trong doanh nghiệp đều ảnh hưởng đến hệ thống xã hội lớn hơn, nện thống kinh
doanh liên quan đến hệ thống chính tri, kinh tế, luật pháp.
Bản thân kinh doanh có thể được coi như một hện thống tổng thể bao gồm những hệ
thống cấp dưới nhỏ hơn là các ngành kinh doanh, mỗi nghành kinh doanh được tạo bởi
nhiều công ty có quy mô khác nhau, sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Mỗi công ty
lại bao gồm nhiều hệ thống cấp thấp hơn như sản xuất, maketing và tài chính,…
Về cơ bản, một hệ thống kinh doanh nhận được các yếu tố nhập lượng từ môi
trường, nó chế biến các yếu tố này sau đó sản xuất ra các xuất lượng cho hệ thống xã hội.
1.1.3. Tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm là khâu lưu thông hàng hóa, là cầu nối trung gian giữa một bên
là sản phẩm sản xuất và phân phối với một bên là tiêu dùng. Trong quá trình tuần hoàn
các nguồn vật chất, việc mua và bán được thực hiện. giữa sản xuất và tiêu dùng nó quyết
7
định bản chất của hoạt động lưu thông và hoạt động thương mại đầu vào, thương mại đầu
ra của doanh nghiệp. Như vậy tiêu thụ sản phẩm là tổng thể các biện pháp về tổ chức kinh
tế và kế hoạch nhằm thực hiện việc nghiên cứu và nắm bắt nhu cầu thị trường. Nó bao
gồm các hoạt động: Tạo nguồn, chuẩn bị hàng hóa, tổ chức mạng lưới bán hàng xúc tiến
bán hàng… cho đến các dịch vụ sau bán hàng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
được hiểu là một quá trình gồm nhiều công việc khác nhau từ việc tìm hiểu nhu cầu, tìm
nguồn hàng, chuẩn bị hàng, tổ chức bán hàng,xúc tiến bán hàng… cho đến các phục vụ
sau bán hàng như: chuyên chở, lắp đặt, bảo hành…Tóm lại, tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp bao gồm 2 quá trình có liên quan:
Một là: Các nghiệp vụ kỹ thuật sản xuất, chuẩn bị, tiếp nhận, phân loại bao gói,
lên nhãn mác, xếp hàng vào kho, chuẩn bị đóng bộ, vận chuyển theo yêu cầu khách hàng.
Hai là: Các nghiệp vụ kinh tế, tổ chức và kế hoạch hóa tiêu thụ sản phẩm nghiên
cứu thị trường, tổ chức bán hàng, đào tạo bồi dưỡng và quản trị lực lượng bán hàng.
1.2. Một số lý thuyết liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết liên quan đến hoạt động kinh doanh
1.2.1.1. Vai trò của hoạt động kinh doanh
Kinh doanh, hiểu theo nghĩa rộng nhất là một thuật ngữ chung để chỉ tất cả những tổ
chức và hoạt động sản xuất ra hàng hóa hay dịch vụ cần thiết cho cuộc sống hàng ngày
của con người. Chúng ta có thể nâng cao mức sống của mọi người thông qua các tổ chức
giáo dục, các tổ chức xã hội và các tổ chức kinh tế.
Các tổ chức kinh doanh khác với các tổ chức khác ở chỗ chúng sản xuất hàng hóa,
cung cấp các loại dịch vụ với mục đích thu lợi nhuận nhằm mở rộng hơn nữa hoạt động
kinh doanh.
Để đạt được mục đích này các doanh nghiệp phải sản xuất ra những loại hàng hóa,
dịch vụ mà khác hàng cần, nếu không thõa mãn những mong muốn đó của khách hàng,
doanh nghiệp sẽ phá sản.
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo đảm cho hàng hóa được bán với giá phải
chăng và có chất lượng thích hợp. Một doanh nghiệp thành công phải luôn phát hiện được
những nhu cầu mới của khách hàng và luôn sẵn sàng thỏa mãn cá nhu cầu đó. Khách hàng
là thượng đế và có quyền quyết định mua hàng, mua với số lượng bao nhiêu với giá nào.
Dưới áp lực của cạnh tranh và sức mua của người tiêu dùng, các nhà sản xuất sẽ cố
gắng sử dụng có hiệu quả hơn nguyên liệu, thiết bị và lao động để tạo ra nhiều hàng hóa
8
hơn, chất lượng tốt hơn. Do đó, khi theo đuổi những quyền lợi riêng, tất yếu doanh nghiệp
sẽ tạo ra lợi ích cho xã hội, bởi các doanh nhân sẽ phải thỏa mãn nhu cầu của xã hội khi
cố gắng thỏa mãn các ham muốn của họ. Trong lúc theo đuổi lợi nhuận để làm giàu, nhà
kinh doanh cũng phải phục vụ người tiêu dùng và phục vụ lợi ích xã hội. Để đạt được
mục đích này, các doanh nghiệp phải sản xuất ra những loại hàng hóa, dịch vụ mà khách
hàng cần. Một doanh nghiệp thành công phải luôn phát hiện những nhu cầu mới của
người tiêu dùng và luôn sẵn sàng để thỏa mãn những nhu cầu đó. Quan niệm này là nền
tảng của nền kinh tế thị trường.
1.2.1.2. Sự cần thiết của hoạt động kinh doanh
• Hoạt động kinh doanh nhằm thỏa mãn những nhu cầu của con người
Thế giới của chúng ta có hàng triệu người sống trong nhiều quốc gia khác nhau, nói
những ngôn ngữ khá nhau và thuộc các chủng tộc khác nhau. Dù vậy, con người có chung
một nhu cầu cơ bản, ai cũng cần thức ăn để thỏa mãn khi đói, thức uống để làm hết cơn
khát và quần áo để giữ ấm cơ thể. Con người cũng cần có nhà cửa để nghỉ ngơi, thuốc
men và những chăm sóc đặc biệt khi ốm đau. Với nhiều lý do khác nhau con người đi từ
nơi này đến nơi khác, và khi cách xa họ cần liên lạc với nhau. Trong giờ rảnh rỗi, họ
muốn được thư giãn, nghe nhạc, xem tivi hay đi dạo trong công viên.
