Bài tập số 3: Trong thời gian gần đây, các nước xin gia
nhập WTO thường bị đòi hỏi đáp ứng điều kiện “WTO+”
Hỏi: Anh/chị hiểu như thế nào về điều kiện “WTO+”? Lấy
ví dụ về các cam kết “WTO+” của một số quốc gia
Bài làm:
Bản chất tiến trình gia nhập WTO là không công bằng.
Không những một quốc gia muốn trở thành thành viên phải tuân
thủ tất cả các luật lệ của WTO, mà từng quốc gia thành viên còn
được phép đòi hỏi nước xin gia nhập phải có thêm những nhân
nhượng khác, được gọi là “WTO+”, đổi lại các nước thành viên
này sẽ ủng hộ nước xin gia nhập. Không có sự ủng hộ của các
thành viên WTO có vai trò then chốt, chẳng nước xin gia nhập
nào có thể được chuẩn y. Hậu quả là nước xin gia nhập bao giờ
cũng ở vào một vị trí rất bất lợi trong quá trình đàm phán.
Không thiếu những chuyện các thành viên WTO đưa ra những
yêu sách quá đáng đối với các nước đang phát triển xin gia nhập
WTO, chẳng chút bận tâm đến những ưu tiên phát triển của các
- 1 -
nước đó. Những điều kiện do các nước giàu đặt ra bao gồm mở
cửa nhanh chóng cho các nhà đầu tư quốc tế thâm nhập các lĩnh
vực dịch vụ và chế tạo, bỏ hàng rào nhập khẩu, thậm chí còn bán
nông phẩm phá giá.
Như vậy, có thể hiểu điều kiện “WTO+” là những điều kiện
ngoài lề những luật lệ của WTO do các nước thành viên WTO
đặt ra với nước xin gia nhập WTO nhằm thoả mãn những lợi
ích của riêng mình. Các quốc gia xin gia nhập cần phải đàm
phán thoả thuận chấp nhận những điều kiện “WTO+” đó để
nhận được sự ủng hộ bỏ phiếu thuận về việc xin gia nhập của
các quốc gia thành viên.
Hội nghị Bộ trưởng, bao gồm tất cả các thành viên WTO là
nơi chính thức quyết định chấp thuận đơn xin gia nhập của một
quốc gia. Các “điều kiện” tham gia sẽ được các thành viên WTO
thuộc Ban Công tác đàm phán với quốc gia xin gia nhập. Các
nước có nền thương mại phát triển luôn ở trong đoàn đàm phán.
Tất cả thành viên của Ban Công tác WTO phải nhất trí với các
- 2 -
điều kiện thì việc gia nhập mới được chấp thuận. Đối với một
thiết chế tự xưng là “hoạt động theo luật”, việc thiếu vắng các
quy định điều chỉnh việc kết nạp thành viên mới là một thiếu sót
đáng chú ý, mặc dù người ta có thể giải thích là WTO đã trao
quyền cho các thành viên hùng mạnh. Đàm phán được tiến hành
đa phương trong Ban Công tác, và song phương với mỗi thành
viên của Ban. Một quốc gia không chỉ phải tôn trọng tất cả quy
định của WTO thì mới được kết nạp, mà cần hiểu rằng từng
thành viên riêng rẽ có khả năng đòi thêm những nhượng bộ
khác, trường hợp này chính là “WTO+”, để đổi lại việc sẽ được
ủng hộ gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới.
Ví dụ về các cam kết “WTO+” của một số quốc gia:
- Campuchia:
Những quan điểm cực đoan nhất cho rằng việc Campuchia
gia nhập WTO hoàn toàn không phải là một giải pháp đúng, bởi
vì không có một sản phẩm nào của Campuchia, kể cả nông sản
lẫn phi nông sản đủ sức cạnh tranh để xuất khẩu ra thị trường
- 3 -
thế giới. Trong khi đó, những cam kết gia nhập của Campuchia
có vẻ như là quá cao cho một nước được xem là kém phát triển,
và lại càng cao hơn so với những ưu đãi mà Campuchia sẽ nhận
được. Điều này thể hiện rõ nhất đối với lĩnh vực nông nghiệp
và thuốc chống HIV - AIDS.
Trong khi nông nghiệp hiện chiếm 37% GDP và trên 80%
dân số Campuchia phụ thuộc vào nông nghiệp, thì mức thuế
ràng buộc mà Campuchia thỏa thuận cho các sản phẩm nông
nghiệp của mình chỉ ở mức trung bình 30%, so với mức thuế
nông nghiệp cao nhất của EU là 252%, và Mỹ là 120%. Đó là
chưa kể đến các khoản trợ cấp khổng lồ mà các quốc gia này
dùng để hỗ trợ cho sản phẩm nông nghiệp của mình trên thị
trường quốc tế. Với những mức cam kết gia nhập của mình,
quan điểm chung cho rằng Campuchia sẽ khó có thể đối phó
một cách hiệu quả với những tác động trong tương lai đối với
ngành nông nghiệp của mình.
