Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH may nhân đạo Trí Tuệ giai đoạn 2006-2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 78 trang )

MỤC LỤC
Đối với doanh nghiệp 10
Đối với người tiêu dùng 11
Đối với nền kinh tế 11
Danh mục các từ viết tắt
TNHH: trách nhiệm hữu hạn
NLCT: năng lực cạnh tranh
XDCB: xây dựng cơ bản
MMTB: máy móc thiết bị
NNL: nguồn nhân lực
VĐT: vốn đầu tư
LN: lợi nhuận
DT: doanh thu
R&D: hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Đối với doanh nghiệp 10
Đối với người tiêu dùng 11
Đối với nền kinh tế 11
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu hướng hội nhập toàn cầu như hiện nay thì các doanh nghiệp
nước ngoài nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng phải cạnh tranh
nhau gay gắt để tồn tại. Bất kì một doanh nghiệp nào cũng đặt lợi nhuận là mục
tiêu hàng đầu nên mọi doanh nghiệp đều tìm mọi cách tận dụng mọi cơ hội để
tạo ra lợi nhuận cao nhất với khả năng của mình. Trong những năm gần đây quá
trình hợp tác và hội nhập kinh tế diễn ra hết sức mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế
giới hình thành nên các liên kết khu vực và trên thế giới như WTO, AFTA
Trong xu thế đó Việt Nam cũng đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức lớn
như APEC, WTO, AFTA…như vậy các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam
vừa có cơ hội để mở rộng và xâm nhập thị trường tiêu thụ đồng thời phải chịu
sức ép cạnh tranh lớn hơn. Để có chỗ đứng trên thị trường các doanh nghiệp


phải đặt lợi ích của khách hàng lên trước lợi ích của doanh nghiệp, có như thế
mới tạo được lòng tin với khách hàng và đứng vững được trên thị trường.
Hơn 20 năm tồn tại và phát triển, công ty TNHH may nhân đạo Trí Tuệ đã
trải qua nhiều khó khăn và thử thách. Đến nay công ty đã có chỗ đứng ổn định
trên thị trường. Với hoạt động chính là sản xuất hàng may mặc phục vụ cho thị
trường xuất khẩu và nội địa. Công ty luôn tự hào là một trong những doanh
nghiệp đi đầu trong ngành của huyện Từ Liêm. Công ty đã không ngừng đổi mới
công nghệ, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ và công nhân viên của công ty
và lấy uy tín, chất lượng làm mục tiêu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình.
Trong thời gian thực tập ở công ty em thấy công tác đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh rất được công ty chú trọng và ban lãnh đạo hàng ngày tìm
những giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh cho Công ty. Xuất phát từ yêu
cầu thực tế trên, em quyết định chọn đề tài: “Đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty TNHH may nhân đạo Trí Tuệ giai đoạn 2006-2012” làm
chuyên đề tốt nghiệp. Kết cấu của chuyên đề, ngoài phần mở đầu chuyên đề
2
được chia làm 3 chương chính sau:
Chương I: Lý luận chung về cạnh tranh và đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công
ty TNHH may nhân đạo Trí Tuệ trong giai đoạn 2006-2012.
Chương III: Chương 3 : Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của công ty.
Chuyên đề đi sâu vào phân tích tình hình đầu tư nâng cao khả năng cạnh
tranh của công ty và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh
của công ty. Em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Trần Thị Mai Hoa đã tận tình
chỉ bảo và hướng dẫn em hoàn thiện chuyên đề này, và cũng xin chân thành cảm
ơn các cô chú, anh chị phòng tổ chức hành chính và phòng kế hoạch kinh doanh
công ty TNHH may nhân đạo Trí Tuệ đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình

thực tập tại công ty. Vì thời gian và trình độ hiểu biết của bản thân có hạn nên
đề tài khó tránh khỏi những thiếu sót, mong nhận được những đóng góp quý báu
của quý thầy cô để đề tài được hoàn thiện và có tính thiết thực hơn .
Em xin chân thành cảm ơn !
3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ ĐẦU TƯ
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGIỆP
1.1 Cơ sở lý luận về cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh là một khái niệm rộng không những tồn tại trong lĩnh vực kinh
tế mà còn tồn tại trong lĩnh vực xã hội. Trong nền kinh tế thị trường các chủ thể
kinh tế vì lợi ích riêng của bản thân mà tiến hành cạnh tranh với nhau.
Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền
sản xuất hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất
cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng
(Người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu
dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn, tốt hơn; giữa những người sản xuất để
có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Có nhiều biện pháp cạnh
tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá ) hoặc phi giá cả (quảng cáo ).
Cạnh tranh gắn liền với hành vi của chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá
trình cạnh tranh với nhau, để giành lợi thế về mình, các chủ thể phải áp dụng
tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế của mình trên thị
trường. Các biện pháp này thể hiện 1 sức mạnh nào đó của chủ thể, được gọi là
năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh của chủ thể đó.
sdgsdVậy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là gì? Đây là một khái niệm
được sử dụng rộng rãi nhưng cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều định nghĩa khác
nhau về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Dưới đây là một số cách tiếp cận
cụ thể khác nhau như: chi phí sản xuất, thị phần, khả năng cung ứng sản phẩm
…về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Một là, dưới góc độ chi phí, Fafchams cho rằng năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp là khả năng sản xuất ra sản phẩm có chi phí biến đổi trung
bình thấp hơn giá của sản phẩm tương tự cùng chất lượng có trên thị trường.
4
Chúng ta có thể thấy rằng doanh nghiệp nào có chi phí sản xuất thấp hơn sẽ có
lợi thế trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng ngành khác do họ có thể
đưa ra mức giá cho sản phẩm của họ thấp hơn mức giá của các sản phẩm cùng
loại trên thị trường. Từ đó họ sẽ thu về khoản lợi nhuận cao hơn do chi phí sản
xuất thấp hơn.
Hai là, dưới góc độ thị phần, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là
khả năng duy trì và mở rộng thị phần với lợi nhuận nhất định. Thị phần là
phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp chiếm lĩnh. Ta có thể thấy
doanh nghiệp nào bán được nhiều hàng hóa, dịch vụ hơn, doanh nghiệp đó có thị
phần lớn hơn. Điều đó chưng tỏ chiến lược kinh doanh cua doanh nghiệp đó tốt
hơn từ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó được phát huy một cách tối đa.
Ba là, dưới góc độ khả năng phân phối, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp thể hiện ở khả năng cung ứng sản phẩm của doanh nghiệp
trên các thị trường khác nhau không phân biệt nơi doanh nghiệp hoạt động.
Ngoài ra, không ít ý kiến đồng nhất năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
với năng lực kinh doanh. Như vậy, cho đến nay quan niệm về năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp vẫn chưa được hiểu thống nhất. Hầu hết các quan điểm
đều chỉ đứng trên một góc độ nào đó nên đã không lột tả được hết khái niệm
năng lực cạnh tranh trong thời đại ngày nay. Các quan điểm này đều có chung
một ý tưởng là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được đặc trưng bởi lợi
nhuận và mức chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy, để nâng cao khả năng cạnh tranh
của mình, các doanh nghiệp phải tìm cách chiếm lĩnh thị trường và nâng mức lợi
nhuận lên cao. Tập hợp các định nghĩa trên, một định nghĩa về năng lực cạnh
tranh được nhiều người thừa nhận nhất như sau: “ năng lực cạnh tranh hay sức
cạnh tranh của doanh nghiệp là thực lực và lợi thế mà doanh nghiệp có thể huy
động và duy trì để cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh trên thị

