Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận cuối khoá chương trình Quản lý nhà nước ngạch chuyên viên: phân biệt hành chính điều hành và hành chính tài phán để làm rõ công việc của hành chính nhà nước.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.16 KB, 15 trang )

Mục lục
Lời mở đầu 1
I. Tình huống 2
1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống: 2
2. Diễn biến của tình huống: 3
II. Giải quyết tình huống: 6
1. Phân tích xử lý tình huống: 6
2. Cơ sở lý luận: 8
III. Những kiến nghị 12
Kết luận 14
Lời mở đầu
Hệ thống hành chính nhà nớc là tổng thể các cơ cấu tổ chức và định chế nhà n-
ớc có chức năng thực thi quyền hành pháp, quản lý công việc hàng ngày của nhà n-
ớc. Nó đợc tạo thành bởi một hệ thống các pháp nhân có quyền lập quy, có thẩm
quyền ra những quyết định hành chính và quản lý điều hành, tổ chức, kiểm tra các
tổ chức và các hoạt động của hệ thống hành chính nhà nớc và của công dân. Xét về
nội dung công việc của hành chính nhà nớc, cần phân biệt rõ hành chính điều hành
và hành chính tài phán.
Hành chính điều hành thực hiện chức năng quản lý hàng ngày dựa trên các
nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Quốc hội, có nhiệm vụ và quyền hạn dự đoán
tình hình, ra quyết định về mặt (kế hoạch, chính sách cụ thể, chủ trơng, biện
pháp, ), tổ chức chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra. Về mặt pháp luật đó là những văn bản
dới luật để thực hiện chức năng quản lý. Về mặt chính trị là phục tùng và phục vụ
chính trị, chấp hành và thực hiện những quyết định mang ý nghĩa chính trị của cơ
quan có thẩm quyền. Trong việc thực hiện các chức năng quản lý đó, hành chính
điều hành phải thể hiện, giữ gìn, phát huy đầy đủ bản chất của một nhà nớc dân
chủ, pháp quyền, tôn trọng các quyền con ngời và quyền công dân đã đợc quy định
trong pháp luật. Mọi sự vi phạm quyền con ngời và quyền công dân, dới dạng hành
động thực tế, trái với pháp luật nói chung và luật hành chính nói riêng đều xem là
hành vi bất hợp pháp.
Trong tiểu luận này tôi xin đợc đa ra một tình huống để minh hoạ cho


nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nớc Việt nam , phân
biệt hành chính điều hành và hành chính tài phán để làm rõ công việc của hành
chính nhà nớc.
Vì thời gian và trình độ có hạn, tiểu luận này không thể tránh khỏi những hạn
chế và sai sót. Rất mong nhận đợc sự đóng góp và nhận xét chân thành quý báu của
các Thầy Cô, các chuyên gia và các bạn học viên, để tôi hoàn thiện hơn tiểu luận
này.
I. Tình huống
1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống:
Xuất phát từ nguyện vọng chung là muốn có điện sinh hoạt, ngày 17 tháng 12
năm 1997 các hộ nông dân thuộc xã Đa Lợi và xã An Nĩnh huyện Chí Linh
tỉnh Hải Dơng đã thống nhất thành lập Ban điện và cử 5 ngời có trách nhiệm giao
dịch, liên hệ với các cơ quan chức năng và ngành điện lực thuộc khu vực nói trên.
Trong ban đại diện có ông Trần Văn Quân làm tổ trởng và bà Nguyễn Thị Hạnh
làm thủ quỹ, đều trú tại xã An Nĩnh, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dơng.
Sau khi ban đại diện đợc thành lập, các xã đã họp và các hộ dân đã tự nguyện
đóng góp mỗi hộ 200.000 đồng để Ban điện có kinh phí sử dụng giao dịch, liên hệ
với các cơ quan chức năng làm đờng dây tải điện sinh hoạt cho các hộ dân. Từ cuối
năm 1997 đến năm 1999, các xã nói trên đã thu đợc số tiền đóng góp tự nguyện của
các hộ dân là 42.800.000đồng. Các hộ dân đã nhất trí giao số tiền này cho Ban điện
quản lý, sử dụng số tiền trên cho các chi phí trong các quan hệ giao dịch, liên hệ với
các cơ quan chức năng để sớm có điện cho hộ dân sử dụng; nếu không thực hiện đ-
ợc thì Ban điện phải hoàn trả 100% số tiền các hộ dân đã đóng góp.