• Giúp con người tìm ra phương thức tồn tại và phát triển trong xã hội
Trong đời sống xã hội, có rất nhiều phương pháp để thỏa mãn cac nhu cầu của cong
người và mỗi người thường biết cách sử dụng những phương pháp thích hợp để thỏa mãn
nhu cầu cá nhân. Một số người dùng gạo là thực phẩm chính để thỏa mãn khi đói, người
khác lại dùng lúa mỳ. Những người dân trên đảo biết cách di chuyển bằng thuyền và dân
cư miền sa mạc thì biết cưỡi ngựa hoặc lạc đà. Các nhà buôn bán phải biết cách mang
những hàng hóa từ nơi dư thùa tới nơi cần chúng.
Những cuộc khai quật các di chỉ khảo cổ đã khám phá ra rằng các hoạt động thương
mại đã có từ hàng ngàn năm trước đây, tròn các thành phố cổ như Babylon, Ai Cập,
Trung Quốc, các thương nhân đã buôn bán len, dạ, đồ gia vị, da sống, lúa gạo và các công
cụ thô sơ.
Phương thức thay đổi này không thay đổi nhiều trong nhiều thế kỷ. Ở châu Âu, trong
suốt thời kỳ phong kiến trung cổ, các nhà lãnh đạo tôn giáo đã khuyên nông dân không
nên tham lam sự giàu có hay lợi ích cá nhân. Các thương nhân không có địa vị gì trong xã
hội và chỉ tồn tại được bởi xã hội có cần đến các loại hàng hóa thiết yếu. Thậm chí, trong
xã hội phong kiến Trung Quốc, thương gia được xếp vào tầng lớp thấp nhất trong hệ
thống thứ bậc xã hội gồm: học giả, nông dân, thợ thủ công và thương gia. Chỉ đến thời đại
9
ngày nay, khi thương mại và công nghiệp đã phát triển, các nhà kinh doanh mới được xã
hội thừa nhận và kính trọng.
• Sự thay đổi địa vị của kinh doanh
Cuộc cách mạng công nghiệp đó đã tạo ta bước ngoặt lịch sử dẫn tới sự cơ giới hóa
nền sản xuất. Sự phát minh ra máy móc, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ,
cùng quá trình đô thị hóa diễn ra trong thế kỷ XX đã thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa
và tạo ra sự cần thiết phải quản trị các hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả. Với sựu
ra đời của các phương tiện vận tải hiện đại đường hàng không, đường biển, hoạt động
kinh doanh đó vượt ra khái niệm biên giới quốc gia và hình thành các công ty đa quốc gia.
Trong thế giới ngày nay, tiền giữ vai trò quan trọng, là phương tiện trao đổi và làm cho
hoạt động thương mại giữa các quốc gia thuận tiện hơn, nhất là khi các nhà kinh doanh
quốc tế chấp thuận một số đồng tiền chung được sử dụng rộng rãi như đồng đôla Mỹ hay
đồng yên Nhật.
1.2.1.3. Các hình thức hoạt động kinh doanh
Hoạt động kinh doanh có phạm vi rất rộng lớn. Về cơ bản nó bao gồm 3 lĩnh vực: sản
xuất, phân phối và tiêu thụ.
• Sản xuất và các yếu tố sản xuất
- Sản xuất: Bao hàm bất kỳ hoạt động nào nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người.
Nó có thể phần thành sản xuất dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc là những
hoạt động sử dụng cá nguồn tài nguyên sẵn có dưới dạng tự nhiên. Cũng có thể là sản
xuất, chế tạo, chế biến cá loại nguyên liệu hay tài nguyên thiên nhiên thành hàng hóa. Hay
loại hình dịch vụ như vận tải, bưu chính viễn thông, dịch vụ công cộng,…
- Các yếu tố sản xuất: Hệ thống tổ chức kinh doanh cần đến rất nhiều yếu tố nhập
lượng khác nhau được gọi là các yếu tố sản xuất, bao gồm nguyên liệu, lao động. tiền
vốn, kiến thức, kinh nghiệm của các nhà kinh doanh.
• Phân phối sản phẩm
Phân phối sản phẩm đề cập tới việc đưa hàng hóa và dịch vụ từ nhà sản xuất tới người
tiêu thụ, bao gồm việc vận động chuyển nguyên vật liệu từ các nhà cung cấp tới tận dây
chuyền sản xuất. Phân phối bao gồm cả việc xếp hàng vào kho, quản lý nguyên liệu, sản
phẩm hoàn thành, bao bì, kiểm soát tồn kho và vận chuyển đến những người sử dụng cuối
cùng. Một hệ thống phân phối hiệu quả sẽ tối thiểu hóa việc tồn đọng tiền vốn trong
nguyên vật liệu tồn kho hay trong sản phẩm hoàn thành.
• Tiêu thụ sản phẩm
10
Thử thách lớn nhất đối với thành công của nhà sản xuất là nhu cầu của thị trường đối
với sản phẩm, dịch vụ của nhà sản xuất, điều này được thể hiện qua khối lượng hàng hóa,
dịch vụ bán ra trên thị trường nhưng trước tiên phải làm cho người tiêu dùng biết rằng các
sản phẩm mà họ cần đã có sẵn trên thị trường. Để đạt được điều này, nhà sản xuất thường
cố gắng cổ động nhằm tạo ra sự nhận biết về sản phẩm hay dịch vụ của mình. Nhà sản
xuất có thể trực tiếp tiến hành các hoạt động cổ động của mình nhằm vào khách hàng tiềm
năng.
1.2.1.4. Những đặc điểm của một hệ thống kinh doanh
• Sự phức tạp và tính đa dạng
Hệ thống kinh doanh hiện đại là một cơ cấu rất phức tạp gồm có nhiều khu vực. Mỗi
khu vực do nhiều ngành tạo nên. Mỗi ngành lại được tạo thành từ nhiều tổ chức kinh
doanh. Các tổ chức kinh doanh này thay đổi trong những giới hạn hình thức, quy mô kinh
doanh, cơ cấu vốn, phong cách quản trị và phạm vi hoạt động.