trường một cách lâu dài nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho doanh
nghiệp”.
1.1.2 Các loại hình cạnh tranh
5
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, người ta phân chia cạnh tranh thành
các loại hình khác nhau:
- Căn cứ theo phạm vi nền kinh tế cạnh tranh được chia thành 2
loại :
+ Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau
nhằm thu được tỷ suất lợi nhuận cao. Cuộc cạnh tranh nhằm thu được tỷ suất
cao giữa các ngành khác nhau đã được Mac phân tích rất rõ trong quá trình phân
chia lợi nhuận giữa các nhà tư bản bỏ vốn đầu tư vào các ngành khác nhau của
nền kinh tế và chính sự cạnh tranh này dẫn tới sự di chuyển vốn đầu tư từ các
ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, di
chuyển vốn này dần hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành
với nhau, điều này có nghĩa là các nhà đầu tư đầu tư vào các ngành khác nhau
với số vốn bằng nhau thì chỉ thu được lợi nhuận như nhau.
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá. Cạnh tranh trong nội bộ
ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường. Trong cuộc cạnh tranh này các
doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau, các doanh nghiệp lớn thâu tóm các doanh
nghiệp nhỏ hơn bằng hình thức: sát nhập, mua lại. Những doanh nghiệp chiến
thắng trong cuộc cạnh tranh này thì ngày càng mạnh hơn, những doanh nghiệp
thua cuộc sẽ phải thu hẹp sản xuất kinh doanh, thậm chí phá sản, xoá sổ khỏi thị
trường. Kết quả của hình thức cạnh tranh này là đến nay thế giới đã hình thành
nên những tập đoàn kinh tế mạnh xuyên quốc gia thâu tóm toàn bộ ngành kinh
tế trên toàn cầu trong lĩnh vực: điện tử, viễn thông, truyền thông
- Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường người ta phân chia
cạnh tranh thành 3 loại:

+ Cạnh tranh giữa người bán với người mua: là cuộc cạnh tranh diễn
ra theo qui luật mua rẻ bán đắt. Người bán thì muốn bán được sản phẩm của
mình với giá cao nhất, còn người mua thì muốn mua sản phẩm với giá rẻ nhất.
6
giá cả cuối cùng được chấp nhận là giá thông nhất giữa người bán và người mua
sau quá trình “mặc cả” với nhau.
+ Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: là cuộc cạnh tranh
nhằm mua được những hàng hóa, dịch vụ mà họ cần. Đây là cuộc cạnh tranh
theo quy luật cung cầu. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa người
mua trở nên quyết liệt, giá cả hàng hoá dịch vụ sẽ tăng lên.
+ Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: là cuộc cạnh tranh trên
thị trường nhằm giành giật khách hàng và thị trường. Kết quả là giá cả giảm
xuống và có lợi cho người mua. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ
ra đuối sức không chịu được sức ép sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường lại thị
phần cho những cho các đối thủ mạnh hơn.
- Căn cứ theo cấp độ cạnh tranh người ta chia cạnh tranh thành
3 loại:
+ Cạnh tranh cấp quốc gia: thường được phân tích theo quan điểm
tổng thể, chú trọng vào môi trường kinh tế vĩ mô và vai trò của chính phủ. Dưới
điều kiện thị trường tự do và công bằng, các quốc gia có thể sản xuất các hàng
hóa và dịch vụ đáp ứng được nhu cầu thị trường quốc tế, đồng thời nâng cao
được thu nhập của người dân quốc gia đó.
+ Cạnh tranh cấp độ doanh nghiệp: là các doanh nghiệp căn cứ vào
năng lực duy trì lợi nhuận và thị phần trên thị trường trong và ngoài nước để tồn
tại và phát triển.
+ Cạnh tranh cấp độ sản phẩm: các doanh nghiệp liên tục đưa ra thị
trường các sản phẩm, dịch vụ với mẫu mã mới lạ, có chất lượng cao, giá cả hợp
lí… điều này tạo ra cuộc cạnh tranh giữa các sản phẩm và người tiêu dùng được
hưởng lợi.
- Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường, người ta chia ra:

+ Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh trên thị
trường có nhiều người mua và người bán độc lập với nhau. Tất cả các đơn vị
hàng hoá trao đổi được coi là giống nhau. Những người mua và người bán đều
7
có hiểu biết đầy đủ về các thông tin liên quan đến việc trao đổi, không có gì cản
trở việc ra nhập và rút khỏi thị trường.
+ Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh trên
thị trường mà phần lớn sản phẩm không đồng nhất với nhau. Người bán có thể
ấn định giá linh hoạt theo khu vực bán sản phẩm, tùy theo khách hàng cụ thể và
mức độ lợi nhuận mong muốn.
+ Cạnh tranh độc quyền: là trường hợp trên thị trường chỉ có một số ít
người (hoặc tổ chức) độc chiếm thị trường. Những người hay tổ chức này có
quyền lực kinh tế lớn đối với quá trình sản xuất, chi phối thị trường, quy định
giá bán độc quyền cao, giá mua độc quyền thấp.
- Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh người ta chia
cạnh tranh thành 2 loại :
+ Cạnh tranh lành mạnh: Là hình thức cạnh tranh, trong đó các chủ thể các
doanh nghiệp trên cùng một vùng địa lý, hay lãnh thổ, cùng một quốc gia hay
vùng thị trường, đều đảm bảo thực hiện các công việc kinh doanh của mình
đúng theo các quy định của luật pháp, phù hợp với chuẩn mực xã hội và được xã
hội thừa nhận. Thu lợi nhuận nhuận trên cơ sở những nỗ lực của bản thân doanh
nghiệp, cải tiến sản xuất, công nghệ, phương pháp quản lý,…làm giảm giá thành
tăng lợi nhuận.
+ Cạnh tranh không lành mạnh: Là hình thức cạnh tranh dựa vào các kẽ hở
của luật pháp, trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án như trốn thuế, buôn
lậu, ăn cắp bản quyền phát minh sáng chế, bán phá giá, khủng bố, vv ).
1.1.3 Các nhân tố tác động đến cạnh tranh:
Michael E.Porter là giáo sư của đại học Harvard. Ông là tác giả của các
tác phẩm kinh điển như “Chiến lược cạnh tranh” (competitive strategy), “Lợi
thế cạnh tranh” (competitive advantage) và “Lợi thế cạnh tranh quốc gia”

(competitive advantage of nations). Trong cuốn sách “Chiến lược cạnh
tranh” (competitive strategy), ông đã đưa ra những nhận định của mình về các
8
nhân tố tác động đến cạnh tranh trong mọi ngành sản xuất kinh doanh. Theo ông
có 5 nhân tố tác động đến cạnh tranh đó là:
- Áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp: với tất cả các ngành, nhà
cung cấp luôn gây các áp lực nhất định nếu họ có quy mô, sự tập hợp và việc sỡ
hữu các nguồn lực quý hiếm. chính vì thế các nhà cung cấp các sản phẩm đầu
vào nhỏ lẻ (nông dân, thợ thủ công ) sẽ có ít quyền lực đàm phán với các doanh
nghiệp mặc dù họ có số lượng lớn nhưng lại thiếu tính tổ chức.
- Áp lực cạnh tranh từ khách hàng: khách hàng là một áp lực cạnh
tranh có thể ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của
ngành. Khách hàng được chia làm 2 nhóm : khách lẻ và nhà phân phối. Cả 2
nhóm này đều gây áp lực với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng sản phẩm và
dịch vụ đi kèm và chính họ là nguời điều khiển cạnh tranh thông qua quyết định
mua hàng.
- Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn: đối thủ tiềm ẩn là cac
doanh nghiệp chưa có mặt trên thị trường hay trong ngành nhưng có khả năng
ảnh hưởng tới thị trường trong tương lai. Đối thủ tiềm ẩn nhiều hay ít, tác động
tới ngành mạnh hay yếu tùy thuộc vào sự hấp dẫn của ngành hay nhưng rào cản
gia nhập ngành như kỹ thuật, vốn, các nguồn lực đặc thù…
- Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế : sản phẩm và dịch
vụthay thế là những sản phẩm dịch vụcó thể thỏa mãn nhu cầu tương đương ới
các sản phẩm dịch vụtrong ngành. Áp lực chủ yếu là khả năng đáp ứng nhu cầu
so với các sản phẩm trong ngành, thêm vào nữa là các nhân tố về giá, chât
lượng, các yếu tố như văn hóa, chính trị, công nghệ cũng sẽ ảnh hưởng tới các
sản phẩm trong nghành.
- Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành: các doanh nghiệp trong ngành
sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra sức ép trở lại ngành tạo nên một cường độ
cạnh tranh.