Thực hiện cam kết nói trên, Ban điện làm đơn, tờ trình và đã giao dịch, làm
việc với các cơ quan chức năng ở địa phơng và ngành điện Trung ơng để xin xây
dựng đờng dây tải điện. Do vậy đến dịp tết năm 1999, đờng dây điện đã đợc xây
dựng xong, các hộ dân ở hai xã nói trên đã có điện thắp sáng, đáp ứng nguyện vọng
của các hộ dân.
2. Diễn biến của tình huống:
Đến năm 2000, do khiếu nại của một số ngời ở hai xã nói trên về việc Ban điện

sử dụng số tiền đóng góp của các hộ trong hai xã không đúng nguyên tắc, ngày 05-
12-2000, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân huyện Chí Linh ra Quyết định số 1068/QĐ -
CT chuyển hồ sơ vụ khiếu kiện đến Công an huyện Chí Linh để tiến hành điều tra
theo pháp luật. Ngày 12-11-2001, Công An huyện Chí Linh có Báo cáo kết thúc
điều tra số 311 với nội dung: căn cứ vào Quyết định số 94/1998/BTC ngày 30 tháng
06 năm 1998 của Bộ Tài Chính quy định về chế độ công tác phí, Công an huyện Chí
Linh chỉ chấp nhận các khoản chi sau đây theo chế độ công tác phí hiện hành đối
với cán bộ, viên chức đợc cử đi công tác:
- Tiền đi lại ngủ nghỉ của hai ông Quân và bà Hạnh là 10.700.000đồng .
- Tiền mở đờng để lắp đặt đờng dây nhánh là: 12.350.000 đồng
Tổng cộng số tiền hai khoản trên là: 23.050.000 đồng.
Số tiền còn lại là 19.750.000 đồng, Công An huyện Chí Linh không chấp
nhận vì không có đủ chứng từ hợp lệ theo quy định của Bộ tài Chính.
Ngày 22 tháng 8 năm 2001, Công An Huyện Chí linh kết hợp với Uỷ Ban nhân
dân huyện Chí Linh tổ chức cuộc họp với các hộ dân thuộc hai xã Đa Lợi và An
Nĩnh. Tại cuộc họp này, đại diện của 210/214 hộ tham gia họp biểu quyết đồng ý
không thu hồi khoản tiền 19.750.000 đồng giao cho ông Quân và bà Hạnh sử dụng
để đi liên hệ xây dựng đờng dây tải điện, đại diện của 4/214 số hộ tham gia cuộc
họp đề nghị thu hồi và xử lý theo pháp luật.
Ngày 27 tháng 08 năm 2001, Công An huyện Chí Linh tiếp tục tổ chức cuộc
họp với các hộ dân thuộc hai xã nêu trên. Cũng tại cuộc họp này, 208/214 hộ dân
tham gia biểu quyết không thu hồi số tiền đã giao cho ông Quân và bà Hạnh sử
dụng để liên hệ xây dựng đờng dây tải điện; đại diện của 2/214 hộ không có ý kiến,
đại diện của 4/214 hộ đồng ý thu hồi để xây dựng quỹ của xã.
Căn cứ kết quả điều tra và ý kiến của nhân dân hai xã, Công an huyện Chí
Linh kết luận cha đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Quân và
bà Hạnh nên đã chuyển hồ sơ đến Uỷ ban Nhân dân huyện Chí Linh để giải quyết
theo thẩm quyền.
Ngày 02-01-2002, Uỷ ban nhân dân huyện Chí linh đã ra Quyết định số
01/2002/QĐ-UB thu hồi sung vào ngân sách huyện Chí Linh để đầu t xây dựng một

số công trình tập thể theo đề nghị của hai xã với tổng số tiền là 19.750.000đồng (là
số tiền đóng góp xây dựng đờng dây điện của nhân dân hai xa thuộc huyện Chí
Linh) mà hai ông bà Quân và Hạnh bị kết luận là chi không có chứng từ theo quy
định của Bộ Tài chính.