• Sự phụ thuộc lẫn nhau
Các tổ chức kinh doanh hợp tác với nhau trong hoạt động kinh doanh. Một công ty
mua nguyên liệu tho hay các cho tiết rời từ nhiều công ty khác, sau đó bán các sản phẩm
hoàn thành cho các nhà bán buôn, bán lẻ và những người này đem bán chúng cho những
người sử dụng cuối cùng. Trong tiến trình đó, tất cả các tổ chức kinh doanh này đều phụ
thuộc vào sự cung ứng dịch vụ của các công ty vận tải, các ngân hàng và nhiều công ty
khác. Vì vậy, sự phụ thuộc lẫn nhau là một hệ thống kinh doanh riêng của hệ thống kinh
doanh hiện đại.
• Sự thay đổi và đổi mới
Để đảm bảo thành công, các tổ chức kinh doanh phải đáp ứng kịp thời những thay đổi
thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng. Hệ quả tất yếu của các tiến bộ công nghệ là
nhiều sản phẩm nhanh chóng trở nên lỗi thời và bị thay thế. Bởi vậy sự thay đổi và đổi
mới là những đặc trưng quan trọng trong hệ thống kinh doanh hiện đại.
1.2.2. Lý thuyết về suy thoái kinh tế
1.2.2.1 Lý thuyết về chu kỳ phát triển kinh tế
Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kinh kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế theo
trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh. Cũng có những pha phục hồi
thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và hưng thịnh.
Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy
thoái, khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng
hoảng theo nghĩa kinh tế tiêu điều, sản lượng giảm sút, hoạt động sản xuất bị ngưng trệ,
các nhà máy đóng cửa hàng loạt, tỷ lệ thất ngiệp ngày càng tăng cao, v.v…không xảy ra
11
nữa. Vì thế, toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu hẹp lại, được
gọi duy nhất là suy thoái.
Ở Việt Nam, cho đến đầu thập niên 1990, trong một số sách về kinh tế các nước tư
bản chủ nghĩa, khi nói về chu kỳ kinh tế thường gọi tên bốn pha này là khủng hoảng, tiêu
điều, phục hồi và hưng thịnh. Hiện nay, không còn thấy cách gọi này nữa.
Biểu đồ 1.2. Chu kỳ kinh tế
Nguồn: .
Các pha của chu kỳ kinh tế:
- Suy thoái: là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy
định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm trong hai quý liên tiếp thì
mới gọi là suy thoái.
- Phục hồi: là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái.
Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ.
- Hưng thịnh: là khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước
lúc suy thoái. Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoạt từ pha
hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
1.2.2.2 Lược sử về một số cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 1929 đến năm
2012
12
Khủng hoảng kinh tế thế giới có mức độ ảnh hưởng sâu rộng và mang tính chất toàn
cầu, nó tác động đến hầu hết các mặt của đời sống như kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
…với các mức độ khác nhau. Lịch sử kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc khủng
hoảng kinh tế, điển hình là ba cuộc khủng hoảng sau:
- Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933, Suy thoái bắt đầu diễn ra ở Mỹ vào tháng
10/ 1929, sau đó nhanh chóng lan rộng sang các nước châu Âu và hầu khắp các nước trên
thế giới. Đây là cuộc khủng hoảng được đánh giá là lớn nhất trong lịch sử kinh tế hiện
đại, những thiệt hại mà nó gây ra vô cùng nặng nề, mọi khía cạnh của nền kinh tế từ hoạt
động sản xuất, đầu tư, tiêu dùng, thương mại, đến thị trường lao động,…đều chịu những
tác động xấu từ cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng đã kéo dài trong 4 năm và đến năm
1933 thì chấm dứt.
- Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, đây là hậu quả của việc các nước thành viên
OPEC bao gồm tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC và hai nước Ai Cập và Syria đã thực
hiện cấm vận dầu mỏ với Mỹ và các quốc gia ủng hộ Isarel trong cuộc chiến với Ai Cập
và Syria. Trong cuộc khủng hoảng lần này, vấn đề chính là khủng hoảng về năng lượng
và lương thực, thực phẩm. Cuộc khủng hoảng đã đẩy giá dầu mỏ lên cao và làm ảnh
hưởng đến các hoạt động đầu tư, sản xuất, tiêu dùng, kéo theo đó là những tác động tiêu
cực gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
- Cuộc khủng hoảng năm 2008 được đánh giá là là cuộc khủng hoảng nặng nề nhất
kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trở lại đây. Khi hàng loạt các ngân hàng, tổ chức tín
dụng lớn ở Mỹ tuyên bố phá sản đã làm chao đảo nền kinh tế đứng đầu thế giới này. Kinh
tế Mỹ suy sụp nhanh chóng đã khiến kinh tế thế giới cũng sụt giảm theo. Cùng với đó là
tình trạng khủng hoảng về năng lượng, lương thực và thực phẩm đã đẩy nền kinh tế thế
giới lâm vào tình trạng suy thoái trầm trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trở
lại đây. Nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế đã cùng nhau phối hợp để hạn chế những
tác động xấu của cuộc khủng hoảng. Cho đến nay, nền kinh tế thế giới đang có dấu hiệu
phục hồi, tuy nhiên vẫn còn nhiều những khó khăn trước mắt mà các quốc gia sẽ phải đối
mặt.
1.2.2.3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năn 2008
Có thể nói cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, có
nguyên nhân trực tiếp, sâu xa… nhưng tóm lại là bắt nguồn từ 4 nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: Cho vay dưới chuẩn
13
Các ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation) để
biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản
(MBS, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay mua
nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng bất
động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì việc phát mại tài sản càng
tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái
phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng.
Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh.
Các ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hoặc
gián tiếp duy trì một số danh mục chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả là
hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh.
Thứ hai: Mua bán khống
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho vay
dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp lực
giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua và
trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn.
Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale), tức là
không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng
khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu. Bộ trưởng Tư pháp bang New York,
Andrew Cuomo than: “Họ giống như kẻ hôi của một cơn bão”.
