Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

kích cầu đầu tư ở Việt Nam: Lý thuyết thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (918.41 KB, 71 trang )

MỤC LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
Kích cầu là một khái niệm phổ biến trong đời sống, hầu như mỗi chúng ta đều
đã từng nghe đến, nhưng lại ít người hiểu biết thật sâu sắc về vấn đề này. Kích
cầu nói chung và kích cầu đầu tư nói riêng là hoạt động rất quan trọng, nhất là
đối với các nước đang phát triển bời nó giúp thu hút nguồn vốn, tạo ra những cú
hích giúp các nước đang phát triển thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của nghèo
đói. Chính vì vậy, nghiên cứu về hoạt động kích cầu đầu tư có vai trò rất quan
trọng giúp ta vận dụng tốt các công cụ kinh tế để đưa ra các quyết định nhằm tối
đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa rủi ro gây ra từ các gói kích cầu.
Nhóm thảo luận chúng em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Từ Quang Phương đã
theo sát và giúp đỡ nhóm hoàn thành chủ đề này.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ
I. Đầu tư và kích cầu đầu tư
1. Đầu tư
1.1. Khái niệm
Đầu tư là quá trình sử dụng sử dụng phối hợp các nguồn lực trong một
khoảng thời gian xác định nhằm đạt được kết quả hoặc tập hợp các mục tiêu xác
định trong điều kiện kinh tế xã hội - xác định.
Nguồn lực phải hi sinh đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ.
Những kết quả đạt được có thể là sự gia tăng thêm về giá trị các tài sản tài
chính, tăng thêm về năng lực sản xuất, năng lực phục vụ của tài sản vật chất, tài sản
trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn
trong nền sản xuất xã hội.
1.2. Vai trò của hoạt động đầu tư
Đầu tư là con đường duy nhất để duy trì và tạo mới cở vật chất kĩ thuật của
nền kinh tế, làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế.
Trên góc độ vi mô, đầu tư là một bộ phận trong hoạt động sản xuất kinh


doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới, duy trì hoạt động của cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện có, và vì thế, là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh dịch
vụ của doanh nghiệp.
2. Cầu đầu tư
2
2.1. Khái niệm
Cầu đầu tư là tất cả nhu cầu của chính phủ và doanh nghiệp về nhà xưởng,
hàng hóa vật tư, máy móc thiết bị, dịch vụ, các nguồn tài chính… để duy trì hay mở
rộng sản xuất của doanh nghiệp đó trong một thời gian nhất định.
2.2. Các nhân tố tác động đến cầu đầu tư
Trong hoạt động đầu tư có rất nhiều chủ thể tham gia như nhà nước, doanh
nghiệp và các cá nhân với các mục đích và quy mô khác nhau cấu thành tổng cầu
về đầu tư của nền kinh tế. Do đó, ta cần xem xét kỹ lưỡng các yếu tố tác động đến
tổng cầu đầu tư, xác định ảnh hưởng của các yếu tố này tới hoạt động đầu tư như
thế nào để đưa ra các chính sách kích cầu phù hợp và đem lại hiệu quả mong muốn
cho nhà đầu tư.
2.2.1 Lợi nhuận kì vọng
2.2.1.1. Lí thuyết của Keynes:
- Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà chủ đầu tư mong muốn, hi vọng sẽ
thu được trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư. Theo lí thuyết của Keynes,
lợi nhuận kì vọng là 1 trong 2 nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết đầu tư của
doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận kì vọng lớn, nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn để kinh
doanh. Lợi nhuận cao sẽ kích thích nhu cầu đầu tư, ngược lại nếu lợi nhuận kì vọng
thấp và nhỏ hơn tiền lãi thu được khi gửi tiền vào các ngân hàng thì các nhà đầu tư
sẽ không bỏ tiền vào sản xuất kinh doanh mà thay vào đó, họ gửi tiền vào ngân
hàng.
- Mặt khác, theo ông thì hiệu quả biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỷ suất đầu
tư của số tiền đầu tư mới. Do đó vốn đầu tư càng tăng thì hiệu quả biên của vốn
giảm dần. Điều này có thể giải thích do các nguyên nhân sau:
Trước hết, khi tăng chi tiêu đầu tư, nhu cầu vốn đầu tư sẽ tăng. Cầu về vốn

tăng dẫn đến sự gia tăng của lãi suất cho vay (giá của đồng vốn). Nếu các yếu tố
khác không đổi thì khi đó, lợi nhuận giảm nên tỷ suất lợi nhuận biên giảm.
Thứ hai, xuất phát từ phương diện cung sản phẩm cho thị trường. Khi gia
tăng đầu tư và kết quả đầu tư đã đi vào hoạt động, phát huy kết quả trong thực tiễn
thì cung sản phẩm sẽ tăng, nghĩa là có nhiều sản phẩm được cung ứng vào nền kinh
tế. Cung tăng, giá sản phẩm sẽ giảm, chi phí sản xuất xem như ổn định, lúc đó tỷ
suất lợi nhuận vốn đầu tư giảm.
Thứ ba, xuất phát từ năng suất lao động. Khi gia tăng vốn đầu tư vào sản
xuất thì sự gia tăng về kĩ thuật, công nghệ, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho mỗi lao
động cũng giảm dần, nghĩa là khi lượng vốn còn ít thì mỗi sự gia tăng của 1 đơn vị
3
vốn sẽ làm cho năng suất lao động gia tăng nhiều hơn so với khi lượng vốn nhiều.
Năng suất lao động biên giảm dần dẫn đến lợi nhuận biên của vốn cũng giảm dần.
Thứ tư, khi quy mô vốn đầu tư tăng, hiệu quả biên của vốn giảm dần nên các nhà
đầu tư chỉ tiếp tục đầu tư cho tới khi hiệu quả biên của vốn còn lớn hơn mức lãi
suất vốn vay trên thị trường vốn. Khi hiệu quả biên của vốn thấp hơn lãi suất vốn
vay, nghĩa là lợi nhuận tăng thêm thấp hơn chi phí tăng thêm thì các nhà đầu tư sẽ
ngừng việc đưa thêm vốn vào mở rộng sản xuất. Điểm cân bằng là điểm hiệu quả
biên của vốn bằng với lãi suất cho vay của ngân hàng.
2.2.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kì vọng
+ Cung – cầu hàng hóa:
Việc xác định cung cầu hàng hóa cho sản phẩm của dự án có vai trò rất lớn
ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư.
Nghiên cứu cầu hàng hóa để đảm bảo sản phẩm bán ra có thể tiêu thụ được.
Cầu hàng hoá trước hết phụ thuộc vào sức mua chung của người dân, đó là tỷ lệ
tiêu dùng (C) chia cho thu nhập khả dụng của từng người dân (Yd) với tổng số dân
cư của địa phương hay của một quốc gia. Như vậy cầu hàng hóa phụ thuộc vào thu
nhập, mức sống, thói quen tiêu dùng và thị hiếu của người dân.
Cung hàng hóa là mức độ và khả năng đáp ứng nhu cầu trong 1 thời điểm
nhất định. Trước hết nó phụ thuộc vào khả năng sản xuất xã hội, tức là khả năng