- 4 -
Trong lĩnh vực thuốc, Campuchia đã cam kết thực hiện
TRIPs với thời hạn là 2007, và dừng việc sử dụng các sản phẩm
thuốc sản xuất không theo bản quyền vào thời điểm gia nhập,
trong khi Hiệp định TRIPs của WTO cho phép các nước kém
phát triển kéo dài thời hạn chuyển đổi đến 2016. Cam kết này
sẽ hạn chế đáng kể khả năng của người dân Campuchia được
tiếp cận với những sản phẩm thuốc chống HIV - AIDS giá rẻ
hiện đang được nhập khẩu từ các nước sản xuất không theo bản
quyền. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hơn 170.000
người Campuchia hiện đang nhiễm virus HIV. Vấn đề càng trở
nên vô lý hơn khi tại Hội nghị Đoha năm 2001, các nước thành
viên WTO đã đạt được thỏa thuận liên quan đến điều khoản cho
phép miễn trừ bảo hộ theo TRIPs cho các "đại gia" dược phẩm
sản xuất thuốc chống AIDS của các nước phát triển, để làm
giảm bớt áp lực cho các nước nghèo, kém phát triển đang phải
chống chọi với HIV-AIDS.
- 5 -
Nhìn chung, Campuchia đã chấp nhận một cái giá quá cao
để gia nhập WTO, và đáng buồn hơn nữa, cam kết gia nhập này
còn cho thấy thực tế là các nước thành viên phát triển trong
WTO đã đòi hỏi ở Campuchia nhiều hơn chính những mức
nhượng bộ mà các nước phát triển này đưa ra. Thực chất là
trong đàm phán, các nước phát triển đã ít xét đến trình độ phát
triển của một nước trong quá trình gia nhập. Bằng việc gia nhập
WTO của mình, Campuchia phần nào đã đặt ra khuôn mẫu
chuẩn mực mới làm cho tất cả các nước còn lại đang đàm phán
gia nhập, đặc biệt là các nước đang phát triển và kém phát triển,
vì mỗi cụm cam kết của một nước mới gia nhập sẽ được coi là
xuất phát điểm cho tiến trình của các nước tiếp theo.
- Việt Nam:
Trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), Việt Nam đang chịu áp lực phải đồng ý với một
loạt những chính sách thương mại mới, bao gồm tự do hóa mau
lẹ và thiếu cân nhắc, đe dọa sự tồn tục của thắng lợi đã giành
- 6 -
được. Mối đe dọa đối với Việt Nam được các điều khoản trong
hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ năm
2001 minh họa rõ rệt, hiệp định này có thể làm tăng giá thuốc
chữa bệnh và tạo khả năng cho Hoa Kỳ ngăn chặn nhập khẩu
của Việt Nam. Các thành viên WTO cũng nhân đó có thể yêu
cầu Việt Nam “đa phương hóa” các cam kết đó, những cam kết
vượt lên trên các luật lệ của WTO.
Dưới sức ép lớn lao của các nước phát triển, mức thuế bình
quân mới nhất mà Việt Nam chào các nước là 25,3 phần trăm,
một mức có thể đe dọa sinh kế nông thôn, thế nhưng Việt Nam
vẫn bị các nước công nghiệp thúc ép phải hạ thấp hơn nữa. Việt
Nam phải được phép duy trì một mức bảo hộ thỏa đáng cho
những sản phẩm nhạy cảm, như đường, ngô, súc sản, mà nhiều
nông dân nghèo lệ thuộc. Đường và ngô bị đe dọa hơn cả bởi
những mặt hàng này hiện đang đứng trước sự cạnh tranh quyết
liệt của sản phẩm nhập khẩu được trợ cấp rất cao của EU và
Hoa Kỳ. Những chủ điền trồng ngô của nước Mỹ hàng năm
- 7 -
được trợ cấp tới 10 tỷ USD một năm, và những nhà sản xuất
đường của EU hàng năm nhận được hỗ trợ ngầm là 833 triệu
euro cho các mặt hàng xuất khẩu mà trên danh nghĩa là không
được trợ giá.
Việt Nam đặc biệt quan tâm đến khả năng sử dụng hạn
ngạch thuế suất (TRQ) và các biện pháp tự vệ đặc biệt (SSG)
để chống lại những trường hợp hàng nhập khẩu tăng đột biến.