Thứ ba: Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ
Các ngân hàng thương mại chịu sự quản lý, giám sát của các cơ quan nhà nước, còn các
ngân hàng đầu tư, các công ty tài chính chịu sự giám sát ít hơn. Các cơ quan quản lý lỏng
lẻo, không theo kịp hoạt động của tất cả các tổ chức tài chính ngân hàng dẫn đến những
rủi ro khôn lường. Có tiền, các công ty “thoải mái” cho khách hàng vay bằng tiền của các
ngân hàng đầu tư cung cấp thông qua việc mua lại danh mục cho vay của các công ty này.
Các ngân hàng này, trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại, sẽ phát hành chứng khoán
để vay tiền. Danh mục cho vay được chia ra thành các mục như rủi ro ít, rủi ro cao… tùy
định mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại
chứng khoán không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng rủi ro cũng lớn.
Như vậy, rủi ro trong việc cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài chính
sang ngân hàng đầu tư. Nhà đầu tư trên thế giới đổ tiền mua các chứng khoán này, nhờ
14
vậy, chính họ đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường bất động sản ở Mỹ tăng
nóng.
Thứ tư: Khủng hoảng niềm tin
Theo Giáo sư Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ sự sụp đổ thảm khốc của
niềm tin. Các ngân hàng đánh đố lẫn nhau về mức độ cho vay cũng như tài sản. Những
giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấu những trượt giá giá trị tài sản
thực của ngân hàng. Đây là một trò chơi mà khi người ta bắt đầu cảm nhận “mùi vị” của
sự thua lỗ và nhìn vào hệ thống tài chính, khi đó thua lỗ sẽ xuất hiện, cả thị trường xuống
dốc và tất cả “người chơi” đều thua lỗ.
Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị xói
mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman là biểu tượng đánh dấu mức độ tin cậy xuống
một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục.
1.2.3. Lý thuyết về tiêu thụ sản phẩm
• Vai trò của công tác tiêu thụ sản phẩm
Thị trường sản phẩm là một khâu vô cùng quan trọng đối với bất cứ một doanh
nghiệp sản xuất hay một doanh nghiệp thương mại nào. Có thể nói sự tồn tại của doanh
nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào công tác tiêu thụ sản phẩm. Hoạy động tiêu thụ sản phẩm
chi phối các khâu nghiệp vụ khác. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải
được diễn ra liên tục và nhịp nhàng, hiệu quả hoạt động kinh doanh được đánh giá bởi
nhiều nhân tố, trong đó có tốc đội quay vòng vốn mà tốc độ quay vòng vốn lại phụ thuộc
rất lớn vào tốc độ tiêu thụ của sản phẩm do đó nếu như tiêu thụ sản phẩm tốt thì sẽ làm
cho số ngày quay vòng vốn giảm đi.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò thực hiện giá trị sản phẩm khi sản
xuất, doanh nghiệp phải bỏ vốn đầu tư vào nguyên vật liệu, máy móc trang thiết bị, nhiên
liệu… để sản xuất ra sản phẩm. Như vậy là vốn tiền tệ của doanh nghiệp được tồn tại
dưới dạng hàng hóa. Khi sản phẩm được tiêu thụ, doanh nghiệp được thu hồi vốn đầu tư
để tái sản xuất cho chu kỳ sau và có thể mở rộng sản xuất nhờ phần lợi nhuận thu được từ
hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm góp phần cũng cố vị trí, thế lực doanh nghiệp, nâng cao uy
tín của doanh nghiệp với khách hàng thông qua sản phẩm có chất lượng tốt, giá cả phải
chăng, phương thức giao dịch mua bán thuận tiện, dịch vụ bán hàng tốt… Thực hiện tốt
các khâu của quá trình tiêu thụ giúp cho các doanh nghiệp có thể tiêu thụ được khối lượng
sản phẩm lớn và lôi cuốn thêm khách hàng, không ngừng mở rộng thị trường.
15
Công tác tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế thị trường không đơn thuần là việc
đem sản phẩm bán ra thị trường mà là trước khi sản phẩm được người tiêu dùng chấp
nhận thì phải có sự nỗ lực cả về mặt trí tuệ lẫn sức lao động của người cán bộ và công
nhân trực tiếp sản xuất ra sản phẩm từ việc điều tra nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng,
trang thiết bị máy móc hiện đại, dây chuyền công nghệ tiên tiến đáp ứng được năng suất
và chất lượng sản phẩm,đào tạo người công nhân có tay nghề cao rồi đến việc quảng cáo
chào hàng, giới thiệu sản phẩm, vận chuyển, tổ chức kênh phân phối, tổ chức đội ngũ
nhân viên phục vụ khách hàng tận tình, có trình độ hiểu biết cần thiết để đáp ứng nhu cầu
khách hàng.
Tiêu thụ sản phẩm là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng, là thước
đo đánh giá độ tin cậy của người tiêu dùng đối với người sản xuất. Qua hoạt động tiêu thụ
sản phẩm, người tiêu dùng và người sản xuất gần gũi nhau hơn, tìm ra được cách đi đáp
ứng nhu cầu tốt hơn và người sản xuất có lợi nhuận cao hơn.
Tiêu thụ sản phẩm có một vai trò vô cùng quan trọng, nếu thực hiện tốt công
tác tiêu thụ sản phẩm thì sẽ tạo uy tín cho doanh nghiệp, tạo cơ sở vững chắc để củng cố,
mở rộng và phát triển thị trường cả trong nước và ngoài nước. Nó tạo ra sự cân đối giữa
cung và cầu trên thị trường trong nước, hạn chế hàng nhập khẩu, nâng cao uy tín hàng nội
địa.
1.3. Nội dung và nguyên lý giải quyết vấn đề nghiên cứu
1.3.1. Tác động của suy thoái kinh tế tới các doanh nghiệp Việt Nam
• Doanh nghiệp thiếu vốn sản xuất
Do ảnh hưởng của suy thoái, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bị ảnh hưởng lớn.