cung ứng và kết hợp các yếu tố đầu vào của sản xuất như lao động, vốn, công
nghệ Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào hàng nhập khẩu và khả năng phân phối, lưu
thông hàng hóa.
+ Mức độ rủi ro:
Một trong những đặc điểm của đầu tư phát triển là thời kì đầu tư và thời gian
vận hành kết quả đầu tư kéo dài, nguồn vốn chi cho đầu tư khá lớn, nghĩa là kèm
theo với mức độ rủi ro cao. Từ đó nó ảnh hưởng lớn đến yếu tố lợi nhuận kì vọng.
Phạm vi ảnh hưởng của rủi ro là rất rộng, ví dụ như những thay đổi không lường
trước được của giá cả, công nghệ.
+ Các nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất:
Với mỗi dự án, khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư thì họ phải xác định
được các yêu tố đảm bảo cho quá trình thực hiện đầu tư cũng như vận hành khai
thác kết quả của dự án sau này, đó bao gồm các yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất. Cụ thể là:
4
- Các điều kiện về nguồn nhân lực: bao gồm cả về chất lượng và số lượng.
Khi xem xét nguồn nhân lực ta cần chú ý về khả năng dự báo tốc độ tăng dân số, về
tiền lương, về trình độ học vấn và văn hóa của họ…
- Nguồn vốn cho hoạt động đầu tư phát triển: đó chính là khả năng huy động
vốn trên thị trường tài chính và tỷ lệ phân bổ vốn cho hoạt động đầu tư.
- Về nguồn nguyên nhiên liệu đầu vào: phụ thuộc vào các chính sách bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên, tốc độ đền bù giải phóng mặt bằng, các mối liên hệ giữa các
ngành kinh tế….
- Về trình độ công nghệ: phụ thuộc vào các quy định về chuyển giao công
nghệ, khả năng nghiên cứu ứng dụng của đội ngũ khoa học trong nước.
Nếu là nhập công nghệ từ nước ngoài thì còn phụ thuộc vào trình độ của đội ngũ
cán bộ khoa học trong nước: họ tiếp thu, triển khai công nghệ đó như thế nào?
- Về cơ sở hạ tầng: phần lớn được đầu tư từ ngân sách nhà nước, do đó phụ
thuộc vào quy hoạch vùng và khả năng ngân sách.
+ Thuế:

Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, vừa là công cụ tái phân
phối của cải xã hội vừa là công cụ điều tiết phân bổ vốn giữa các ngành, vùng,
miền. Thuế ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp nên các ưu đãi về
thuế thường được sử dụng như 1 biện pháp khuyến khích đầu tư.
Vấn đề ở đây là phải xây dựng một chính sách thuế phù hợp. Bởi nếu ưu đãi
quá mức sẽ gây thất thu ngân sách và giảm đầu tư công cộng. Ngược lại, một mức
thuế cao sẽ giảm tính cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước cũng như làm
gia tăng tình trạng trốn thuế hay buôn lậu.
2.2.2. Lợi nhuận thực tế
Liên quan đến mối quan hệ giữa đầu tư và lơi nhuận thực tế ta có thể xem
xét đến “lý thuyết quỹ đầu tư nội bộ”,theo thuyết này thì qui mô đầu tư tỷ lệ thuận
với lợi nhuân thưc tế của doanh nghiệp thể hiện qua phương trình:
I = f (lợi nhuận thực tế)
Do đó, dự án nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận cao,
thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn có thể huy
động cho đầu tư bao gồm: Lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại
trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu. Lợi nhuận giữ lại và
tiền trích khấu hao tài sản là nguồn vốn nội bộ của doanh nghiệp, còn đi vay và
phát hành trái phiếu, bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn
5
thì phải trả nợ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp
có thể không trả được nợ và lâm vào phá sản. Do đó việc đi vay không phải là hấp
dẫn, trừ khi có ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái
phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn, còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư
chỉ được các doanh nghiệp áp dụng khi hiệu quả của dựa án đầu tư là rõ ràng và thu
nhập do dự án đem lại trong tương lai sẽ lớn hơn chi phí đã bỏ ra.
2.2.3. Lãi suất tiền vay
Vốn là một yếu tố quan trọng trong hoạt động đầu tư, do đó với tư cách là
chi phí sử dụng vốn (hay giá của vốn) thì lãi suất ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu tài
chính của dự án. Các nhà đầu tư thường vay tiền để đầu tư và lãi suất phản ánh giá

của khoản tiền vay mượn đó. Nếu giá vay tiền (giá của vốn) cao hơn tỉ suất lợi
nhuận bình quân thì nhà đầu tư sẽ cắt giảm quy mô đầu tư và ngược lại.
Cần phân biệt các loại lãi suất: lãi suất cơ bản (do ngân hàng nhà nước quy
định, các tổ chức tài chính không được cho vay với lãi suất lớn hơn 150% so với lãi
suất cơ bản); lãi suất cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng, cho vay đầu tư tài chính,
lãi suất tái cấp vốn, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu. Sự
chênh lệch giữa các loại lãi suất góp phần điều tiết sự phân bổ vốn trong nền kinh
tế.
Lãi suất danh nghĩa phụ thuộc trước hết vào cung – cầu vốn vay trên thị
trường. Cung vốn chính là tổng tiết kiệm quốc dân, được xác định bằng tổng thu
nhập quốc dân trừ đi tiêu dùng. Lãi suất được điều chỉnh để tạo ra sự điều tiết của
ngân hàng nhà nước thông qua chính sách tiền tệ như lãi suất cơ bản, nghiệp vụ thị
trường mở, lãi suất chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Lãi suất cũng chịu ảnh hưởng
của thâm hụt ngân sách nhà nước, nếu tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài thì
chính phủ phải đi vay để bù đắp thâm hụt, hơn nữa thâm hụt ngân sách còn làm cho
tiết kiệm quốc gia giảm khiến cho cung vốn vay giảm đẩy lái suất tăng lên làm cho
cầu đầu tư giảm xuống.
Lãi suất thực tế không chỉ phụ thuộc vào lãi suất danh nghĩa mà còn phụ
thuộc vào tỉ lệ lạm phát thông qua biểu thưc sau:
+Nếu tỷ lệ lạm phát π >=10% :
+Nếu tỷ lệ lạm phát π <=10%:
r =i – π
6
D
i
I
O
i0
i1
I0

I1
Hình 1: Lãi suất ền vay là biến nội sinh của hàm cầu đầu tư
Trong đó : r là lãi suất thực tế
i là lãi suất danh nghĩa
π là tỷ lệ lạm phát
Chủ đầu tư sẽ chỉ quyết định đầu tư khi tỷ suất hoàn vốn nội bộ(IRR) của dự
án lớn hơn lãi suất thực tế. Do đó khi lãi suất tăng sẽ có ít dự án đầu tư hơn, nhu
cầu đầu tư sẽ giảm.
Đồ thị:

Tuy nhiên lãi suất thấp hơn thì sẽ có nhiều dự án có IRR thấp được triển
khai, tức là các dự án ít hiệu quả, độ rủi ro cao. Khi đó nền kinh tế có thể tăng
trưởng nhanh do tổng đầu tư tăng nhưng kết cục có thể dẫn đến lạm phát cao, chính
phủ buộc phải thực thi các biện pháp kiểm soát tiền tệ, các dự án có hiệu quả thấp
sẽ bị lỗ nếu tiếp tục vay vốn, nhiều dự án sẽ bị phá sản, nền kinh tế lại rơi vào suy
thoái. Ngoài ra nếu lãi suất trong nước thấp hơn lãi suất thế giới thì có thể vốn đầu
tư trong nước sẽ chảy ra nước ngoài do đó không làm tăng tổng đầu tư trong nước.
2.2.4. Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia
Đây là một chỉ tiêu vĩ mô ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều yếu tố khác.
- Nhu cầu về sản lượng sản phẩm hay việc thay đổi sản lượng là nhân tố ảnh
hưởng đến việc tăng hay giảm qui mô vốn đầu tư. Ví dụ: Khi GDP tăng nhanh sẽ
làm tăng thu nhập của người dân, do đó vừa kích thích tiêu dùng lại vừa làm tăng
tiết kiệm. Khi tiêu dùng tăng thì tổng cầu cũng tăng; tiết kiệm tăng thì cung vốn
vay tăng làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư ( Do AD = C +I + G + NX - M)
7
0 t
Hình 2: Chu kì kinh doanh doanh
Hơn nữa, khi toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra tâm lí hướng về đầu
tư.
Quá trình này sẽ tạo ra hiệu ứng “số nhân”, tức là: một sự tăng thêm ban đầu

trong sản lượng sẽ làm đầu tư và sản lượng tiếp tục tăng thêm nhiều lần.
- Tốc độ tăng sản lượng và tốc độ tăng vốn đầu tư không giống nhau, vấn đề
này được đề cập trong lí thuyết gia tốc vốn đầu tư . Theo lý thuyết này, để sản xuất
ra một đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất định. Tương
quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn theo công thức:
x = K/Y
Trong đó:
K: vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu;
Y: sản lượng tại thời kì nghiên cứu;
x: hệ số gia tốc đầu tư;
Từ công thức thức trên ta suy ra: K = x * Y
Như vậy nếu x không đổi thì khi qui mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến nhu
cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Theo công thức trên thì sản lượng phải tăng
liên tục mới làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ hoặc không đổi so với thời kì trước.
Đặc điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư:
+ Phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu x không đổi trong kì kế
hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác.
+ Phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư. Khi kinh tế tăng
trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết kiệm
tăng cao và đầu tư tăng nhiều.
2.2.5. Chu kì kinh doanh
- Thế nào là chu kì kinh doanh? Đó là những dao động của nền kinh tế xung
quanh xu thế tăng trưởng dài hạn, bao gồm cả những thời kì tăng trưởng nhanh xen
kẽ với những thời kì suy thoái của nền kinh tế. Mỗi chu kì kinh doanh bao gồm 4
thời kì: suy thoái, khủng hoảng, phục hồi, hưng thịnh
- Ở mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức chi tiêu đầu
tư khác nhau.
8
Theo lý thuyết tính kinh tế của quy mô, trong những điều kiện nhất định thì
việc gia tăng quy mô sản lượng sản xuất ra có thể giúp cho chủ đầu tư tiết kiệm chi

phí sản xuất, gia tăng đầu tư.
Mặt khác, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh
tế mở rộng, nhu cầu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp
tư nhân gia tăng. Ngược lại, khi chu kì kinh doanh ở vào thời kì đi xuống, qui mô
nền kinh tế thu hẹp, nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và các doanh nghiệp tư nhân
thu hẹp lại.
Khi nền kinh tế đi xuống thì tổng đầu tư giảm, nhưng xét từng nhà đầu tư lại
chưa chắc đã giảm bởi vì không phải lúc nào sự tăng hay giảm chi tiêu của các
doanh nghiệp cũng thuận chiều với xu hướng lên xuống của chu kì kinh doanh của
toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì mặc dù nền kinh tế suy thoái nhưng các doanh nghiệp
vẫn đầu tư phát triển sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ khi sản phẩm cũ đã mất
chỗ đứng trên thị trường hoặc đã kết thúc một chu kì sống, hoặc cũng có một số
doanh nghiệp đầu tư vào các thị trường ngoài nước trong khi nền kinh tế của quốc
gia đang trên đà đi xuống để kéo dài chu kì sống của sản phẩm.
2.2.6. Đầu tư của Nhà nước
Trong tổng đầu tư xã hội bao gồm đầu tư của nhà nước và đầu tư của doanh
nghiệp.
Tổng đầu tư xã hội = Đầu tư nhà nước + Đầu tư tư nhân
Các dự án đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước không nhằm mục đích thu lợi
mà tác dụng trợ giúp, điều tiết, định hướng cho đầu tư của toàn xã hội.
Thông qua ngân sách, chính phủ có thể đầu tư phát triển mạng lưới
giao thông, viễn thông, cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp…điều này nhằm cải
thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư
vào các vùng, ngành theo quy hoạch của chính phủ, hướng nền kinh tế phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
9
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn từ ngân sách nhà nước,
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển
của doanh nghiệp nhà nước.
Đầu tư nhà nước chịu ảnh hưởng của các yếu tố như thâm hụt ngân sách, nợ

nước ngoài, các quy hoạch kinh tế xã hội, tỷ lệ thất thoát, tham nhũng, tốc độ giải
ngân vốn, các thủ tục khi sử dụng vốn nhà nước.
Do vậy, đầu tư nhà nước vừa là đòn bẩy kích thích đầu tư tăng cao góp phần
làm cho tổng đầu tư xã hội tăng nếu hoạt động đầu tư nhà nước có hiệu quả. Trong
trường hợp đầu tư nhà nước không đúng hướng,không phù hợp hoặc sử dụng vốn
nhà nước không hiệu quả sẽ gây hiệu ứng ngược lại cho đầu tư tư nhân và khiến
cho tổng đầu tư xã hội giảm sút, kéo nền kinh tế đi xuống.
2.2.7. Môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư là tổng hợp các yếu tố và điều kiện khách quan,chủ quan,
bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp hay các nhà đầu tư có mối liên hệ tương
tác lẫn nhau,có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của nhà đầu tư.
Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến
hiệu quả đầu tư. Có thể nói đến hai khái niệm:
- Môi trường cứng: bao gồm các yếu tố liên quan đến cơ sở hạ tầng kĩ thuật
phục vụ cho sự phát triển kinh tế, ví dụ như hệ thống thông tin liên lạc, cơ sở hạ
tầng giao thông,…
- Môi trường mềm: bao gồm hệ thống thủ tục hành chính, dịch vụ pháp lý
liên quan đến hoạt động đầu tư, hệ thống tài chính – ngân hàng…
Cơ sở hạ tầng ở đây mang tính tiên phong, định hướng, xúc tác cho các hoạt
động đầu tư, nó mở đường cho các hoạt động kinh tế xã hội phát triển. Vì vậy cần
chú ý đến công tác đầu tư chuẩn bị hệ thống cơ sở hạ tầng để thu hút các nhà đầu
tư, tạo cho họ sự tin cậy để bỏ vốn đầu tư.
2.2.8. Thuế thu nhập doanh nghiệp
Đây là loại thuế đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ phải
chia sẻ với chính phủ một phần lợi nhuận của mình, nhưng với họ đầu tư vẫn hợp
lí, vẫn tiếp tục tăng đầu tư khi giá thuê tư bản ( lãi suất thực tế của vay vốn tư bản
đầu tư) cao hơn chi phí tư bản và sẽ cắt giảm đầu tư khi giá thuê thấp hơn chi phí tư
bản.
10