9
Hình 1: Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Michael Porter
1.1.4 Vai trò của cạnh tranh đối với sự phát triển
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có vai trò vô cùng quan trọng, nó
được coi là động lực của sự phát triển không chỉ của mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp mà cả nền kinh tế nói chung.
Đối với doanh nghiệp
Đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường, cạnh tranh có những vai trò sau:
Cạnh tranh được coi như là cái “sàng” để lựa chọn và đào thải những
doanh nghiệp. Vì vậy nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có vai trò
cực kỳ to lớn.
Cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cạnh
tranh tạo ra động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp
tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác marketing bắt
đầu từ việc nghiên cứu thị trường để xác định được nhu cầu thị trường từ đó ra
các quyết định sản xuất kinh doanh để đáp ứng các nhu cầu đó. Bên cạnh đó,
10
doanh nghiệp phải nâng cao các hoạt động dịch vụ cũng như tăng cường công
tác quảng cáo, khuyến mãi, bảo hành
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có chất
lượng cao hơn để đáp ứng được nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu
dùng. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ
thuật mới vào quá trình sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng
cao trình độ tay nghề của công nhân từ đó làm cho doanh nghiệp ngày càng
phát triển hơn.
Đối với người tiêu dùng
Có cạnh tranh, hàng hoá sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã
ngày càng đẹp, phong phú đa dạng hơn để đáp ứng các yêu cầu của người tiêu

dùng trong xã hội. Vì vậy, đối với người tiêu dùng, cạnh tranh có các vai trò sau:
Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn các sản
phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của mình.
Những lợi ích mà họ thu được từ hàng hoá ngày càng được nâng cao, thoả
mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của họ nhờ các dịch vụ kèm theo được quan
tâm nhiều hơn. Đó chính là những lợi ích mà người tiêu dùng có được từ việc
nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế
Cạnh tranh được coi như là “linh hồn” của nền kinh tế, vai trò của cạnh
tranh đối với nền kinh tế quốc dân thể hiện ở những mặt sau:
Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi
thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xoá bỏ những độc
quyền, bất hợp lý, bất bình đẳng trong kinh doanh.
Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân
công lao động xã hội ngày càng xâu sắc.
Cạnh tranh thúc đẩy sự đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của xã hội, kích thích nhu cầu phát triển, làm nảy sinh những nhu cầu mới,
góp phần nâng cao chất lượng đời sống xã hội và phát triển nền kinh tế.
Cạnh tranh làm nền kinh tế quốc dân vững mạnh, tạo khả năng cho doanh
nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài.
Cạnh tranh giúp cho nền kinh tế có nhìn nhận đúng hơn về kinh tế thị
trường, rút ra được những bài học thực tiễn bổ sung vào lý luận kinh tế thị
trường của nước ta.
11
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong
muốn về mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu
của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh
tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp
luật. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các
định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước.

Cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không
lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật (buôn
lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại, ) gây nên sự bất ổn trên thị trường, làm thiệt
hại đến lợi ích của nhà nước và của người tiêu dùng hoặc những hành vi cạnh
tranh làm phân hóa giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh thái.
Phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của cạnh
tranh không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước, doanh nghiệp mà là nhiệm vụ chung
của toàn bộ cá nhân.
1.2 Cơ sở lý luận về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm về đầu tư và đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong
doanh nghiệp
Đầu tư theo nghĩa rộng nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện
tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết
quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được
các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn),
tài sản vật chất ( nhà máy, đướng sá, các của cải vật chất khác ) và nguồn nhân
lực có đủ điêu kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền kinh tế xã hội.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn
lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong doanh nghiệp là việc hy
sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương lai. Ta có thể thấy
trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
với nhau là vô cùng gay gắt. Sự cạnh tranh có thể làm một doanh nghiệp phát
12
triển hơn nhưng cũng có thể làm doanh nghiệp đó phá sản nếu doanh nghiệp đó
không chịu nổi sức ép từ thị trường. Chính vì vậy mà việc đầu tư để nâng cao

năng lực cạnh tranh là vô cùng quan trọng trong mỗi doanh nghiệp.
1.2.2 Nội dung đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong doanh nghiệp:
1.2.2.1 Đầu tư xây dựng nhà xưởng, cơ sở vật chất:
Đầu tư xây dựng nhà xưởng, cơ sở vật chất là hoạt động nhằm bổ sung
hoặc tái tạo lại các tái sản cố định của doanh nghiệp như: nhà xưởng, kho bãi,
các công trình kiến trúc phục vụ công việc, các văn phòng làm việc,… hoạt
động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư.
Kết quả của hoạt động đầu tư xây dựng nhà xưởng, cơ sở vật chất có thời gian
thực hiện và sử dụng lâu dài.
Đầu tư nâng cao năng lực nhà xưởng kho bãi có ý nghĩa quyết định trong
việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho các doanh nghiệp. Đây được coi là nền
móng trong quá trình phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp sản xuất hàng hóa. Việc có được nhà xưởng, kho bãi đúng tiêu chuẩn tạo
điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh cũng như lưu trữ hàng hóa.
Hoạt động đầu tư xây dựng nhà xưởng, cơ sở vật chất bao gồm các công
việc sau:
- Thăm dò, khảo sát thiết kế.
- Lập và thẩm định các dự án đầu tư xây dựng các công trình kiến
trúc mới và các dự án sửa chữa, cải tạo các công trình cũ.
- Xây dựng mới, xây dựng lại công trình.
- Cải tạo mở rộng nâng cấp, hiện đại hóa công trình.
- Tăng cường khả năng phòng chống cháy nổ cho các công trình
- Sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc.
- Lắp đặt thiết bị máy móc vào công trình.
1.2.2.2 Đầu tư mua sắm, sửa chữa máy móc thiết bị:
Đầu tư mua sắm, sửa chữa máy móc thiết bị là hoạt động nhằm bổ sung
hoặc thay thế các máy móc thiết bị đã cũ, hỏng nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất
13
mới của doanh nghiệp, đảm bảo quá trình sản xuất sản phẩm không bị gián
đoạn. Đối với những doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất thì máy móc