Thị trường vốn của Việt Nam đang bị tác động bởi sự thay đổi hành vi của các nhà đầu tư
nước ngoài nơi mà họ giữ một tỷ lệ không nhỏ giá trị vốn đầu tư. Xét một cách tổng quan
thì suy thoái kinh tế làm cho đầu tư suy giảm, gây ra những khó khăn cho các hoạt động
của doanh nghiệp trong nước. Trong nội bộ nền kinh tế, các doanh nghiệp phải chịu lãi
suất cao do các khoản phí cho vay, lãi suất đầu ra của nhiều ngân hàng thương mại cao
khiến cho nhiều doanh nghiệp đã thiếu vốn trong sản xuất lại phải đối diện với những lãi
suất ngân hàng cao hoặc đứng trước sự lựa chọn việc vay vốn ngâng hàng với lãi suất cao
16
để tiếp tục sản xuất. Hiện nay, tuy các doanh nghiệp kinh doanh có lãi nhưng nhiều doanh
nghiệp đã phải ngậm ngùi bỏ qua những hợp đồng kinh doanh có giá trị do thiếu vốn.
• Giá các yếu tố đầu vào tăng cao
Suy thoái kinh tế khiến cho nhiều doanh nghiệp điêu đứng trước sự tăng giá của
nguyên vật liệu đầu vào, giá đầu vào cho sản xuất tiếp tục tăng nhanh hơn giá bán sản
phẩm, nên hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không cao, việc vay vốn tín
dụng cho đầu tư cũng như cho hoạt động sản xuất kinh doanh còn hạn chế, nhiều dự án
không vay được, trong khi vốn ngân sách thuộc kế hoạch năm 2012 không đáp ứng nhu
cầu và một dố dự án đã có khối lượng thực hiện cao, nên khả năng đảm bảo tiến độ đầu tư
rất khó khăn.
• Thị trường đầu ra bị thu hẹp
Suy thoái kinh tế có ảnh hưởng rất rộng trong nền kinh tế. Không chỉ ảnh hưởng
tới một hay hai thành phần kinh tế mà nó có tác động tới mọi thành phần của nền kinh tế.
Là sản phẩm hàng hóa công nghệ phục sụ cho sản xuất, việc tiêu thụ các sản phẩm như
quặng, thiếc, chịu ảnh hưởng rất lớn từ các nghành khác. Do suy thoái kinh tế ảnh hưởng
tới nền sản xuất trong nước làm cho các cơ sở, doanh nghiệp sản xuất phải thu hẹp sản
xuất, giảm bớt các dự án có tiêu thụ sản phẩm kim loại màu. Vì vậy mà thị trường của các
sản phẩm kim loại màu này đã bị giảm một cách đáng kể.
• Lợi nhuận giảm mạnh
Suy thoái kinh tế đã làm cho giá cả đầu vào tăng cao như đã nói ở trên, làm tăng chi
phí sản xuất. Ngoài ra, do ảnh hưởng của suy thoái, tinh hình kinh tế khó khăn, doanh
nghiệp sản xuất ra không tiêu thụ được sản phẩm hay lượng tiêu thụ bị suy giảm, thị
trường tiêu thụ bị thu hẹp dẫn đến doanh nghiệp sẽ mất đi chi phí cơ hội trong khi không
thể tăng được doanh thu.
1.3.2. Nguyên lý giải quyết vấn đề nghiên cứu
• Thay đổi chiến lược kinh doanh
Suy thoái là cơ hội để doanh nghiệp tái cơ cấu, doanh nghiệp phải coi suy thoái là cơ hội
để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của mình trên thị trường. Khi tái cơ cấu thì cơ cấu tổ
chức của doanh nghiệp, không những phải phù hợp với tính chất của từng công việc, từng
nghề mà còn phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế, để tránh những rủi ro không đáng có
khi Việt Nam dần tiến sâu hơn vào hội nhập kinh tế quốc tế.
17
Ngoài ra doanh nghiệp cần thay đổi chiến lược kinh doanh để tận dụng cơ hội sau khủng
hoảng như tập trung hóa để vượt qua khủng hoảng. Doanh nghiệp Việt Nam, nhất là
những doanh nghiệp nhỏ, tư nhân nên học tập các tập đoàn lớn trên thế giới đó là tập
trung hóa thương hiệu của mình. Trong suy thoái, sự mở rộng thương hiệu, ngành nghề
cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và đặt trong một chiến lược dài hạn.
Trong thời kỳ khó khăn này, doanh nghiệp cần tập trung nhiều hơn những mục
tiêu chính. Nhờ thu hẹp nguồn lực trên thị trường, doanh nghiệp có thể tập trung chăm
sóc khách hàng, các phân khúc thị trường, các bộ phận chủ yếu của doanh nghiệp. Phần
lớn các doanh nghiệp hoạt động quá dàn trải, chủ yếu phát triển theo chiều rộng. Vì thế
cần đánh giá lại nhóm khách hàng hiện tại để tập trung nỗ lực marketing vào những nhóm
khách hàng tiềm năng có nhu cầu và sức mua cao.
• Kiểm soát tài chính chặt chẽ và hợp lý hóa chi phí sản xuất.
Một khi hiểu rõ những tác động của suy thoái, doanh nghiệp cần có kế hoạch để vượt qua
suy thoái, thoát ra ở vị trí tốt nhất có thể. Việc này bắt đầu từ việc bảo vệ các nền tảng tài
chính cơ bản của doanh nghiệp như đảm bảo dòng tiền dương, tiếp cận nguồn vốn và khả
năng thanh khoản là những yếu tố cơ bản khi nền kinh tế suy thoái, thực hiện quản lý tiền
mặt chặt chẽ. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần xem xét tỷ lệ vay hợp lý, đồng thời tăng
cường hiệu quả hoạt động. Lãnh đạo doanh nghiệp nên làm cho mọi người trong doanh
nghiệp hiểu và sử dụng các khoản chi phí hợp lý.
• Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro
Việc sử dụng quỷ dự phòng rủi do chính là việc trính một phần lợi nhuận của doanh
nghiệp và lập ra một quỹ dự phòng. Quỹ dự phòng rủi ro được sử dụng khi công ty lâm
vào tình trạng khó khăn, bị tổn thất, nó sẽ giúp hạn chế, khắc phục những tác đông tiêu
cực tới hoạt động kinh doanh của công ty. Vì vậy, quỹ dự phòng rủi ro có vai trò rất quan
trọng với công ty trong thời kỳ khó khăn như hiện nay, việc kiểm soát quỹ dự phòng cũng
rất quan trọng, cần kiểm soát chặt chẽ đẻ tránh sự biển thủ và các kiểu gian lận tài chính
mà phổ biến nhất chính kẻ cắp là nhân viên.