Tuy loại thuế đánh vào lợi nhuận theo cách này không làm thay đổi động cơ
đầu tư nhưng lại cản trở đầu tư vì các doanh nghiệp phải trích khấu hao dựa trên chi
phí lịch sử, tức là phần trích khấu hao được tính trên cơ sở giá mua tư bản ban đầu.
Trong thời kì lạm phát, chi phí thay thế lớn hơn chi phí lịch sử nên thuế thu nhập
doanh nghiệp có xu hướng đánh giá quá cao lợi nhuận, thậm chí vẫn đánh thuế
ngay cả khi lợi nhuận của doanh nghiệp bằng không, từ đó làm cho việc chi tiêu
vào đầu tư trở nên ít hấp dẫn hơn, cản trở hoạt động đầu tư.
Bên cạnh đó thì việc miễn thuế đầu tư lại là một quy định trong luật thuế
nhằm mục tiêu khuyến khích đầu tư. Phần miễn thuế đầu tư sẽ làm giảm mức thuế
mà doanh nghiệp phải nộp khi chi tiêu cho đầu tư, họ sẽ dành khoản tiền đó để mua
hàng đầu tư mới, nói cách khác sẽ làm giảm chi phí đầu tư thực tế của mỗi đơn vị
tư bản. Như vậy, miễn thuế đầu tư làm giảm chi phí đầu tư và tăng chi tiêu đầu tư.
Thuế thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp
nên chính phủ cần đưa ra chính sách thuế hợp lý nhằm khuyến khích và nâng cao
hiệu quả của chi tiêu đầu tư nhưng vẫn phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước.
II. Kích cầu và kích cầu đầu tư:
1. Kích cầu:
1.1. Khái niệm:
Kích cầu là một loạt các biện pháp kinh tế nhằm duy trì và gia tăng tổng cầu
của một nước thông qua sự can thiệp của nhà nước.
1.2. Mục đích kích cầu:
Nếu không nhanh chóng ngăn chặn, thất nghiệp sẽ tiến đến ngưỡng nguy
hiểm đẩy suy giảm kinh tế vào vòng xoáy luẩn quẩn: Thất nghiệp dẫn đến suy giảm
thu nhập (thực tế và kì vọng), suy giảm thu nhập lại dẫn đến cắt giảm chi tiêu, gây
khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm dẫn đến việc doanh
nghiệp cần phải cắt giảm sản xuất và lao động, đẩy thất nghiệp tăng lên ở vòng tiếp
theo. Không những thế, thất nghiệp kéo dài còn kéo theo các vấn đề về xã hội như
trộm cắp, ma túy, mại dâm,…
Do vậy, mục đích của gói kích cầu là tạo thêm cầu để đối ứng với năng lực

sản xuất hiện tại của nền kinh tế trong thời kì suy thoái, tránh tình trạng dư thừa
năng lực sản xuất ở mức quá cao gây lãng phí nguồn lực. Qua đó giải quyết các nhu
cầu về việc làm, hạn chế thất nghiệp gia tăng trong nền kinh tế.
1.3. Nguyên tắc cơ bản để thực hiện kích cầu:
11
Một gói kích cầu dù có chi phí rất cao, nhưng nếu thiết kế không tốt sẽ
không “kích thích” được nền kinh tế. Điều này đặc biệt đúng nếu gói kích cầu
không tuân theo các nguyên tắc cơ bản của kinh tế học mà để đáp ứng các yêu cầu
về chính trị hoặc theo các nhóm lợi ích. Nhiều nhà kinh tế cho rằng để một gói kích
cầu hiệu quả thì phải đảm bảo ít nhất 3 điều kiện: Kịp thời, đúng đối tượng và ngắn
hạn.
12
Kích cầu phải kịp thời
Kịp thời không chỉ là việc Chính phủ phải hành động nhanh chóng mà
những biện pháp đưa ra còn phải có hiệu ứng ngay, tức là làm tăng chi tiêu của nền
kinh tế.
Các chính sách mất quá nhiều thời gian để thực hiện sẽ không có tác dụng và
gói kích cầu lúc đó lại có thể gây tác dụng xấu do có khả năng làm hun nóng nền
kinh tế dẫn đến lạm phát và những mất cân đối vĩ mô lớn. Các chương trình đầu tư,
dự án đầu tư có tốc độ giải ngân chậm không phải là những công cụ kích cầu tốt.
Điều này là bởi khi tổng cầu sụt giảm, các biện pháp này lại không có tác động gì
trong khi lẽ ra phải tăng tổng cầu lên nhiều nhất, do đó không thể ngăn chặn các tác
động tiêu cực của suy thoái ngay khi điễn ra.
Kích cầu phải đúng đối tượng
Mức độ đúng đối tượng của gói kích cầu của Chính phủ phụ thuộc vào:
- Mức độ chi tiêu của các đối tượng nhận được thu nhập nhờ có gói kích cầu
thông qua tác động lan tỏa diễn ra trong nhiều vòng.
- Mức độ “rò rỉ” hàng ngoại nhập của các chi tiêu đó trong mỗi vòng của tác
động lan tỏa.
Gói kích cầu có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào xu hướng chi

tiêu và đầu tư của các đối tượng mà gói kích cầu nhắm đến. Những biện pháp kích
cầu đúng đối tượng là những biện pháp nhắm tới các đối tượng sẽ chi tiêu hầu như
toàn bộ lượng kích cầu dành cho họ.
Mục tiêu của gói kích cầu là làm tăng cầu, nên chìa khóa để thực hiện điều
này là cấp tiền cho những người (có thể là cá nhân, doanh nghiệp hay chính quyền)
sẽ sử dụng ngay những đồng tiền này, và qua đó đưa thêm tiền vào nền kinh tế.
Tiền kích cầu phải được sử dụng để khuyến khích các nhóm đối tượng này tiến
hành các khoản chi tiêu mới, hoặc hạn chế việc các nhóm này cắt giảm chi tiêu.
Để việc kích cầu có hiệu quả thì gói kích cầu phải nhắm vào những đối
tượng sao cho một đồng tiền chi ra có hiệu ứng kích thích tiêu dùng và đầu tư cao
nhất.
Theo một số nghiên cứu trên thế giới thì hiệu ứng cao nhất là dành cho bảo
hiểm thất nghiệp. Các nhóm khác nhau trong xã hội sẽ có xu hướng tiêu dùng cận
biên khác nhau. Những người có thu nhập cao, thì chỉ có một phần nhỏ khoản
hoàn/miễn thuế (hoặc khoản tiền trợ cấp) mà họ nhận sẽ được chi tiêu, trong khi
13
những người có thu nhập vừa và thấp sẽ có nhu cầu chi tiêu cao hơn tính trên khoản
hoàn thuế.
Theo một báo cáo nghiên cứu của Zandi (2004) đối với gói kích
cầu năm 2001 của Mỹ thì hiệu quả của gói kích cầu cao nhất
chính là trợ cấp thất nghiệp (tức là hướng tới nhóm người dễ bị
tổn thương nhất do suy thoái). Một đô la kích cầu tạo ra được
1,73 đô la cầu tiêu dùng. Tiếp đó là các biện pháp khác như miễn
giảm thu ngân sách cho các địa phương, giảm thuế suất.
Mặc dù cũng là kích cầu, nhưng các loại thuế khác nhau có mức độ
tác dụng khác nhau trong việc kích cầu. Nhìn chung, việc giảm thuế
đối các người dân có tác dụng kích cầu tốt hơn giảm thuế cho doanh
nghiệp. Và việc giảm thuế cho lĩnh vực bất động sản thì hoàn toàn
không có tác dụng kích cầu (xem bảng).
Hiệu ứng số nhân chính là lý do tại sao không phải chính sách tài