Với diện tích canh tác bình quân chỉ có 0,7 hécta/hộ, nông dân
Việt Nam cực kỳ dễ bị tổn thương khi giá xuống thấp. Đa số
các nước thành viên của Ban Công tác WTO yêu cầu Việt Nam
không áp dụng TRQ và SSG, mặc dù đề xuất áp dụng SSG với
thịt heo, thịt bò, thịt gia cầm, và TRQ cho tám sản phẩm khác
của Việt Nam khiêm tốn hơn nhiều so với Trung Quốc. Những
thành viên không đòi hỏi về TRQ và SSG thì yêu cầu Việt Nam
giảm mức thuế. Điển hình cho lề thói tiêu chuẩn kép, một siêu
cường hàng đầu về trợ giá là Mỹ đã cùng với Ôtxtrâylia và Niu
Dilân đòi Việt Nam giảm trợ cấp nông nghiệp, đó là những
- 8 -
khoản chủ yếu giúp cho tiểu nông và rất có ý nghĩa đối với
nông dân các vùng xa xôi hẻo lánh, nơi tỷ lệ đói nghèo cao
nhất, và nông nghiệp là nguồn thu nhập chính của các hộ gia
đình. Đây là một đòi hỏi “WTO+” vượt quá những nghĩa vụ
của thành viên nước phát triển cũng như đang phát triển.
Còn có những ngành công nghiệp chế tạo kém phát triển
hơn mà sự tự do hóa khi tham gia WTO có thể mang lại nguy
cơ. Áp lực buộc Việt Nam phải hạ thấp hàng rào thuế quan thấp
hơn mức 17 phần trăm do Việt Nam đề xuất có thể đe dọa sự
phát triển hơn nữa của Việt Nam và cắt mất một nguồn việc
làm đang gia tăng cho lao động trong nước. Đang có mối quan
ngại là lĩnh vực máy công cụ chưa đủ mạnh để có thể tiếp tục
cạnh tranh trong một thị trường hoàn toàn tự do hóa. Ngành ô
tô và xe máy đặc biệt dễ tổn thương trước hàng nhập từ Trung
Quốc và Nhật Bản.
Việc xếp Việt Nam vào nền kinh tế phi thị trường (NME)
có thể hạn chế khả năng tiếp cận thị trường quốc tế của Việt
- 9 -
Nam và đặt ra một thách thức lớn cho sự gia nhập WTO. Hiệp
định TRIPs yêu cầu các thành viên phải bảo vệ các dữ liệu đó
để chống việc “sử dụng không chính đáng vào mục đích
thương mại”, nhưng lại không làm rõ như thế có nghĩa gì và
thời lượng kéo dài bao lâu. Tuy nhiên, thông qua Hiệp định
thương mại song phương, Hoa Kỳ yêu cầu Việt Nam cấm các
bên thứ ba hoặc thậm chí cả những nhà chức trách chịu trách
nhiệm về quản lý sản xuất thuốc không được sử dụng các dữ
liệu do công ty xuất xứ nộp trong thời kỳ năm năm trước để xin
chấp thuận dược phẩm đăng ký. Những nhà sản xuất thế phẩm
phải trải qua một quá trình thử nghiệm lâu dài và tốn kém để
đúc kết những dữ liệu của mình và trình lên để xin phê chuẩn,
hoặc phổ biến hơn, đình hoãn tiếp thị sản phẩm của mình. Dù
theo cách nào đi nữa, giá thuốc cũng sẽ tăng lên.
Trong tình hình có nhiều quan ngại đối với các cuộc đàm
phán gia nhập WTO và những kinh nghiệm khắc nghiệt của các
- 10 -
nước mới gia nhập gần đây, Oxfam tin rằng tiến trình gia nhập
nên được kết cấu lại như sau:
• WTO cần hình thành những chỉ đạo rõ ràng liên quan đến
quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên mới, dựa trên các chỉ
số phát triển.
• Các nước đang phát triển gia nhập cần được hưởng sự
“đối xử đặc biệt và khác biệt” trong các Hiệp định WTO được
dành cho các thành viên là quốc gia đang phát triển.
• Một panen (ban hoặc đoàn) các chuyên gia sẽ quyết định
liệu chế độ thương mại của quốc gia xin gia nhập có tương
thích với các luật lệ hiện hành của WTO và khi nào thì điều
khoản “kinh tế phi thị trường” đối với các nước xin làm thành
viên sẽ bị rút bỏ.
• Các cam kết “WTO+” đã được nhất trí trong các hiệp định
thương mại song phương có thể đe dọa tới phát triển không nên
được tự động “đa phương hóa” trong các gói đàm phán gia
nhập
- 11 -
Tôi cũng đồng ý với những quan điểm trên, WTO cần có
những cơ chế rõ ràng nhằm thực hiện tốt mục tiêu của mình. Để
thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế
giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi
trường. Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường và nâng
cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước
thành viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động đối
thiểu.
- 12 -