Sau khi nhận đợc quyết định trên của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh ngày
10-01-2002 và ngày 24-01-2002 ông Quân và bà Hạnh đã làm đơn khiếu nại. Nhng
hết thời gian giải quyết khiếu nại lần đầu mà khiếu nại không đợc giải quyết, nên
vào ngày 15 và 16-05-2002 đã khởi kiện Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-
01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh tại Toà án nhân dân huyện Chí Linh
và Toà án nhân dân huyện Chí Linh đã thụ lý vụ án.
Ngày 22-08-2002, Toà án nhân dân huyện Chí Linh đã ra Quyết định số
02/QĐ-HC đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án nhân dân.
Ông Quân và bà Hạnh kháng cáo quyết định đình chỉ nói trên.
Tại Quyết định phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 22-08-2002 Toà án nhân dân
tỉnh Hải Dơng đã huỷ Quyết định sơ thẩm số 02/QĐ-HC ngày 22-08-2002 của Toà
án nhân dân huyện Chí Linh và chuyển hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân huyện Chí
Linh để giải quyết lại với lý do: Toà án cấp sơ thẩm đã không xác định t cách tham
gia tố tụng của đơng sự ; lý do để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết không rõ
ràng; việc thu thập chứng cứ không đúng nguyên tắc
Ngày 28-11-2002, Tào án nhân dân huyện Chí Linh ra Quyết định số 03/QĐ-
ĐC-HC đình chỉ việc giải quyết vụ án vì Quyết định số 01//2002/QĐ-HC ngày 02-
01-2002 không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân.
Ông Quân và bà Hạnh Kháng cáo.
Tại Quyết định phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 Toà án nhân dân
tỉnh Hải Dơng giữ lại quyết định sơ thẩm số 03/QĐ-ĐC-HC nagỳ 28-11-2002 của
Toà án nhân dân huyện Chí Linh về phần đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính
với lý do: Quyết định số 01/2002/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh bị
khởi kiện không phải là loại quyết định thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Ngoài ra, tại quyết định số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 Toà án nhân dân Tỉnh

Hải Dơng còn sửa lại quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về án phí đối với Ông
Quân và bà Hạnh.
Tại Quyết định số 03/KN-AHC ngày 30-06-2003, Viện trởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-
01-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Hải Dơng và đề nghị Toà Hành chính toà án nhân
dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hớng huỷ Quyết định sơ thẩm
số 03/QĐ-ĐC-HC ngày 28-11-2002 của Toà án nhân dân huyện Chí Linh, Quyết
định phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Hải
Dơng, chuyển hồ sơ vụ kiện về cấp sơ thẩm xét xử từ đầu theo thủ tục chung với
các lý do chính sau:
Quan hệ tài chính giữa nhân dân hai xã trong việc liên hệ xây dựng đờng dây
điện với Ban điện là quan hệ dân sự; trờng hợp nhân dân tự nguyện đóng góp để liên
hệ làm đờng điện sinh hoạt của nhân dân hai xã Đa Lợi và An Lĩnh là việc làm tự
nguyện của dân, các hộ không yêu cầu Ông Quân và bà Hạnh phải nộp lại số tiền
đã chi phí. Do vậy, ủa ban nhân dân căn cứ vào Nghị định số 24/1999/NĐ-CP ngày
06-04-1999 của Chính Phủ để ra Quyết định số 01/2002/QĐ-UB nagỳ 02-01-2002
để thu hồi vào ngân sách huyện khoản tiền 19.750.000đồng mà Ông Quân và bà
Hạnh chi không có hoá đơn chứng từ là không đúng pháp luật, cần xem xét huỷ
quyết định trên.
Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện
Chí Linh là thu hồi tài sản. Tuy về từ ngữ trong quyết định hành chính và điều luật
có khác nhau nhng về nội dung của việc thu hồi sung ngân sách huyện là giống
nhau. Vì chỉ có tịch thu tài sản mới sung công quỹ. Do vậy quyết định của Uỷ ban
nhân dân về thu hồi số tiền 19.750.000đồng là mà Ông Quân và bà Hạnh chi phí là
quyết định hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân theo quy định tại
(khoản 7 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính). Toà án nhân
dân Tỉnh Hải Dơng ra Quyết định phúc thẩm số 01/ QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003
giữ nguyên quyết định sơ thẩm trên vì cả hai cấp đều cho rằng quyết định hành
chính số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện không
thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân là không đúng pháp luật.