thiết bị là tài sản rất quan trọng và không thể thiếu được. Vì vậy mà hoạt động
đầu tư này cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư của các doanh
nghiệp.
Máy móc thiết bị phải đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm, đạt được
trình độ công nghệ thì doanh nghiệp mới có khả năng cạnh tranh với các đối thủ
trên thị trường. Đầu tư thích đáng vào hoạt động mua sắm và sửa chữa máy móc
thiết bị giúp các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tiêu hao
nhiên liệu, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành và tăng năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Hoạt động mua sắm và sửa chữa máy móc thiết bị gồm các công việc sau:
- Nghiên cứu và tìm hiểu các loại máy móc thiết bị phù hợp với quy
mô sản xuất, quy mô nhà xưởng của doanh nghiệp.
- Ký kết các hợp đồng mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất.
Lựa chọn các nhà cung cấp uy tín.
- Tiến hành nhận máy, vận chuyển về nơi sử dụng, lắp đặt và chạy thử.
- Xây dựng các cơ sở vất chất để cất giữ và bảo quản máy.
- Thiết lập tổ công nhân vận hành máy, bao gồm cả đào tạo thợ và
chuyển giao công nghệ ( đối với các máy móc phức tạp).
- Tiến hành sửa chữa, thay thế máy móc định kỳ.
- Xác định một số vốn lưu động cần thiết cho vận hành máy (nhất là
dự trữ chi tiết máy và nhiên liệu).
1.2.2.3 Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là đầu tư cho hoạt động đào
tạo và nâng cao tay nghề, kiến thức làm việc cho đội ngũ lao động. Ngoài ra còn
phải đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe, y tế; đầu tư cải thiện môi trường,
điều kiện làm việc của người lao động… Nguồn nhân lực có vị trí quan trọng
14
trong nền kinh tế và doanh nghiệp vì chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới
đảm bảo dành thắng lợi trong cạnh tranh.
Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được đánh giá thông qua số lượng lao

động làm việc trong doanh nghiệp đó và chất lượng của các lao động đó như thế
nào. Số lượng lao động phản ánh sự đóng góp về lượng còn chất lượng lao động
phản ánh sự đóng góp về chất của lao động vào quá trình sản xuất. Chất lượng
lao động được thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu trong đó có các chỉ
tiêu chủ yếu sau: chỉ tiêu về sức khỏe và đạo đức, chỉ tiêu về trình độ văn hóa và
chỉ tiêu về trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Nguồn nhân lực là nhân tố chủ yếu quyết định năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy việc đầu tư nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cần được coi trọng và có được một tỷ trọng hợp lý trong tổng
vốn đầu tư của các doanh nghiệp.
Các hình thức đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
- Đào tạo trực tiếp cho đội ngũ lao động: trang bị kiến thức phổ
thông, chuyên nghiệp và kiến thức cho người lao động. Trực tiếp đào tạo nâng
cao tay nghề cho người lao động hoặc cử lao động đi học tại các trường dạy
nghề. Cử các cán bộ có khả năng đi học tập ở nước ngoài.
- Lập quỹ khen thưởng, quỹ bảo hiểm xã hội để khuyến khích người
lao động nâng cao tay nghề, phát huy sáng tạo trong sản xuất… Tổ chức các
chuyến đi du lịch hoặc các buổi liên hoan nhằm xây dựng tinh thần đoàn kết
trong doanh nghiệp.
- Lập quỹ phúc lợi để hỗ trợ người lao động khi gặp khó khăn giúp
họ yên tâm hơn trong công việc. Trợ cấp cho người ốm đau, trợ cấp cho phụ nữ
có thai, trợ cấp cho những gia đình có hoàn cảnh khó khăn.
1.2.2.4 Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm:
Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm là hoạt động đầu tư nghiên cứu và
triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm, phát triển sản phẩm mới. Hoạt động này cũng đòi hỏi vốn lớn và có độ rủi
15
ro cao. Hiện nay khả năng đầu tư cho hoạt đông của các doanh nghiệp Việt Nam
còn khá khiêm tốn do các doanh nghiệp trong nước còn quá phụ thuộc vào các
công nghệ có sẵn từ nước ngoài và không mấy mặn mà với việc đầu tư phát triển

công nghệ của riêng mình.
Nghiên cứu và phát triển (R&D) là hoạt động không thể thiếu mang tính
tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Có thể nói R&D là sự đảm bảo cho sự tồn
tại và không bị lạc hậu của tất cả các doanh nghiệp. Đổi mới và nâng cao hiệu
quả hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ được đánh giá là tiền đề
phát huy năng lực nội tại và nâng cao sức cạnh tranh. Cùng với đà phát triển của
kinh tế đất nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ trọng chi cho hoạt động này
sẽ ngày càng tăng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp.
Một số nội dung trong hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm:
- Đầu tư vào hệ thống máy móc thiết bị nhà xưởng cơ sở hạ tầng cho
việc nghiên cứu ứng dụng và triển khai KHCN.
- Đầu tư cho công tác phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển
công nghệ.
- Đầu tư xây dựng tổ chức hệ thống thông tin quản lý phục vụ hoạt
động KH&CN.
- Đầu tư thuê mua bản quyền phát minh, bằng sáng chế.
1.2.2.5 Đầu tư cho hoạt động marketing:
Đầu tư cho hoạt động marketing là đầu tư cho quảng cáo, xúc tiến thương
mại, xây dựng thương hiệu… hoạt động marketing là một trong những hoạt
động quan trọng của doanh nghiệp, hoạt động này giúp doanh nghiệp đến gần
hơn với người tiêu dùng, làm cho người tiêu dùng biết đến các sản phẩm và dịch
vụ của doanh nghiệp.
“Chức năng của Marketing trong kinh doanh là xác định những nhu cầu
và ước muốn chưa được đáp ứng, vạch rõ và đo lường quy mô và khả năng sinh
lợi tiềm tàng, xác định những thị trường mục tiêu nào mà tổ chức có thể phục vụ
tốt nhất, quyết định làm ra các sản phẩm dịch vụ và chương trình thích hợp để
16
cung ứng cho những thị trường đã lựa chọn đó, và kêu gọi mọi người trong tổ
chức suy nghĩ và phục vụ cho khách hàng đó. ” – Philip Kotler.
Trong thời buổi kinh tế thị trường khi mà các doanh nghiệp đặt mục tiêu

