BÀI LÀM
PHẦN I: TRẢ LỜI CÂU HỎI.
I. Phân tích các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm cho người lao
động?
1. Khái niệm và tầm quan trọng của việc làm.
Trước khi đi phân tích các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm
cho người lao động thì cần phải hiểu khái niệm việc làm: Điều 55 Hiến pháp
năm 1992 quy định: “lao động là quyền và nghĩa vụ công dân. Nhà nước và
xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho NLĐ”. Theo đó, có việc
làm là quyền cơ bản của NLĐ nhưng đồng thời cũng là trách nhiệm, nghĩa vụ
của mỗi cá nhân NLĐ. Quan niệm này mở ra bước chuyển căn bản trong nhận
thức về việc làm và giải quyết việc làm đối với cả nhà nước và mỗi cá nhân.
Trên cơ sở đó cùng với việc tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế vào
hoàn cảnh Việt Nam, Điều 13 Bộ lao động đã quy định: “mọi hoạt động lao
động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là
việc làm”. Như vậy việc làm được cấu thành từ ba yếu tố: hoạt động lao động;
tạo ra thu nhập và tính hợp pháp.
Việc làm mang tầm quan trọng rất lớn trên các bình diện khác: bình
diện kinh tế – xã hội; bình diện chính trị – pháp lý; bình diện quốc gia – quốc
tế. Chính vì thế hỗ trợ và giải quyết việc làm là một vấn đề được nhà nước
quan tâm hàng đầu. Để giải quyết việc làm cho người lao động, nhà nước có
thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Có những bện pháp trực tiếp giải
quyết việc làm cho NLĐ nhưng cũng có căn những biện pháp chỉ mang tính
chất hỗ trợ cho việc giải quyết việc làm. Các biện pháp mang tính hỗ trợ cho
giải quyết việc làm như khuyến khích đầu tư, lập các chương trình việc làm,
phát triển hệ thống dịch vụ việc làm, dạy nghề gắn với việc làm, thành lập các
quỹ giải quyết việc làm, cho vay từ các quỹ chuyên dụng....các biện pháp trực
tiếp giải quyết việc làm như đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng, khuyến khích tuyển dụng lao động và tự do hợp đồng. Chúng
ta hãy cùng đi sâu phân tích các biện pháp trên
2. Các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm.
2.1. Chương trình việc làm.
Chương trình việc làm là một trong những biện pháp của Chính phủ
nhằm thực hiện vấn đề đảm bảo việc làm, hạn chế thất nghiệp. Theo điều 15
1
BLLĐ có quy định, hàng năm, chính phủ có trách nhiệm lập chương trình
quốc gia về việc làm trình quốc hội quyết định; UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương lập chương trình giải quyết việc làm ở địa phương trình hội
đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Việc lập chương trình việc làm nhằm
đảm bảo cho mọi NLĐ có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc, tiến tới có
việc làm đầy đủ, việc làm có hiệu quả, thông qua đó giải quyết hợp lý mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm cho NLĐ, góp phần
thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội.
Nội dung chương trình gồm mục tiêu, chỉ tiêu việc làm mới, các nội
dung hoạt động, thời gian, các giải pháp, nguồn tài chính, tổ chức thực hiện
và quản lý chương trình.
Bộ Lao động – thương binh và xã hội chủ trì phối hợp với Bộ kế
hoạch và đầu tư, Bộ tài chính trình Thủ tướng chính phủ ban hành cơ chế
quản lý điều hành hoạt động quỹ quốc gia về việc làm. Bộ kế hoạch và đầu tư
chủ trì phối hợp với Bộ tài chính , Bộ lao động – thương binh và xã hội lập kế
hoạch các nguồn tài chính và năm năm cho chương trình quốc gia về việc làm
(Điều 2 NĐ của chính phủ số 39/2003/NĐ-CP). Đối với chương trình giải
quyết việc làm của địa phương Điều 4 NĐ số 39/2003/NĐ-CP có quy định
“Hằng năm, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng
Chương trình và Quỹ giải quyết việc làm của địa phương trình Hội đồng nhân
dân cùng cấp quyết định; tổ chức thực hiện quyết định đó và báo cáo kết quả
về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.”