Tại quyết định số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003 Hội đồng xét xử giám đốc
thẩm của Toà hành chính tối cao đã quyết định: Bác kháng nghị số 03/KN-AHC
ngày 30-06-2003 của Viện Trởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên
Quyết định hành chính phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 của án nhân
dân tỉnh Hải Dơng.
Tại Quyết định số 09/KH-AHC ngày 25-11-20003 Viện trởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định số 01/QĐ-PT-HC ngaỳ 06-08-2003 của
Hội đồng xét xử Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao xét xử huỷ các quyết định của cấp xét xử cơ thẩm, xét xử phúc
thẩm và quyết định giám đốc thẩm nêu trên của Hội đồng xét xử Toà án nhân dân
tối cao để chuyển hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm để xét xử lại theo thủ tục chung với
các lý do chính nh sau:
Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh áp dụng Nghị định số 24/1999/NĐ-CP ngày
16-04-1999 của Chính Phủ để ra Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002
để thu hồi 19.750.000 đồng sung vào ngân sách của huyện Chí Linh mà Ông Quân
và bà Hạnh đã chi không đúng pháp luật và can thiệp quá sâu vào vào quan hệ dân
sự giữa Ban điện và các hộ dân.
Xét về thẩm quyền: Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ
ban nhân dân huyện Chí Linh là thu hồi tài sản. Tuy về từ ngữ dùng trong quyết
định hành chính trên đều có và điều luật có khác nhau nhng về nội dung của việc
thu hồi lại sung ngân sách huyện là tịch thu tài sản. Vì trong thực tế có tivhj thu tài
sản mới có sung công quỹ, còn thu hồi tài sản thì phải trả cho ngời có quyền sở hữu.
Trong trờng hợp vụ việc này, Uỷ ban nhân dân Chí Linh không đầu t bằng nguồn
ngân sách cho nhân dân liên hệ xin đờng điện, mà nhân dân tự nguyện đóng góp
nên. Do đó, chính các hộ dân mới là ngời định đoạt số tiền mà họ đã giao cho Ban
điện chứ không phải Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh. Vậy Quyết định số
01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh thực chất
là quyết định tịch thu tài sản của ông Quân và bà Hạnh có đợc từ việc thảo thuận
của các hộ dân. Do vậy, Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 của Uỷ
ban nhân dân huyện Chí Linh là quyết định hành chính thuộc thẩm quyền giải

quyết của Toà án theo quy định tại khoản 7 điều 11, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính.
Tại quyết định số 02/2004/HĐTP-HC ngày 27-03-2004 của Hội đồng xét xử
giám đốc thẩm của Toà án nhân dân tối cao đã quyết định: bác kháng nghị số
09/KN-AHC của Viện trởng Viện liểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên quyết
định giám đốc thẩm số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003 của Toà Hành chính.