tối đa hóa lợi nhuận lên hàng đầu thì vai trò của hoạt động marketing lại càng
quan trọng. thực hiện tốt hoạt động marketing giúp cho doanh nghiệp đưa ra
quyết định nên sản xuất ra những mặt hàng gì hay đưa ra những dịch vụ nào đáp
ứng được thị hiếu của người tiêu dùng. Chính vì vậy mà đầu tư cho hoạt động
marketing cần chiếm một tỷ trọng hợp lý trong tổng vốn đầu tư của doanh
nghiệp.
Đầu tư cho hoạt động marketing bao gồm các công việc:
- Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu thị trường, điều tra thị hiếu người
tiêu dùng.
- Đầu tư cho hoạt động quảng cáo, quảng bá sản phẩm, dịch vụ.
- Đầu tư cho hoạt động xúc tiến hỗ trợ bán hàng.
- Đầu tư cho công tác phát triển nguồn nhân lực marketing, các
chuyên viên, các nhân viên bán hàng…
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp:
Bản chất của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh chính là
hoạt động đầu tư phát triển. Việc chi dùng trong hiện tại để tiến hành các hoạt
động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết
bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo
thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Doanh nghiệp có phát triển bền vững
thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường sẽ được nâng cao.
Hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp chịu sự
tác động của nhiều nhân tố trong đó có những nhân tố chủ yếu sau:
1.2.3.1. Sự phát triển của KHCN:
Khoa học công nghệ là một trong bốn nguồn lực quyết định sự phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Ngày nay khi mà nhân loại bước vào kỷ
17
nguyên tri thức thì khoa học công nghệ càng khẳng định hơn vai trò quyết định
đến quá trình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và các doanh
nghiệp nói riêng.

Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay, sự phát triển không ngừng
của khoa học công nghệ đã góp phần rất lớn vào việc cải thiện nền công nghiệp
lạc hậu của nước ta. Nhiều công nghệ tiên tiến hiện đại đã được chuyển giao
vào nước ta trong các lĩnh vực như khai thác dầu khí, thông tin viễn thông, xây
dựng…tạo nền tảng cho các ngành công nghiệp chủ chốt của nước ta.
Trước sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ, việc trang bị cho mình
những máy móc, thiết bị tối tân là bước đi đúng đắn của các doanh nghiệp hiện
nay nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Công nghệ hiện đại giúp cho sản
phẩm tạo ra có chất lượng cao, giá thành sản phẩm giảm do tiết kiệm được
năng lượng và nguyện vật liệu.
1.2.3.2. Sự hội nhập kinh tế quốc tế:
Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào
ngày 11/1/2007 và trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Việc gia nhập
WTO mang đến cho các doanh nghiệp trong nước nhiều cơ hội và thách thức
phát triển. Nhưng cả cơ hội và thách thức đều
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế - thương mại với trên 200 nước
và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu hàng đầu trên thế
giới về một số sản phẩm như gạo, cà phê, thủy sản, dệt may, v.v Nhiều mặt
hàng xuất khẩu khác cũng đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian qua
như sản phẩm gỗ, máy vi tính và sản phẩm điện tử, dây cáp điện, chất dẻo, v.v
Cơ hội của chúng ta là được mở rộng quan hệ thương mại với nhiều quốc
gia trên thế giới từ đó các doanh nghiệp trong nước tìm thấy được thêm các thị
trường mới cho sản phẩm của mình. Thách thức khi hội nhập kinh tế quốc tế là
có nhiều tập đoàn, nhiều doanh nghiệp sẽ gia nhập thị trường trong nước và
cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp trong nước. Nhờ hội nhập kinh tế quốc
tế mà các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội được thử sức mình trong cuộc cạnh
18
tranh toàn cầu và điều này góp phần làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những chiến lược đầu tư đúng đắn.
1.2.3.3. Lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai

Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà chủ đầu tư mong muốn khi đưa
ra quyết định đầu tư. Theo lý thuyết của Keynes thì lợi nhuận kỳ vọng là 1
trong 2 nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Mọi quyết
định đầu tư nói chung và đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh nói riêng đều căn
cứ trên mối quan hệ so sánh giữa lợi ích thu được với chi phí bỏ ra để tiến hành
hoạt động đầu tư đó. Nếu lợi nhuận kỳ vọng lớn, nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn để
kinh doanh. Lợi nhuận cao sẽ kích thích nhu cầu đầu tư và ngược lại nếu lợi
nhuận kỳ vọng thấp và nhỏ hơn tiền lãi khi gửi khoản tiền đó vào ngân hàng thì
nhà đầu tư cũng như các chủ doanh nghiệp sẽ không bỏ vốn mà thay vào đó là
gửi tiền vào ngân hàng.
1.2.3.4 Lãi suất tiền vay
Vốn là 1 yếu tố quan trọng trong hoạt động đầu tư. Do đó với tư cách là
chi phí sử dụng vốn (hay giá của vốn) thì lãi suất ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu
tài chính của dự án. Hiện nay nguồn vốn đi vay từ các ngân hàng, các tổ chức
tín dụng chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu vốn của các doanh nghiệp. lãi suất phản
ánh giá của khoản tiền vay mượn đó. Nếu giá của vốn cao hơn tỷ suất lợi nhuận
bình quân của thì nhà đầu tư sẽ thu hẹp quy mô đầu tư và ngược lại. Lãi suất
được hình thành trên cơ sở thị trường, tức là do quan hệ cung cầu về vốn trên
thị trường quyết định.
Lãi suất gồm có lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế:
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất trên các món vay tính bằng tiền.
Lãi suất thực tế là lãi suất đã được điều chỉnh theo lạm phát và được tính
bằng cách lấy lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát. Lãi suất thực tế là lãi
suất tính theo giá trị thực tế của hàng hoá và dịch vụ, phản ánh chi phí thực sự
của việc vay tiền.
19
1.2.3.5. Các nguồn lực của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp muốn tồn tại được cần có 4 nguồn lực cơ bản đó là:
vốn, tài nguyên, công nghệ và nhân lực. Việc sử dụng hợp lý, kết hợp hài hòa
các nguồn lực này sẽ tạo cho doanh nghiệp những bước phát triển bền vững.