khóa (kích cầu) nào cũng có tác dụng như nhau. Một số chính sách sẽ có tác
dụng/hiệu quả hơn các chính sách khác trong việc kích thích nền kinh tế.
Mặt khác, gói kích cầu chỉ thực sự hiệu quả nếu như chi tiêu gia tăng của
người dân và Nhà nước hướng đến hàng hóa và dịch vụ nội địa. Đối với Việt Nam,
nền kinh tế có tỷ trọng nhập khẩu chiếm gần 75% GDP, chúng ta phải hết sức thận
trọng khi đưa ra các biện pháp kích cầu để tránh việc kích thích tiêu dùng hàng
ngoại nhập. Các đề xuất giảm thuế nhập khẩu một số mặt hàng như linh kiện ô tô,
không phải là những chính sách kích cầu đúng đối tượng.
Kích cầu chỉ trong ngắn hạn
Theo nguyên tắc này, gói kích cầu sẽ chấm dứt khi nền kinh tế đã được cải
thiện. Thông thường, sau khi vượt qua suy thoái, nên thực hiện các biện pháp để
giảm thâm hụt ngân sách. Nguyên tắc ngắn hạn có hai ý nghĩa:
- Gói kích cầu thực hiện trong ngắn hạn sẽ làm tăng hiệu quả gói kích cầu.
- Chỉ kích cầu trong ngắn hạn để không làm ảnh hưởng tới ngân sách trong dài
hạn.
Lý do là khi các biện pháp thực hiện trong ngắn hạn sẽ khuyến khích các
doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ đầu tư để tận dụng ưu đãi. Những biện pháp dài hạn
như giảm thuế quá lâu sẽ không phải là một biện pháp kích cầu tốt, bởi vì các
doanh nghiệp sẽ cảm thấy không cần thiết phải đẩy nhanh tốc độ đầu tư trong giai
đoạn nền kinh tế cần được kích thích nhất.
Khi thực hiện các biện pháp kích thích nền kinh tế bằng việc mở rộng chi
tiêu tạm thời của chính phủ sẽ dẫn đến thêm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách lớn
trong tương lai cũng đồng nghĩa với suy giảm tiết kiệm trong dài hạn, dẫn tới giảm
14
đầu tư và ảnh hưởng tới tăng trưởng. Đó là chưa kể tới việc thâm hụt ngân sách sẽ
ảnh hưởng tới tài khoản vãng lai (mà Việt Nam hiện nay mức độ thâm hụt tài
khoản vãng lai đã ở mức đáng báo động). Do đó, các gói kích cầu chỉ được phép
mang tính tạm thời, trong ngắn hạn có thể làm thâm hụt ngân sách nhưng không
được làm trầm trọng mức độ thâm hụt trong dài hạn.
Tóm lại, khi cân nhắc các biện pháp kích cầu cụ thể, thì các nguyên tắc trên

đều phải được tuân thủ và xem xét một cách đồng thời. Nếu một biện pháp kích cầu
cụ thể mà vi phạm một trong những nguyên tắc đó thì về cơ bản đó chưa phải là
một biện pháp kích cầu tốt.
Ngoài ra, để tăng hiệu quả của các gói kích cầu cần có các chính sách bổ trợ
khác như không để tỉ giá bị định giá cao và tăng tính linh hoạt của tỉ giá nhằm sử
dụng công cụ này để điều chỉnh thâm hụt thương mại ở mức hợp lí và bền vững.
1.4. Điều kiện áp dụng các biện pháp kích cầu:
Suy thoái kinh tế có thể liên quan điến việc giảm đồng thời các chỉ số kinh tế
trong tất cả các hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, … Suy thoái có thể gắn
liền với việc hạ giá cả (giảm phát) hoặc giá cả tăng (lạm phát). Sự suy thoái lâu dài
và trầm trọng thì được gọi là khủng hoảng kinh tế. Từ khi kinh tế học “Keynes” ra
đời với trong tâm chính là nêu bật vai trò của tăng trưởng tiền lương (qua đó tăng
tổng cầu) và vai trò của nhà nước trong việc quản lí nền kinh tế, kéo theo sự ra đời
của các biện pháp can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế điều chỉnh những méo
mó của thị trường thì nền kinh tế thị trường được chuyển biến rõ nét.
Khi nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái kéo dài, để tránh tình trạng trở nên tồi
tệ hơn, chính phủ áp dụng nhiều chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô để kích cầu
nhằm đưa nền kinh tế tăng trưởng trở lại. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế không có dấu
hiệu suy thoái mà sử dụng các biện pháp kích cầu rất có thể sẽ dẫn đến những biến
đối vĩ mô lớn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế (lạm phát, giảm
phát).
Trong các biện pháp kích cầu thì kích cầu đầu tư là một biện pháp hiệu quả của các
chính phủ.
2. Kích cầu đầu tư
2.1. Khái niệm và ý nghĩa của kích cầu đầu tư:
Kích cầu đầu tư là tổng hợp tất cả các biện pháp chính sách, các công cụ
pháp lí được sử dụng một cách có hệ thống và đồng bộ nhằm thu hút ngày càng
nhiều vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong
một giai đoạn hay thời kì nhất định.
15

Kích cầu đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, nhất là
một nước đang phát triển như Việt Nam. Giúp các nước đang phát triển tạo bức đột
phá để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn (thu nhập thấp – tích lũy thấp – trình độ công
nghệ lạc hậu – năng xuất thấp) tiến tới thúc đấy phát triển kinh tế xã hội.
Những biện pháp kích cầu đầu tư thích hợp sẽ làm tăng lượng vốn đầu tư của
toàn xã hội, tăng nhu cầu xây dựng và cải thiện mức sống của người dân. Đầu tư
tăng sẽ làm tăng tổng cung, tăng lượng việc làm, từ đó tăng tiêu dùng. Đầu tư vừa
là yếu tố duy trì, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Vốn đầu tư được
sử dụng hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, góp phần chuyển
dịch cư cấu ngành, vùng lãnh thổ và theo thành phần kinh tế. Đầu tư nước ngoài
còn thu hút khoa học công nghệ hiện đại của các nước trên thế giới, làm thay đổi bộ
mặt của toàn nền kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội. Kích cầu đầu tư là hoạt động
quan trọng, mang tính tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn của
mỗi quốc gia.
2.2. Phân biệt kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng:
Kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng là 2 khái niệm thường được nhắc đến cùng
nhau. Tuy nhiên, về bản chất, 2 khái niệm này có sự khác biệt rõ rệt.
Kích cầu đầu tư Kích cầu tiêu dùng
Đối tượng tác động Trực tiếp tác động đến hoạt
động đầu tư của nền kinh tế
thông qua chính sách lại
xuất hay chính sách thuế thu
nhập doanh nghiệp.
Về phía cầu của nền kinh tế
thông qua các chính sách của
chính phủ như chính sách
thuế thu nhập cá nhân, chính
sách hỗ trợ người tiêu dùng.
Mục đích Khuyến khích hoạt động
đầu tư sản xuất của các