• Thâm nhập và mở rộng thị trường
Để có thể thâm nhập và mở rộng thị trường, doanh nghiệp cần nghiên cứu về thị trường
để nắm bắt nhu cầu thị trường về mẫu mã, chất lượng, giá cả, cơ cấu dòng sản phẩm…
Chú trọng khâu phát triển sản phẩm cho các thị trường tiềm năng. Phát triển kênh phân
phối vững chắc nhằm hỗ trợ cho việc tiêu thụ hàng hóa.
18
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần kim loại màu
Nghệ Tĩnh và tác động của suy thoái kinh tế tới hoạt động kinh doanh của công ty
2.1. Tổng quan tình hình và ảnh hưởng của các nhân tố tới hoạt động kinh doanh
của công ty cổ phần kim loại màu Nghệ Tĩnh
2.1.1. Tổng quan về công ty cổ phần kim loại màu Nghệ Tĩnh
a, Qúa trình hình thành và phát triển của công ty.
Tên gọi: Công ty Cổ phần Kim loại màu Nghệ Tĩnh.
Tên giao dịch quốc tế: Nghe Tinh Nonferrous Metal Joint Stock Company.
Tên viết tắt : MENETCO
Địa điểm : Thị trấn Quỳ Hợp - huyện Quỳ Hợp - Nghệ An.
Vốn điều lệ: 38,85tỷ VND
Công ty Cổ phần Kim loại màu Nghệ Tĩnh là doanh nghiệp được cổ phần hóa tiền thân
là Công ty kim loại màu Nghệ Tĩnh. Công ty kim loại màu Nghệ Tĩnh( Trước đây là xí
nghiệp Liên hợp thiếc Nghệ Tĩnh, thành lập ngày 23/4/1980), được thành lập lại theo
quyết định số 336/QĐ-TCNSĐT ngày 29/5/1993 của Bộ Công Nghiệp. Sau đó được
chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên Kim loại màu
Nghệ Tĩnh( tên viết tắt là Công ty Kim loại màu Nghệ Tĩnh) tại quyết định số
65/2004/QĐ-BCN ngày 28/7/2004 của Bộ Công nghiệp.
Công ty là đơn vị hạch toán độc lập, thuộc Tổng Công ty Khoáng sản Việt Nam. Có
con dấu, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà Nước và các ngân hàng trong nước.
Qua gần 28 năm hoạt động, Công ty luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mức tăng
trưởng hàng năm khoảng 15%, hoàn thành nộp nghĩa vụ nhà nước, ổn định và từng bước
cải thiện đời sống cho người lao động.
b, Chức năng của công ty
Thăm dò, khai thác, tuyển luyện, chế biến, kinh doanh và các khoáng sản khác trừ những
khoáng sản bị cấm khai thác; Mua bán vật liệu, vật tư. Thiết bị nghành khai khoáng.
Xây dựng công trình công nghiệp, dân dụng, giao thông, thủy lợi, cơ khí sữa chữa, sản
xuất vật liệu xây dựng( đá các loại,…).
Dịch vụ vận tải hàng hóa đường bộ, cho thuê kho tang, bến bãi; Tư vấn thiết kế, giám sát
việc khai thác mỏ, tuyển khoáng, luyện kim, xây dựng và giao thông vận tải.
Đại lý xăng dầu, vật liệu xây dựng( đá các loại).
Kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn và các mặt hàng khác mà pháp luật không cấm.
19
Sau khi thành lập công ty cổ phần, công ty sẽ nghiên cứu đầu tư mở rộng thêm 1 số ngành
nghề mới mà pháp luật không cấm để tận dụng hết tiềm năng của Công Ty cho sản xuất
kinh doanh nhằm mục tiêu đạt được hiệu quả kinh tế cao.
2.1.2. Chính sách quản lý của Công ty
Mục tiêu ngắn hạn hay dài hạn thì công ty đều mong muốn nâng cao hoạt động kinh
doanh của mình. Chính sách kinh doanh của công ty sẽ góp phần trong việc hoàn thành
mục tiêu. Các chính sách của công ty bao gồm: Chính sách nhân sự, chính sách tài chính,
chính sách marketing, chính sách R&D.
Chính sách nhân sự: Quản lý con người là một việc gặp rất nhiều trở ngại và đòi hỏi
sự khéo léo. Nhà quản lý trong công ty quản lý được nhân viên mình cần phải hiểu được
tâm lý của nhân viên, biết được nhân viên cần những gì. Các chính sách nhân sự giúp cho
công ty có thể giữ chân được những nhân viên giỏi và giúp cho nhân viên tích cực làm
việc với năng suất làm viêc cao hơn và hiệu quả hơn. Chính sách nhân sự là rất quan
trọng trong quá trình phát triển công ty.
Chính sách tài chính: Vốn giúp cho công ty tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị
trường, mở rộng quy mô kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty so với đối
thủ cạnh tranh. Do vậy, công ty đã huy động vốn kinh doanh từ ngân hàng, các nhà đầu tư
nước ngoài để mở rộng quy mô kinh doanh của công ty trên thị trường. Các cách dự toán
ngân sách giúp cho công ty nắm rõ tình hình tài chính. Qua đó, công ty có chính sách kinh
doanh hợp lý.
Chính sách marketing: Hoạt động marketing góp phần mở rộng thị trường và giới
thiệu sản phẩm của công ty ra thị trường. Là một công ty xuất khẩu kim loại màu ra nước
ngoài nên công ty sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc giới thiệu sản phẩm, cạnh tranh thị
trường. Do vậy, công ty đã có các chính sách marketing để quảng cáo sản phẩm, đưa sản
phẩm tới tất cả người tiêu dùng kể cả những tập khách hàng không phải là khách hàng
tiềm năng.