Mục tiêu cụ thể của chương trình là định ra chỉ tiêu tạo ra chỗ làm
việc mới hàng năm, chỉ tiêu giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và nâng tỉ lệ
thời gian sử dụng lao động ở nông thôn. Nguồn lực dành cho chương trình là
số kinh phí từ ngân sách nhà nước và các nguồn khác được dùng cho mục tiêu
giải quyết việc làm, được thực hện qua cơ chế tài chính quỹ quốc gia về việc
làm. Chương trình việc làm được triển khai theo 2 hướng cơ bản sau:
− Tạo việc làm mới thông qua việc thúc đẩy phát triển kinh tế, kết hợp
hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm. Đây là hướng xác
định cơ bản và quan trọng nhất.
− Duy trì, bảo đảm việc làm cho NLĐ, chống sa thải nhân công hàng loạt.
Từng bước xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
2.2. Quỹ giải quyết việc làm.
2
Theo quy định pháp luật hiện nay có 3 loại quỹ việc làm:
Thứ nhất, quỹ quốc gia về việc làm là biện pháp pháp lí quan trọng
của nhà nước trong việc triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia
về việc làm. Nguồn quỹ bao gồm: ngân sách nhà nước, các nguồn hỗ trợ khác.
Quỹ quốc gia về việc làm được sử dụng vào các mục đích: cho vay vốn theo
dự án nhỏ để giải quyết việc làm cho một số đối tượng, cho các doanh nghiệp
vay để hạn chế lao động mất việc làm và nhận người thất nghiệp, hỗ trợ để
củng cố và phát triển hệ thống tổ chức giới thiệu việc làm và cá hoạt động
phát triển thị trường lao động.
Thứ hai, quỹ giải quyết việc làm của địa phương được hình thành từ
các nguồn: ngân sách địa phương do hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và ngoài nước, các nguồn hỗ trợ khác. Quỹ này được sử
dụng theo đúng mục tiêu của chương trình giải quyết việc làm của địa
phương.
Thứ ba, quỹ việc làm cho người tàn tật được hình thành từ các
nguồn: ngân sách địa phương, quỹ quốc gia về việc làm, khoản thu từ các
doanh nghiệp nộp hàng tháng do không nhận đủ số lao động tàn tật theo quy
định, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trợ giúp và các nguồn thu
khác. Quỹ việc làm cho người tàn tật được sử dụng vào mục đích: cấp để hỗ
trợ hoặc cho vay với lãi suất thấp nhất cho một số cơ sở, doanh nghiệp, cá
nhân sử dụng lao động tàn tật; các hoạt động phục hồi chức năng lao động
cho người tàn tật.
2.3. Tổ chức giới thiệu việc làm.
Việc thành lập các tổ chức giới thiệu việc làm được coi là một trong
những biện pháp nhằm hỗ trợ giải quyết việc làm cho NLĐ. Thông qua hoạt
động của các tổ chức này mà các quan hệ lao động có điều kiện và khả năng
được hình thành. Tổ chức giới thiệu việc làm theo nghị định của chính phủ số
39/2003/NĐ-CP bao gồm các trung tâm giới thiệu việc làm và các doanh
nghiệp chuyên giới thiệu việc làm. Trung tâm giới thiệu việc làm do cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị xã hội thành lập là đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm
bảo một phần chi phí hoạt động. Các trung tâm này được nhà nước, các tổ
chức chính trị xã hội giao chỉ tiêu biên chế cán bộ, được hỗ trợ đầu tư từ
nguồn ngân sách nhà nước về trang thiết bị, cơ sở vật chất tài chính và được
miễn hoặc giảm thuế theo quy định của pháp luật. Đối với các doanh nghiệp
đảm chuyên hoạt động về giới thiệu việc làm phải đảm bảo đầy đủ các điều
3
kiện theo quy định của pháp luật và có giấy phép hoạt động giới thiệu việc
làm (quy định cụ thể NĐ 19/2005/NĐ-CP ngày 28/02/2005 của Chính phủ).
Theo Điều 18 BLLĐ thì “Tổ chức dịch vụ việc làm được thành lập
theo quy định của pháp luật có nhiệm vụ tư vấn, giới thiệu, cung ứng và giúp
tuyển lao động, thu thập và cung ứng thông tin về thị trường lao động” và có
quyền dạy nghề gắn với tạo việc làm.