doanh nghiệp.
Kích thích tiêu dùng trong
nước, thông qua đó tạo thêm
thị trường cho các doanh
nghiệp mở rộng sản xuất lấy
lại đà tăng trưởng cho nền
kinh tế trong thời kì gặp khó
khăn như thời kì hậu khủng
hoảng.
Thời gian tác động Tác động tích cực cả trong
ngắn hạn và dài hạn.
Tác động ngắn hạn.
Tuy nhiên, hai chính sách này lại có quan hệ bổ trợ lẫn nhau nhằm phát huy tốt hơn
hiệu quả của cả hai chính sách, hướng tới mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế bền
vững.
2.3. Tác động của kích cầu đầu tư:
16
Mỗi chính sách tác động đến nền kinh tế đều có tính chất hai mặt. Bên cạnh
việc có thể đạt được các mục đích như mong muốn thì cũng tồn tại những tiêu cực
không mong muốn. Đối với chính sách kích cầu đầu tư thường được sử dụng khi
nền kinh tế lâm vào khó khăn cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Khi chính phủ thực hiện các chính sách kích cầu đầu tư sẽ tác động cả các
mặt tích cực và tiêu cực đến nền kinh tế. Bài toán đặt ra là làm thế nào để đạt được
hiệu quả tối đa của chính sách mà vẫn giảm được tối thiểu các tác động tiêu cực.
Thông qua nghiên cứu những tác động của kích cầu đầu tư, ta sẽ có thể rút ra
những bài học cần thiết cho việc cân nhắc khi đưa ra các quyết định can thiệp đến
nền kinh tế, hường tới mục tiêu cuối cùng: “ Tăng trưởng kinh tế đồng thời đảm
bảo cả về mặt văn hóa và xã hội”.
2.3.1. Tác động tích cực
Tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế

- Tác động đến tổng cầu: Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, trước hết cần đầu
tư. Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế.
Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24 đến 28% trong cơ
cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư
thể hiện rõ trong ngắn hạn. Xét theo mô hình kinh tế vĩ mô, đầu tư là bộ phận
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, gia tăng đầu tư
(I) làm cho tổng cầu (AD) tăng (nếu các yếu tố khác không đổi).Ta có công thức
sau:
AD=C+I+G+X-M
Trong đó: C: Tiêu dùng
I: Đầu tư
G: Tiêu dùng của Chính Phủ
X: Xuất khẩu
M: Nhập khẩu
- Tác động đến cung: Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là
cung trong nước và cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là một
hàm của các yêu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ…thể hiện qua
phương trình sau:
Q= F(K, L, T, R…)
Trong đó: K: Vốn đầu tư
L: Lao động
17
T: Công nghệ
R: Tài nguyên
Như vậy kích cầu đầu tư làm tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực
tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Mặt khác
tác động của vốn đầu tư còn được thể hiện thông qua việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đổi mới công nghệ…Do đó đầu tư lại gián tiếp làm tăng tổng cung
của nền kinh tế.
Tác động đến tăng trưởng kinh tế

- Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động tới chất lượng
tăng trưởng. Kích cầu đầu tư làm tăng qui mô vốn đầu tư và sử dụng hợp lý những
nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, tăng năng suất nhân tố
tổng hợp, tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theon hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế…do đó, nâng cao chất lượng
tăng trưởng kinh tế.
- Mô hình số nhân đầu tư :
Nếu đầu tư tăng 1 lượng ∆I thì thu nhập quốc dân sẽ tăng lên 1 lượng ∆Y
tương ứng. Trong đó:
∆Y = 1/(1- MPC)*∆I
Với 1/(1- MPC) là số nhân dầu tư, MPC là tiêu dùng cận biên
+ Xét 1 cách đơn giản với số nhân tĩnh
Y = C+S ; S = I

Y = C + I
C= aY + b => ∆Y = a∆Y + ∆I
∆Y = 1/(1-a). ∆I với a = MPC
+ Với số nhân động:
Yt = Ct + It với S = I
Ct = aYt + b
Nếu như ta tăng một lượng đầu tư ở năm thứ nhất 1 lượng là ∆I thì sẽ dần
đến một ảnh hưởng dây chuyền đến tất cả các yếu tố và các năm sau đó.
∆Y1 =

I
∆Y2 =
2
a
∆I


Y3 =
2
a
∆I
18
………………
∆Yn =
1−n
a
∆I
=> ∆Y = 1/ (1-a) ∆I
Như vậy theo mô hình này sự gia tăng một khoản đầu tư sẽ có tác động lan
tỏa đến toàn bộ nền kinh tế và mở rộng tác động của nó. Khi đầu tư tăng thêm 1
lượng thì thu nhập quốc dân sẽ tăng lên với số nhân đầu tư là m
I
=1/ (1-MPC),
MPC càng lớn thì chính sách kích cầu đầu tư càng có hiệu quả.
Mô hình cho thấy được tầm quan trọng của kích cầu đầu tư đối với sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Đối với cơ cấu ngành kinh tế:
Việc đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn là bao nhiêu, đồng vốn được sử
dụng như thế nào đều tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến sự phát triển của ngành
nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Cụ thể, đầu tư sẽ góp phần tăng cường
vật chất kĩ thuật, nâng cao hàm lượng công nghệ qua đó nâng cao năng suất lao
động của ngành. Nhờ đó sẽ tạo ra sản lượng cao hơn với giá thành thấp hơn. Mặt
khác, đầu tư là tiền đề tập trung các nguồn lực khác của nền kinh tế (lao động,tài
nguyên,vốn dư thừa…) cho mục tiêu phát triển ngành.
- Đối với cơ cấu lãnh thổ kinh tế:
Có thể dễ dàng nhận thấy bất cứ vùng nào nhận được một sự đầu tư thích

hợp đều có điều kiện để phát huy mạnh mẽ những thế mạnh của mình. Những vùng
tập trung nhiều khu công nghiệp lớn đều là những vùng rất phát triển của một quốc
gia. Những vùng có điều kiện được đầu tư sẽ là đầu tàu kéo các vùng khác cùng
phát triển. Những vùng kém phát triển có thể nhờ vào đầu tư để thoát khỏi đói
nghèo và giảm dần khoảng cách với các vùng khác. Nếu xét cơ cấu lãnh thổ theo
góc độ thành thị và nông thôn thì đầu tư là yếu tố bảo đảm cho chất lượng của đô
thị hoá.
- Đối với cơ cấu thành phần kinh tế:
Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ thuộc
vào chiến lược phát triển của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định thành
phần nào là chủ đạo; thành phần nào được ưu tiên phát triển; vai trò; nhiệm vụ của
các thành phần trong nền kinh tế…Ở đây đầu tư đóng vai trò nhân tố thực hiện.
Việc kích cầu đầu tư cũng đi đối với việc thay đổi các biện pháp chính sách,
phương hướng phát triển của cả xã hội. Tùy và điều kiện và trình độ phát triển của
19
mỗi quốc gia khác nhau mà có những chiến lược phát triển các ngành nghề trọng
điểm khác nhau. Động lực chính của sự chuyển dịch này đó là những ngành nghề
quan trọng, mang lại thu nhập cao cho nên kinh tế quốc dân cần phải được chú
trọng phát triển.
Tác động đến khoa học công nghệ.
Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định đổi mới và phát triển
khoa học, công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia.Trong mỗi thời kỳ, các
nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát triển công nghệ. Trong giai đoạn đầu,
các nước phát triển do có nhiều lao đông và nguyên liệu, thường đầu tư các loại
công nghệ sử dụng nhiều lao đông và nguyên liệu, sau đó giảm dần hàm lượng lao
động và nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng vốn thiết bị và
tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để phát
triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị
và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối.
Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc tự