Chính sách R&D: Công tác nghiên cứu và pháp triển là một công việc đòi hỏi có thời gian
nghiên cứu dài để có thể đưa ra các chính sách phát triển sản phẩm cho công ty phù hợp
với năng lực, khả năng của công ty và đổi mới sản phẩm. Chính sách R&D rất quan trọng.
Vì vậy, công ty cần phải thực hiện tốt chính sách và có các chính sách khác để thúc đẩy
công tác nghiên cứu và phát triển.
2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty
2.1.3.1. Các nhân tố bên ngoài
20
a. Môi trường pháp lý
Là doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang mô hình hoạt động theo hình thức Công ty cổ
phần hoạt động của Công ty chịu ảnh hưởng của các văn bán pháp luật về cổ phần hóa,
chứng khoán và thị trường chứng khoán, các quy định về thuế. Luật và các văn bản pháo
luật trong lĩnh vực này đang trong quá trình hoàn thiện, sự thya đổi về chính sách có thể xảy
ra và khi xảy ra thì ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động q uản trịu, kinh doanh của doanh
nghiệp. Xét toàn cảnh môi trường pháp lý và tình hình thực tế của công ty thì môi trường
pháp lý ảnh hưởng ít nhiều tới hoạt động kinh doanh của công ty.
b. Môi trường chính trị, văn hoá- xã hội
Hình thức, thể chế đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước quyết định các
chính sách, đường lối kinh tế chung, từ đó quyết định các lĩnh vực, loại hình hoạt
động kinh doanh của các công ty. Môi trường chính trị ổn định sẽ có tác dụng thu hút
các hình thức đầu tư nước ngoài liên doanh, liên kết tạo thêm được nguồn vốn lớn cho
doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Ngược lại nếu môi trường
chính trị rối ren, thiếu ổn định thì không những hoạt động hợp tác kinh doanh với
các doanh nghiệp nước ngoài hầu như là không có mà ngay hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp ở trong nước cũng gặp nhiều bất ổn.
c. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là một nhân tố bên ngoài tác động rất lớn đến hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Tăng trưởng kinh tế quốc dân, chính sách kinh tế
của Chính phủ, tốc độ tăng trưởng, chất lượng của sự tăng trưởng hàng năm của nền
kinh tế, tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp, cán cân thương mại luôn là các nhân tố tác động
trực tiếp đến các quyết định cung cầu và từ đó tác động trực tiếp đến kết quả va hiệu
quả hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Những năm gần đây, do ảnh hưởng
của cuộc suy thoái kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam hai năm gần đây chỉ đạt khoảng 5-
6%, lạm phát tăng cao, năm 2011 là 18,58% và năm 2012 được kiềm chế ở mức 6,81%, thất
nghiệp tăng cao đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt
Nam nói chung và công ty cổ phần kim loại màu Nghệ Tĩnh nói riêng.
d. Môi trường thông tin
Không chỉ riêng là nghành kinh doanh khoáng sản mà bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào
cũng cần có thông tin về thị trường cho ra một sản phẩm mới, thông tin về kỹ thuật sản
xuất, thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm, thông tin về các đối thủ cạnh tranh,
thông tin về kinh nghiệm thành công hay nguyên nhân thất bại của các doanhnghiệp đi
21
trước. Doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh của mình có hiệu quả thì phải có
một hệ thống thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác. Trong nền kinh tế thị trường cuộc
cách mạng về thông tin đang diễn ra mạnh mẽ bên cạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật. Để làm bất kỳ một khâu nào của quá trình kinh doanh cần phải có thông tin, vì
thông tin bao trùm lên các lĩnh vực, thông tin để điều tra khai thác.
e. Môi trường quốc tế
Nắm bắt được xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế như hiện nay và do đặc thù sản phẩm
kinh doanh chính của công ty là sản phẩm xuất khẩu nên môi trường quốc tế càng ảnh
hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của công ty. Các xu hướng, chính sách bảo hộ hay
mở cửa, sự ổn định hay biến động về chính trị, những cuộc bạo động, khủng bố,
những khủng hoảng về tài chính, tiền tệ, thái độ hợp tác làm ăn của các quốc gia,
nhu cầu và xu thế sử dụng hàng hoá của các doanh nghiệp Nhật Bản, Trung Quốc
hay các doanh nghiệp Tâu Âu đều có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
f. Môi trường tự nhiên
Nghành công nghiệp khai thác khoáng sản phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố về môi
trường tự nhiên. Bất kỳ sự biến động nào của môi trường tự nhiên cũng đều ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng sản phẩm như: sự biến động về địa chất, quy hoạch khai thác
vùng chưa ổn định,…
2.1.3.2. Các nhân tố bên trong
Ngoài các nhân tố vĩ mô với sự ảnh hưởng như đã nói ở trên, hiệu quả hoạt động
SXKD của doanh nghiệp được quyết định bởi các nhân tố bên trong doanh nghiệp, đây
là các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
a. Nhân tố quản trị doanh nghiệp và cơ cấu tổ chức
Khi Công ty TNHH 1 thành viên kim loại màu Nghệ Tĩnh chính thức chuyển thành
công ty cổ phần kim loại màu Nghệ Tĩnh và gia nhập thị trường chứng khoán Việt Nam và
cổ phiếu của công ty được giao dịch rộng rãi, bên cạch việc tuân thủ các quy định hiện
hành, các nhà quản lý công ty còn chịu sựu điều chỉnh của các quy định tại UBCKNN,
TTGDCK và áp lực của công chúng. Trong thời gian đầu, cũng như các công ty mới
chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần khác, việc quản lý công ty cổ phần kim loại
màu Nghệ Tĩnh sẽ khó khăn, phức tạp hơn trước đây.
22
Sau khi cổ phần hóa, sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của công ty năm 2013 như
sau:
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty
ĐẠI HỘI CỔ
ĐÔNG
HỘI ĐỒNG
QUẢN TRỊ
BAN KIỂM
SOÁT
BAN GIÁM ĐỐC
Phòng
tổ chức
hành
chính
Phòng
kế toán
thống
kê tài
chính
Phòng
KDVT
Phòng
kỹ
thuật
Phòng
kế
hoạch
đầu tư
Phòng
cơ điện
AT
Nguồn : Công ty cổ phần kim loại màu Nghệ Tĩnh.