II. Giải quyết tình huống:
1. Phân tích xử lý tình huống:
Theo Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân
huyện Chí Linh là quyết định hành chính của cơ quan nhà nớc có thẩm quyền. Tuy
nhiên, xét về hình thức (tiêu đề) của Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-
2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh thì đây là quyết định về việc thu hồi tiền
đóng góp làm đờng điện cho hai xã Đa Lợi và An Nĩnh chi sai mục đích sung vào
ngân sách huyện Chí Linh Còn nội dung của quyết định là thu hồi sung vào ngân
sách huyện khoản tiền mà Ông Quân và bà Hạnh chi sai mục đích không có chứng
từ hợp pháp (từ nguồn đóng góp xây dựng đờng điện của nhân dân xã Đa Lợi và xa
An Nĩnh) là 19.750.000 đồng để đầu t xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể
theo đề nghị của hai xã nói trên. Nh vậy xét về cả hình thức và nội dung thì Quyết
định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh
không phải quyết định tịch thu tài sản (của ông Quân và bà Hạnh) nên việc khiếu
kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính. Số tiền
trên không phải là tài sản riêng của Ông Quân và bà Hạnh mà là tiền của nhân dân
hai xã đóng góp mà có và tự nguyện giao cho Ban điện để liên hệ làm đờng điện
cho hai xã nói trên. Ông Quân và bà Hạnh chỉ đợc giao quản lý, sử dụng số tiền
tiền này. Vì vậy, nếu ngời có thẩm quyền đã có đủ căn cứ để xác định Ông Quân và
bà Hạnh chi tiêu số tiền trên không đủ chứng từ hợp pháp thì có quyền buộc các
ông này nộp lại (thu hồi lại), số tiền trên. Trong trờng hợp này, Uỷ ban nhân dân
huyện Chí Linh đã quyết định thu hồi lại số tiền 19.750.000 đồng, mà Uỷ ban nhân
dân huyện cho rằng Ông Quân và bà Hạnh chi không đủ chứng từ hợp pháp, sung
vào ngân sách huyện để đầu t xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo yêu

câud của hai xã nói trên. Vì vậy không thể đồng nhất khái niệm thu hồi tài sản với
khái niệm tịch thu tài sản đối với số tiền nói trên với lý do thu hồi sung vào ngân
sách huyện có nghĩa là tịch thu tài sản.
Toà án nhân dân huyện Chí Linh (tại quyết định hành chính sơ thẩm số
03/QĐ-ĐC-HC ngày 28-11-2002); Toà án nhân dân tỉnh Hải Dơng (tại quyết định
hành chính phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003) và Toà Hành chính Toà
án nhân dân tối cao (tại Quyết định số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003) đã căn cứ vào
điểm g, khoản 1 Điều 41 Pháp lênh Thủ tục giải quyết các vụ án để ra quyết định
đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do việc khiếu kiện của Ông Quân và bà Hạnh
đối với Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 Uỷ ban nhân dân huyện
Chí Linh không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà bằng vụ án hành chính là có
căn cứ và đúng pháp luật.
Nh vậy, Ông Quân và bà Hạnh chỉ là những ngời đợc giao quản lý và sử dụng
tiền. Do đó nếu ngời có thẩm quyền đã có đủ căn cứ để xác định Ông Quân và Bà
Hạnh chi tiêu số tiền này mà không đủ chứng từ hợp pháp thì có quyền buộc ông
Quân và bà Hạnh nộp lại số tiền trên.
Việc Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao đã ra quyết định số 01/GĐT-HC
ngày 06-08-2003 đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do việc khiếu kiện của Ông
Quân và bà Hạnh không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành
chính là có căn cứ và đúng pháp luật.
2. Cơ sở lý luận:
Trớc sự phát triển của lực lợng sản xuất, của quá trình nhận thức tự nhiên của
con ngời dẫn đến sự phân công lao động xã hội theo hớng chuyên môn hoá. Xã hội
phát triển, mâu thuẫn xã hội nảy sinh đến mức không thể giải quyết đợc, nhà nớc ra
đời là kết quả của sự phát triển nội tại xã hội. Cùng với sự ra đời của nhà nớc là sự
ra đời của pháp luật, pháp luật ra đời để điều hoà các mâu thuẫn giai cấp và là công
cụ điều hành của giai cấp thống trị đối với xã hội.
Nhà nớc, xét về mặt bản chất, là tổ chức quyền lực chính trị, có tính giai cấp,
thực hiện chức năng giai cấp. Thông qua nhà nớc, ý chí của giai cấp thống trị đợc
hợp pháp hoá thành ý chí nhà nớc. Thông qua nhà nớc, giai cấp hoặc liên minh giai

cấp thực hiện sự thống trị xã hội trên các mặt kinh tế, chính trị, t tởng.Bản chất giai
cấp của nhà nớc cũng đợc thể hiện thông qua các quan hệ đối ngoại.