nghiên cứu và ứng dụng. Dù nhập khẩu hay tự nghiên cứu cũng đòi hỏi lượng vốn
đầu tư lớn. Mỗi doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần phải có bước đi phù hợp để
lựa chon công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế
so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân.
Tạo ra sự phát triển của khoa học công nghệ là góp phần quan trọng vào tăng
trưởng trong dài hạn của nền kinh tế, vì tiến bộ khoa học là động lực mạnh mẽ nhất
phá vỡ giới hạn của tăng trưởng.
Góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm bảo ổn định xã hội.
Để kích cầu đầu tư trong nước thì chính phủ đã thực hiện các chính sách
tăng chi tiêu công,đẩy nhanh giải ngân vốn cho các công trình xây dựng cơ bản.
2.3.2. Tác động tiêu cực.
Nguy cơ sa vào bẫy thanh khoản
Bẫy thanh khoản là hiện tượng trong đó chính sách tiền tệ được nới lỏng
bằng biện pháp giảm lãi suất để rồi lãi suất xuống thấp quá một mức nhất định
khiến cho mọi người quyết định giữ tài sản của mình dưới dạng tiền mặt và chính
sách tiền tệ trở nên bất lực. Về bản chất, “bẫy thanh khoản” hay “bẫy tiền mặt” xảy
ra khi đường LM trong mô hình IS-LM trở nên thoải và song song với trục hoành.
Khi đó việc điều tiết chu kỳ kinh tế chỉ còn trông cậy vào chính sách tài chính. Đây
là một trong những lý luận của kinh tế học Keynes. Khi nền kinh tế vào pha suy
20
thoái, ngân hàng trung ương sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ bằng việc giảm lãi suất
để kích thích tiêu dùng và kích thích đầu tư tư nhân dẫn tới tăng tổng cầu, thoát
khỏi suy thoái. Tuy nhiên, nếu việc giảm lãi suất là liên tục và xuống thấp quá mức
thì, theo thuyết ưa chuộng tính thanh khoản, mọi người sẽ giữ tiền mặt chứ không
gửi vào ngân hàng hay mua chứng khoán. Hậu quả là đầu tư tư nhân khó có thể
được thúc đẩy vì ngân hàng không huy động được tiền gửi thì cũng không thể cho
xí nghiệp vay và chứng khoán không bán được thì xí nghiệp cũng không huy động
được vốn. Chính sách tiền tệ trở nên bất lực trong việc thúc đẩy đầu tư tư nhân và
do đó là bất lực trong kích thích tổng cầu. Trong khi đó, chính sách tài chính
thường không phát huy được hiệu lực đầy đủ do hiện tượng thoái lui đầu tư thì lúc

này lại phát huy đầy đủ hiệu lực do hiện tượng thoái lui đầu tư không còn (vì lãi
suất thấp). Tuy nhiên khi đó sẽ dẫn tới tình trạng trì trệ trong đầu tư tư nhân, kéo
theo toàn bộ nền kinh tế trì trệ.
Thâm hụt ngân sách và gia tăng gánh nặng nợ.
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà
nước cho việc thực hiện các nhiệm vụ của chính phủ. Thực chất của nó là việc cung
cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của chính phủ.Thâm hụt ngân sách
nhà nước là tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước vượt qua các khoản
thu không mang tính hoàn trả ( thu trong cân đối ngân sách).
Phương trình cân bằng ngân sách: B= T- G
Như đã biết trong kích cầu nói chung hay kích cầu đầu tư nói riêng chính
sách tài khóa mở rộng được áp dụng thông qua biện pháp cụ thể là giảm thuế và
tăng chi tiêu ngân sách nhà nước, biện pháp thứ hai được cho rằng có hiệu suất kích
thích tổng cầu cao hơn Một khi gói kích cầu quá lớn hệ quả tất yếu là sẽ càng
khoét sâu thêm vào thâm hụt ngân sách nếu như không có chính sách kịp thời, thậm
chí nó sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới lòng tin của các nhà đầu tư.
Áp lực lạm phát cao
Trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp, sử dụng chi ngân sách nhà
nước lớn sẽ dẫn tới thâm hụt ngân sách, mà việc bù đắp thâm hụt ngân sách lớn
như vậy thực tế vẫn làm cho cung tiền tăng, nguy cơ lạm phát cao sau kích cầu.
Chính sách tiền tệ và tín dụng nới lỏng nhằm phục vụ chính sách kích thích kinh tế,
hỗ trợ kích cầu đã đẩy nhanh tốc độ gia tăng của các phương tiện thanh toán, tốc độ
đưa tiền ra lưu thông tiếp tục được đẩy mạnh. Tuy nhiên, việc tăng quá nhanh và
quá mạnh tín dụng cũng là dấu hiệu cảnh báo nguy cơ lạm phát. Kinh nghiệm cho
21
thấy nếu tăng trưởng tín dụng đột biến, thì chỉ sau 2-3 tháng sẽ tác động tới tăng giá
cả và lạm phát là điều có thể thấy trước.
2.4. Nguồn vốn cho kích cầu đầu tư:
Vốn là nhân tố rất quan trọng cho việc kích cầu nói chung và kích cầu đầu tư
nói riêng bở nếu không có vốn thì không thể tiến hành các hoạt động đầu tư. Vì thế,

chính phủ các nước trước khi tung ra các gói kích cầu cần nghiên cứu, xem xét chi
tiết đến các nguồn vốn có thể cung ứng để đảm bảo cho hoạt động kích cầu đầu tư
hiệu quả nhất. Sau đây là một số nguồn vốn chủ yếu cho kích cầu đầu tư:
2.4.1. Vốn trong nước:
Vốn trái phiếu chính phủ
* Vay nợ từ công chúng
-Số tiền huy động được để tài trợ cho gói kích cầu. Trái phiếu phát hành bằng
nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in
thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành
bằng ngoại tệ ( thường là ngoại tệ mạnh có nhu cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn
so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh
toán và ngoài ra còn có rủi ro về tỷ giá .
-Việc tài trợ cho gói kích cầu này thông qua vay nợ sẽ đẩy lãi suất lên cao và
gây sức ép xấu đến khu vực tư nhân và tăng trưởng kinh tế. Huy động với lãi suất
cao còn làm tăng các khoản trả lãi thêm hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm trong
tương lai, và làm trầm trọng thêm vấn đề thâm hụt ngân sách.
* Vay nợ từ hệ thống các ngân hàng thương mại
Việc vay nợ này tuy có thể vay được lượng vốn lớn nhưng cũng gặp những hạn chế
không nhỏ :
-Gây sức ép đối với dự trữ của các ngân hàng này và các ngân hàng sẽ đòi hỏi
trợ giúp về khả năng thanh khoản từ Ngân hàng Nhà nước. Nếu những đòi hỏi này
được đáp ứng, cơ sở tiền tệ sẽ tăng và lạm phát sẽ quay trở lại.
-Nếu Ngân hàng Nhà nước không đáp ứng những đòi hỏi về tính thanh khoản
này, các ngân hàng thương mại buộc phải giảm các nguồn tín dụng cho khu vực
doanh nghiệp tư nhân và lao vào một cuộc cạnh tranh lãi suất huy động, đây chính
là hiện tượng chi tiêu chính phủ lấn át đầu tư của khu vực tư nhân.
Do vậy, việc thực hiện gói kích cầu có thể không đạt được mục tiêu như
mong đợi khi biện pháp tài trợ thông qua vay nợ trong nước được lựa chọn. Việc
vay nợ sẽ đẩy lãi suất lên cao và gây khó khăn thêm cho các doanh nghiệp tư nhân
và không thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế.