2.4. Dạy nghề gắn với việc làm.
Dạy nghề và việc làm có mối quan hệ mật thiết với nhau. Có nghề
nghiệp (tay nghề) là điều kiện tiên quyết đối với NLĐ để có thể nhanh chóng
tìm được việc làm và có chỗ làm ổn định. Trước đây, do quan niệm đào tạo
nghề chỉ là vấn đề giáo dục và đào tạo nhưng hiện nay nhiệm vụ này đã được
chuyển giao cho Bộ lao động thương binh và xã hội nhằm thực hiện sự gắn
kết liên tưởng vấn đề đào tạo nghề với nhu cầu của sản xuất, của thị trường
lao động nhằm giải quyết việc làm. Chính phủ cũng đã thành lập tổng cục dạy
nghề thuộc bộ lao động – thương binh và xã hội.
Theo Luật dạy nghề 2006, các trình độ đào tạo trong dạy nghề bao
gồm: trình độ sơ cấp; trung cấp và cao đẳng. Trung tâm dạy nghề, trường
trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề phải được thành lập dưới các dạng
công lập, tư thục và có vốn đầu tư nước ngoài theo hình thức liên doanh hoặc
100% vốn nước ngoài. Có hình thức dạy nghề chính quy và dạy nghề thường
xuyên. Nhà nước khuyến khích, tạo điện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân
trong nước và nước ngoài đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở dạy nghề đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mục tiêu của dạy nghề là: đào
tạo nhân lực kĩ thuật trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề
tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, có sức
khỏe nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng
tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
2.5. Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài.
Đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài được coi
là một trong những hoạt động quan trọng nhằm giải quyết việc làm, tạo thu
nhập và nâng cao trình độ tay nghề, tiếp cận công nghệ tiên tiến cho NLĐ
4
thông qua đó góp phần phát triển nguồn nhân lực.
Năm 2006, Quốc Hội đã ban hành luật người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, theo đó công dân Việt Nam đủ 18 tuổi
trở lên, tự nguyện đi làm ở nước ngoài, có đủ sức khỏe, đáp ứng yêu cầu về
trình độ ngoại ngữ, chuyên môn, kĩ thuật tay nghề theo yêu cầu của nước tiếp
nhận, không thuộc trường hợp cấm xuất nhập cảnh theo quy định của pháp
luật Việt Nam thì được đi làm việc ở nước ngoài. NLĐ Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo các hình thức: hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài với doanh nghiệp dịch vụ với tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động
trong lĩnh vực này; hợp đồng với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu ở nước
ngoài hoặc tổ chức cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa lao động đi làm việc
ở nước ngoài; hợp đồng theo hình thức thực tập, nâng cao tay nghề và HĐLĐ
do cá nhân NLĐ trực tiếp kí với NSDLĐ nước ngoài.
Hoạt động dịch vụ đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài là ngành nghề
kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này phải có
vốn pháp định theo quy định của chính phủ và được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động dịch vụ đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài. Các doanh nghiệp trúng thầu nhận thầu đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngoài được đưa lao động đi làm việc tại các công trình, dự án mà doanh
nghiệp trúng thầu, nhận thầu ở nước ngoài. Tổ chức cá nhân được đưa NLĐ
đi làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh do họ thành lập. Tổ chức sự
nghiệp của nhà nước đưa NLĐ đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trong
trường hợp thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, thực hiện
thỏa thuận quốc tế do bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ kí với
bên nước ngoài và các trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ lao động – thương
binh và xã hội quyết định. Hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài của
tổ chức sự nghiệp là hoạt động phi lợi nhuận. Để được đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng với doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức cá nhân
đầu tư ra nước ngoài. NLĐ đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài được hưởng
tiền lương, tiền công, thu nhập khác, các chế độ khám bệnh, chữa bệnh, bảo
hiểm xã hội và các quyền lợi khác quy định trong các hợp đồng và điều ước
quốc tế, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia.
Trong thời gian qua việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài trong thời hạn ở nước ngoài đã trở thành ngành kinh tế đối
ngoại đặc thù, có những đóng góp quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế quốc
5