Bản chất nhà nớc Xã hội chủ nghĩa Việt nam là biểu hiện cụ thể bản chất nhà
nớc xã hội chủ nghĩa. Thể hiện tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân và tính thời
đại: Nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam mang tính giai cấp công nhân
dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp nông dân với giai cấp công nhân và đội
ngũ trí thức, đợc dẫn dắt bởi chủ nghĩa Mác- Lênin t tởng Hồ Chí Minh. Nhà nớc
Việt Nam dới sự lãnh đạo của Đảng công sản Việt Nam, đội tiên phong của giai
cấp công nhân, tổ chức phát huy đầy đủ quyền làm chủ trong mọi lĩnh vực cuộc
sống. Trong mọi hoạt động của nhà nớc đều phấn đấu nhằm đạt mục đích dân giàu,
nớc mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Hình thức nhà nớc Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt nam là nhà nớc đơn nhất. Chế độ chính trị của Nhà nớc Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam phản ánh bản chất dân chủ của nhà nớc, thể hiện ở
quyền làm chủ của nhân dân trong việc thiết lập lên các cơ quan quyền lực nhà nớc,
tham gia giải quyết các công việc của nhà nớc, xã hội theo phơng châm: dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Mục đích cuối cùng của Nhà nớc là phục vụ cho
lợi ích nhân dân, của dân tộc, của quốc gia.
Bộ máy nhà nớc ta là hệ thống, thống nhất các cơ quan quyền lực nhà nớc đợc
tổ chức và hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc chung thống nhất, nhằm thực
hiện chức năng, niệm vụ chung của nhà nớc. Bộ máy nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt nam đợc tổ chức theo nguyên tắc tập trung, quyền lực nhà nớc là thống
nhất có sự phân công, phân nhiệm, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, t pháp nhằm tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn, lẫn lộn chức năng
giữa chúng.
Pháp luật là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành vi hay quy tắc xử sự ) có
tính bắt buộc chung và thực hiện lâu dài, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, do
nhà nớc ban hành (hoặc thừa nhận), thể hiện bởi các biện pháp tổ chức, giáo dục,
thuyết phục, cỡng chế bằng bộ máy nhà nớc. Pháp luật là công cụ để thực hiện
quyền lực nhà nớc và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có nhà nớc. ở nớc ta hiện
nay, pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với kinh tế, xã hội, hệ thống chính

trị, đạo đức và t tởng phù hợp với kinh nghiệm lịch sử và chủ nghĩa Mác Lê nin
và quan điểm của Đảng ta. Nguồn quan trọng và cơ bản nhất của pháp luật nớc ta
hiện nay là các văn bản quy phạm pháp luật.
Quản lý nhà nớc xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nớc, là quản lý công
việc của Nhà nớc. Trong quản lý nhà nớc, hoạt động quản lý hành chính là hoạt
động đa dạng trung tâm, chủ yếu; vì hoạt động hành chính là hoạt động tổ chức và
điều hành để thực hiện quyền lực nhà nớc trong quản lý xã hội. Quản lý hành chính
Nhà nớc là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nớc tức là hoạt động chấp
hành và điều hành. Chủ thể quản lý hành chính nhà nớc là các cơ quan, cán bộ.
công chức hành chính nhà nớc trong hệ thống Chính Phủ từ Trung ơng đến cơ sở.
Do đó quản lý nhà nớc là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nớc, đó là sự
tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật Nhà nớc đối với các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con ngời do các cơ quan trong hệ thống Chính
phủ từ Trung ơng đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ
của nhà nớc, nhằm duy trì phát triển cao các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật,
thoả mãn nhu cầu hợp pháp của con ngời trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.
Hệ thống hành chính nhà nớc là tổng thể các cơ cấu tổ chức và định chế nhà n-
ớc có chức năng thực thi quyền hành pháp, quản lý công việc hàng ngày của nhà n-
ớc. Nó đợc tạo thành bởi một hệ thống các pháp nhân có quyền lập quy, có thẩm
quyền ra những quyết định hành chính và quản lý điều hành, tổ chức, kiểm tra các
tổ chức và các hoạt động của hệ thống hành chính nhà nớc và của công dân. Xét về
nội dung công việc của hành chính nhà nớc.