Quỹ dự phòng NSNN
22
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư
cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt
trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong những điều kiện cụ thể, nguồn
kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của
các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển
sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn
tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng
đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
Quỹ dự trữ ngoại hối
Ngoại tệ sẽ được bán ra công chúng cho tới khi dự trữ giảm xuống ngưỡng
an toàn. Việc tài trợ này cực kỳ rủi ro nếu công chúng tin rằng dự trữ ngoại hối
đang cạn dần và có thể dẫn đến sự tháo chạy của tư bản nước ngoài và đầu cơ ngoại
tệ. Cuối cùng sẽ là sự phá giá đồng nội tệ và sức ép lạm phát.
Việc kích thích đầu tư và tiêu dùng thường kéo theo sự gia tăng mạnh của
nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng… thì phải đảm bảo
mức dự trữ ngoại hối đảm bảo an toàn của hệ thống tỷ giá (đặc biệt về mặt tâm lý).
Rõ ràng, việc sử dụng dự trữ ngoại hối tài trợ toàn bộ cho gói kích cầu vài tỷ
USD là điều vừa không khả thi vừa không sáng suốt. Nếu sử dụng một phần thì cần
phải thận trọng và minh bạch để không gây những bất ổn tâm lý không đáng có.
In tiền: Có hai trường hợp xảy ra :
- Một là Chính phủ có thể trực tiếp thông qua Ngân hàng Trung ương in tiền
để tài trợ cho chi tiêu. Biện pháp tài trợ này ngay lập tức sẽ dẫn đến tăng trưởng cơ
sở tiền tệ và cung tiền.
- Hai là Chính phủ ban đầu có thể vay tiền của công chúng và hệ thống ngân
hàng thương mại thông qua phát hành trái phiếu. Nhưng nếu sau đó Ngân hàng
Trung ương can thiệp mua lại các khoản nợ này của chính phủ thông qua nghiệp vụ
thị trường mở, hoặc nhằm đáp ứng sức ép thanh khoản gia tăng của hệ thống ngân

hàng thương mại, thì một lượng tiền tương tự như khi in tiền trực tiếp cũng sẽ được
bơm vào nền kinh tế.
Trong cả hai trường hợp, cơ sở tiền tệ và cung tiền sẽ tăng, gây ra lạm phát
và bất ổn kinh tế vĩ mô trong tương lai.
2.4.2. vốn đầu tư nước ngoài:
Vay nước ngoài
Khả năng vay nợ thêm nước ngoài trong bối cảnh khủng khoảng kinh tế toàn
cầu là rất khó khăn cùng với đó là việc giảm cấp vốn ODA từ các nhà tài trợ
23
Tác động của việc tài trợ cho gói kích cầu thông qua biện pháp vay nợ nước
ngoài, nếu có, sẽ phụ thuộc nhiều vào chủ trương theo đuổi chế độ tỷ giá của Ngân
hàng trung ương.
Nếu Ngân hàng Nhà nước theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá quanh mức
công bố, điều này có nghĩa Ngân hàng trung ương sẽ phải can thiệp mua vào lượng
dư cung ngoại tệ do Chính phủ đã bơm vào nền kinh tế sau khi vay nước ngoài. Cơ
sở tiền tệ và cung tiền cuối cùng sẽ tăng và gây ra lạm phát.
Tuy nhiên, nếu Ngân hàng trung ương chủ động thả lỏng mức kiểm soát tỷ
giá thì hậu quả của việc làm này sẽ là sự lên giá của đồng nội tệ và tác động xấu
đến khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới của hàng xuất khẩu.
Mặc dù vậy, đây vẫn là nguồn mà các chính phủ vẫn thường phải sử dụng
khi cần nhằm có nguồn vốn cho kích cầu.
Trì hoãn trả nợ
Đây là một trong những biện pháp quan trọng và thường xuyên được thực
hiện ở các nền kinh tế chuyển đổi.
Việc tích lũy thêm nợ làm trì hoãn những tác động xấu có thể có của các
biện pháp tài trợ gói kích cầu. Tuy nhiên, nó sẽ tác động đến kỳ vọng của khu vực
tư nhân về sự phát triển trong tương lai của nền kinh tế. Các cá nhân và tổ chức
kinh tế sẽ dự đoán về sự gia tăng của thuế và lạm phát, và làm xấu đi tình hình tài
chính.
Chính phủ có thể kết hợp các nguồn tài trợ nói trên để tài trợ cho gói kích

cầu.
2.5. các công cụ và biện pháp kích cầu đầu tư
Để thực hiện kích cầu đầu tư có hiệu quả,trong tay chính phủ có hai công cụ
quan trọng là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Mỗi chính sách đều có
những ưu, nhược điểm khác nhau và tùy từng tình hình của từng nước mà chính
phủ có thể sử dụng một hoặc cả hai chính sách để kích cầu đầu tư đạt hiệu quả nhất.
Ngoài ra còn có một số những chính sách khác hỗ trợ cho hai chính sách trên,thúc
đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
2.5.1. Nhóm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là công cụ quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay
NHTW để đạt được những mục đích đặc biệt như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn
định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính
sách tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay
gián tiếp hông qua các nghiệp vụ thị trường mở,qui định mức dự trữ bắt buộc hoặc
24
trao đổi trên thị trường ngoại hối. Các công cụ của chính sách tiền tệ gồm: tái cấp
vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, hạn mức tín dụng và lãi suất tín
dụng. Tuy nhiên, hai công cụ chủ yếu của chính phủ tác động mạnh đến kích cầu
đầu tư là công cụ lãi suất tín dụng và tăng hạn mức tín dụng cho các NHTM.
Công cụ lãi suất tín dụng
Các nhà kinh doanh thường vay vốn để đầu tư, lãi suất phản ánh giá khoản
vay mượn. Vì vậy, nếu giá của tiền vay ( lãi suất) lớn hơn tỷ suất lợi nhuận bình
quân thì nhà đầu tư sẽ cắt giảm qui mô đầu tư và ngược lại.
Mối quan hệ giữa tỷ lệ lãi suất và tỷ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư có thể được
minh họa như sau:
Quy mô vốn
A
IRR
B
IRR

cIRR
IRR
O
A
B
C
1
i
2
i
3
i
4
i

25

×