Trong đó, nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sống còn đến sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp.
1.2.4 Các chỉ tiêu phản ánh kết quả của hoạt động đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.4.1 Chất lượng sản phẩm:
Trong thời buổi cạnh tranh trên quy mô toàn cầu như hiện nay, khi mà
hàng hóa và dịch vụ được phân phối bởi vô số nhà cung cấp. Hàng hóa và dịch
vụ quá phong phú và đa dạng khiến cho người tiêu dùng gặp khó khăn trong
việc lựa chọn giữa các nhà cung cấp. Vì vậy yếu tố hàng đầu tác động đến quyết
định của người tiêu dùng khi chọn một sản phẩm là chất lượng của sản phẩm đó.
Người tiêu dùng luôn có xu hướng quay lại với sản phẩm mà họ cảm thấy hài
lòng hơn là việc thử một sản phẩm mới mà không biết chất lượng sản phẩm của
nó như thế nào.
Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, với mục đích khác nhau nên có nhiều quan
điểm về chất lượng khác nhau. Tuy nhiên, có một định nghĩa về chất lượng được
thừa nhận ở phạm vi quốc tế, đó là định nghĩa của Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc
tế. Theo điều 3.1.1 của tiêu chuẩn ISO 9000:2000 định nghĩa chất lượng là:
“Mức độ của một tập hợp có đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu”. Chất lượng
đặc trưng cho khả năng thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy sản phẩm
nào không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì bị coi là kém chất lượng
cho dù trình độ công nghệ sản xuất ra có hiện đại đến đâu đi nữa.
Ta có thể thấy kết quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
được phản ánh rất rõ ràng qua chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản
phẩm tốt được tạo nên từ công nghệ sản xuất tốt, hiện đại, đội ngũ lao động kỹ
thuật tốt và có chuyên môn.
20
1.2.4.2 Khối lượng sản phẩm tiêu thụ:
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh
doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tiêu thụ
sản phẩm là thực hiện mục đích của sản xuất hàng hoá, là đưa sản phẩm từ

nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung
gian giữa một bên là sản xuất và phân phối và một bên là tiêu dùng.
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ là kết quả của quá trình tiêu thụ sản phẩm
được cụ thể hóa bằng các con số. Nó cho biết chính xác doanh nghiệp đã tiêu thụ
được bao nhiêu sản phẩm trong một tháng hay một năm… Từ những con số đó
chúng ta đem so sánh với khối lượng sản phẩm làm ra hay khối lượng sản phẩm
kỳ vọng có thể tiêu thụ được. Việc so sánh sẽ cho ta biết được kết quả của hoạt
động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài ra, việc so
sánh khối lượng sản phẩm tiêu thụ qua các năm còn phản ánh kết quả của hoạt
động đầu tư của năm trước có tốt hơn năm sau hay không để từ đó doanh nghiệp
có biện pháp điều chỉnh. Doanh nghiệp có khối lượng sản phẩm tiêu thụ cao là
doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt.
1.2.4.3 Thị phần thị trường gia tăng:
Thị phần hay tỷ lệ thâm nhập thị trường đươc hiểu là phần chiếm lĩnh thị
trường của doanh nghiệp đối với các đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực. thị
phần thị trường chỉ cho doanh nghiệp thấy sản phẩm của mình đáp ứng như thế
nào với nhu cầu của thị trường, phản ứng ra sao của người tiêu dùng.
Thị phần thị trường được tính như sau: Thị phần = doanh số bán hàng của
doanh nghiệp / Tổng doanh số của thị trường hay Thị phần = khối lượng sản
phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp / khối lượng sản phẩm tiêu thụ của thị trường.
Công thức:
Thị phần của = Q
DN
doanh nghiệp
trong đó:
Q
DN
: là khối lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp
21
Q : là khối lượng sản phẩm tiêu thụ của thị trường

Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thể hiện
thông qua chỉ tiêu thị phần. Thị phần của doanh nghiệp càng lớn, vị thế của
doanh nghiệp cành cao, càng vững chắc.
1.2.4.4. Doanh thu tăng thêm:
Doanh thu của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền sẽ thu được do tiêu thụ sản
phẩm, cung cấp dịch vụ, hoạt động tài chính và các hoạt động khác của doanh
nghiệp. Doanh thu càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp tiêu thụ được càng nhiều sản
phẩm, hàng hóa trên thị trường. Trong kinh tế học, doanh thu thường được xác
định bằng giá bán nhân với sản lượng.
Công thức: TR = P*Q
Trong đó: TR là tổng doanh thu
P là giá bán sản phẩm
Q là khối lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp
Doanh thu tăng thêm được tính là sự chênh lệch giữa doanh thu năm tính
toán và doanh thu năm trước đó. Nó cho biết sự gia tăng tuyệt đối giữa doanh
thu của doanh nghiệp qua các năm.
Ngoài ra ta còn có thêm định nghĩa về doanh thu biên đó là phần doanh
thu có thêm nhờ sản xuất thêm được một đơn vị sản phẩm. Nó có thể diễn đạt
bằng tỷ lệ giữa mức thay đổi trong doanh thu với mức thay đổi trong sản lượng.
1.2.4.5 Lợi nhuận tăng thêm:
Lợi nhuận, trong kinh tế học, là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm
nhờ đầu tư sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi
phí cơ hội. Lợi nhuận là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí.
Công thức: π = TR-TC
Trong đó: π là lợi nhuận của doanh nghiệp
TR là tông doanh thu của doanh nghiệp
TC là tổng chi phí của doanh nghiệp
22
Ta có lợi nhuận bao gồm lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế. Lợi
nhuận trước thuế là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Lợi

nhuận sau thuế là phần chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập
doanh nghiệp.
Lợi nhuận là chỉ là một chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh
nghiệp. sự gia tăng của lợi nhuận qua các năm phản ánh hoặc là sự gia tăng của
tổng doanh thu trong khi chi phí không đổi hoặc là chi phí sản xuất giảm trong
khi tổng doanh thu không đổi. Điều này làm căn cứ cho doanh nghiệp có chiến
lược thay đổi cơ cấu đầu tư của mình.
1.2.4.6 Năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng
số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời
gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao
động, nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao
động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng
suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và
ngược lại.
Giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Năng suất lao
động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
• Trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người công nhân
• Mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ
• Mức độ ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ
vào sản xuất
• Trình độ tổ chức quản lý
• Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất
• Các điều kiện tự nhiên.
Muốn tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.
1.2.4.7. Trình độ lao động:
23
Trình độ lao động phản ánh kết quả kết quả của hoạt động đầu tư vào
nguồn nhân lực. Chỉ tiêu này được xác định bởi giá trị tuyệt đối tăng thêm (giảm

đi) của số lượng lao động được đào tạo chuyên môn qua các thời kỳ.
Để đánh giá được trình độ của người lao động, người ta chia công nhân
theo các cấp bậc. Có 7 bậc thợ và thợ bậc 7/7 được đánh giá cao nhất do họ có
tay nghề cũng như chuyên môn vững vàng nhất. Mức nâng cao trình độ nghề
nghiệp của người lao động được thể hiện ở chỉ tiêu bậc thợ bình quân thay đổi
sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư và mức thay đổi này tính trên một đơn vị
vốn đầu tư. Càng có nhiều lao động được qua đào tạo thì trình độ lao động càng
được nâng cao và hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực càng
cho thấy hiệu quả.
1.2.5 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
- Doanh thu tăng thêm so với tổng vốn đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh: là chỉ tiêu dùng để xác định mức doanh thu tăng thêm tính trên 1
đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ của doanh nghiệp. Tỷ suất này
càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của doanh nghiệp càng cao.
- Lợi nhuận tăng thêm so với tổng vốn đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh: hay còn gọi là tỷ suất lợi nhuận là chỉ tiêu cho biết khả năng sinh lãi
của một đơn vị tiền vốn bỏ ra khi đầu tư. Mặt khác nó phản ánh khả năng hoàn
vốn của một dự án, qua đó nó đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư. Tỷ suất này
càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của doanh nghiệp càng cao.
24
Chương 2 : Thực trạng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công
ty TNHH may nhân đạo Trí Tuệ trong giai đoạn 2006-2012
2.1 Giới thiệu chung về công ty TNHH may nhân đạo Trí Tuệ
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
- Tên gọi: Công ty TNHH May Nhân Đạo - Trí Tuệ.
- Địa chỉ: Số 5 - Cầu Diễn - Từ Liêm - Hà Nội.
- Số điện thoại: 043.7645704
- Fax: 043.7645704
- Email:

- Giám đốc: ông Nguyễn Xuân Vượng
- Ngành nghề kinh doanh chính của Công ty là :
Ngành nghề kinh doanh chính của công ty là sản xuất hàng may mặc xuất
khẩu. Trong quá trình hoạt động, công ty có thể bổ sung thêm ngành nghề kinh
doanh theo quy định của pháp luật, sau khi được hội đồng thành viên tán thành
và được cơ quan đăng ký kinh doanh chấp nhận đăng ký bổ sung ngành nghề
kinh doanh. Mục tiêu kinh doanh của công ty là đầu tư vốn nhàn rỗi vào kinh
doanh để tạo lợi nhuận hợp pháp cho các thành viên, giải quyết việc làm, tạo thu
nhập chính đáng cho người lao động và đóng góp một phần cho ngân sách Nhà
nước theo quy định. Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần
của Đảng, Nhà nước và của địa phương, góp phần tạo ra sản phẩm cho xã hội và
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác.
- Thành tích đạt được :
Công ty luôn là doanh nghiệp đi đầu của của huyện trong lĩnh vực sản
xuất hàng may mặc. Nhiều năm liền công ty đạt đucợ huân chương thi đua của
huyện. Sản phẩm của công ty đã đi đến nhiều quốc gia trên thế giới. Hơn thế
nữa công ty còn đi đầu trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao động trong
khu vực. Đặc biệt là công ty còn tạo điều kiện cho những người khuyết tật có cơ
hội được đi làm. Công ty đã giúp đỡ, đào tạo họ làm những công việc từ đơn
25

×