Mạng lưới tổ chức của công ty cổ phần về cơ bản bổ sung thêm 2 phòng là phòng cơ
điện an toàn và phòng kinh doanh vật tư, nhằm nâng cao vao trò trách nhiệm của các
phòng để đáp ứng yêu cầu kinh doanh với xu thế hội nhập nền kinh tế quốc dân.
Ngòai 2 văn phòng đại diện hiện có tại Hà Nội và thành phố Vinh đặt thêm một văn
phòng đại diện của Công ty tại TP. Hồ Chí Minh.
Sát nhập xí nghiệp vật liệu xây dựng và dịch vụ với xưởng sữa chữa gia công cơ khí
thành Xí nghiệp cơ khí – Xây dựng. Đổi tên xí nghiệp khai thác tuyển khô quặng thiếc
thành xí nghiệp Thiếc Châu Hồng, xưởng sản xuất thiếc Suối Bắc thành Xí nghiệp thiếc
Suối Bắc, xưởng sản xuất thiếc Bản Cô thành Xí nghiệp thiếc Bản Cô.
Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có thẩm quyền cao nhất công ty, bao gồm các cổ đông
có quyền biểu quyết. Đại hội đồng cổ đông có quyết định các vấn đề lớn về tổ chức hoạt
động, sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển…của công ty theo quy định của Điều lệ. Đại
hội đồng cổ đông bầu ra Hội đồng Quản trị và ban kiểm soát là cơ quan thay mặt Đại hội
đồng cổ đông quản lý Công ty giữa 2 kỳ đại hội.
23
Hội đồng quản trị có nhiệm vụ chính là giám sát, chỉ đạo giám đốc điều hành và các cán
bộ quản lý khác, trong việc điều hành sản xuất kinh doanh của Công ty.
Ban kiểm soát do Đại hội đồng Cổ đông bầu ra, là tổ chức thay mặt cổ đông để thực hiện
giám sát hội đồng quản trị, giám đốc Công ty trong việc quản lý và điều hành Công ty,
kiểm soát tính hợp lý, hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của Công
ty và thực hiện các công việc khác theo quy định của Luật Doannh nghiệp và Điều lệ
Công ty.
Ban giám đốc gồm giám đốc điều hành chung và các phó giám đốc giúp việc cho giám
đốc điều hành chung, điều hành tứng lĩnh vực SXKD của Công ty.
Các phòng quản lý có chức năng tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo Công ty quản lý từng
lĩnh vực chuyên môn, là phòng trực thuộc Công ty. Các phòng quản lý gồm các phòng
khối kỹ thuật và khối nghiệp vụ. Khối nghiệp vụ có nhiệm vụ giúp việc cho lãnh đạo
Công ty quản lý các lĩnh vực về nghiệp vụ chuyên môn theo từng chuyên ngành.
b. Nhân tố lao động và vốn
Lực lượng lao động là nhân tố quan trọng liên quan trực tiếp đến năng suất lao
động, trình độ sử dụng các nguồn lực khác như vốn, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu
nên tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh. Ngày nay hàm lượng khoa
học kỹ thuật kết tinh trong sản phẩm ngày càng lớn đòi hỏi người lao động phải có
mộ trình độ nhất định để đáp ứng được các yêu cầu đó, điều này phần nào cũng nói
lên tầm quan trọng của nhân tố lao động.
Tính đến tháng 12/2012 tổng số lao động của công ty là 863 người, trong đó có
623 nam và 240 nữ. Số cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng là 128 người, trung cấp là
103 người, công nhân kỹ thuật 539 người, lao động phổ thông… người.
Bên cạnh nhân tố lao động của doanh nghiệp thì vốn cũng là một đầu vào có vai
trò quyết định đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có
khả năng tài chính không những chỉ đảm bảo cho doanh nghiệp duy trì hoạt động
kinh doanh ổn định mà còn giúp cho doanh nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị tiếp
thu công nghệ sản xuất hiện đại hơn nhằm làm giảm chi phí, nâng cao những mặt có
lợi, khả năng tài chính còn nâng cao uy tín của doanh nghiệp, nâng cao tính chủ động
khai thác và sử dụng tối ưu đầu vào.
24
Biểu đồ 2.1. Nguồn vốn của công ty giai đoạn 2008- 2012
Đơn vị: Triệu đồng
Nguồn : Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên kim loại màu Nghệ Tĩnh
Qua biểu đồ trên ta thấy vốn hàng bán, vốn kinh doanh và vốn chủ sở hữu của công ty
tăng liên tục qua các năm từ 2008 đến năm 2012. Từ biểu đồ ta có thể tính được vốn hàng
bán của công ty năm 2012 tăng cao so với năm 2008, tăng từ 95.055triệu(năm 2008) lên
201.993 triệu(năm 2012). Điều này cho thấy công ty có khả năng tài chính khá lớn và
vững chắc, là tiền đề và là nguồn lực ổn định để công ty phát triển.
c. Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng khoa học kỹ thuật
Doanh nghiệp phải biết luôn tự làm mới mình bằng cách tự vận động và đổi mới, du
nhập những tiến bộ khoa học kỹ thuật thời đại liên quan đến lĩnh vực sản xuất của
doanh nghiệp mình. Vấn đề này đóng một vai trò hết sức quan trọng với hiệu quả hoạt
động SXKD vì nó ảnh hưởng lớn đến vấn đề năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm. Sản phẩm dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật lớn mới có chỗ đứng trong thị
trường và được mọi người tin dùng so với những sản phẩm dịch vụ cùng loại khác.
d. Vật tư, nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư nguyên liệu của
doanh nghiệp
Đây cũng là bộ phận đóng vai trò quan trọng đối với kết quả hoạt động
SXKD. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài những yếu tố nền tảng cơ
sở thì nguyên liệu đóng vai trò quyết định, có nó thì hoạt động SXKD mới được tiến
hành.
Kế hoạch SXKD có thực hiện thắng lợi được hay không phần lớn phụ thuộc
vào nguồn nguyên liệu có được đảm bảo hay không.
25