Hành chính điều hành thực hiện chức năng quản lý hàng ngày dựa trên các
nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Quốc hội, có nhiệm vụ và quyền hạn dự đoán
tình hình, ra quyết định về mặt (kế hoạch, chính sách cụ thể, chủ trơng, biện
pháp, ), tổ chức chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra. Về mặt pháp luật, đó là những văn
bản dới luật để thực hiện chức năng quản lý. Về mặt chính trị là phục tùng và phục
vụ chính trị, chấp hành và thực hiện những quyết định mang ý nghĩa chính trị của
cơ quan có thẩm quyền. Trong việc thực hiện các chức năng quản lý đó, hành chính

điều hành phải thể hiện, giữ gìn, phát huy đầy đủ bản chất của một nhà nớc dân
chủ, pháp quyền, tôn trọng các quyền con ngời và quyền công dân đã đợc quy định
trong pháp luật. Mọi sự vi phạm quyền con ngời và quyền công dân, dới dạng hành
động thực tế, trái với pháp luật nói chung và luật hành chính nói riêng đều xem là
hành vi bất hợp pháp.
Pháp luật công nói chung và luật hành chính nói riêng mang tính một chiều,
không bình đẳng giữa hai bên: một bên là cơ quan nhà nớc hay chức trách nắm
công quyền và một bên là công dân, có quyền và nghĩa vụ đợc ghi trong Hiến Pháp
và pháp luật, phải tuân thủ pháp luật và chịu sự quản lý của cơ quan hành chính nhà
nớc. Về mặt pháp lý, quan hệ giữa cơ quan nhà nớc với công dân cũng nh giữa cơ
quan nhà nớc cấp trên với cơ quan nhà nớc cấp dới là quan hệ không bình đẳng, là
quan hệ quyền uy, phụ thuộc, phục tùng. Mặt khác, cơ quan hành chính nhà nớc
sinh ra để phục vụ dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Nhiệm vụ của các cơ quan
hành chính là phục vụ nhân dân một cách vô t, đúng pháp luật, liên tục, hàng ngày,
không cửa quyền, lạm quyền, trì trệ và tham nhũng. Để đảm bảo tính dân chủ cao
của nền hành chính và xét xử kịp thời những vi phạm pháp luật hành chính của các
cơ quan, các công chức hành chính đối với công dân, sự ra đời của tài phán hành
chính chính là một tất yếu khách quan.
Hành chính tài phán có chức năng giải quyết các khiếu kiện hành chính của
công dân đối với các quyết định và hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà
nớc theo trình tự tố tụng t pháp. Hành chính tài phán cần phải có một cơ quan
chứcnăng có thẩm quyền xét xử những hành vi vi phạm pháp luật hành chính theo
trình tự tố tụng xét xử của toà án, không phải theo kiểu xử lý nội bộ hoặc xử lý giữa
các cơ quan hành chính với nhau.
Tài phán hành chính ở nớc ta hiện nay có những đặc điểm của tài phán hành
chính nói chung vừa phản ánh những nét đặc thù phù hợp với bản chất và đặc tính
của nhà nớc Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam:
- Tài phán hành chính là tổ chức hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính
phát sinh khi có đơn khởi kiện vụ án hành chính giữa cơ quan công quyền và công
dân, tổ chức.

- Hoạt động tài phán hành chính phải tuân theo trình tự thủ tục do pháp luật tố
tụng hành chính quy định chứ không phải tuân theo thủ tục hành chính.
- Cơ quan tài phán hành chính ở nớc ta là Toà hành chính thuộc hệ thống tào
án nhân dân.
- Đối tợng của tài phán hành chính ở nớc ta là các quyết định hành chính bị
công dân khởi kiện sau khi đợc cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục hành chính nhng không thoả mãn yêu cầu của họ.
- Bên bị khởi kiện trong vụ án hành chính luôn là cơ quan nhà nớc hoặc cán bộ
công chức nhà nớc.
Thẩm quyền xét xử hành chính của toà án: Tại Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính đợc sửa đổi bổ sung thì thẩm quyền giải quyết các vúan
hành chính nh sau:
- Khiếu kiện quyết định xử phạt hành chính;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng
biện pháp tháo dỡ nhà ở, công trình, vật liệu kiến trúc kiên cố khác;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng
hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: Giáo dục tại
xã, phờng, thị trấn, đa vào trờng giáo dỡng; cơ sở giáo dục
- Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ công chức giữ chức vụ từ
vụ trởng và tơng đơng trở xuống.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý
đất đai.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy
phép về xây dựng cơ bản, sản xuất kinh doanh.
- Khiếu kiện hành chính, hành vi hành chính trong việc trng dụng, trng thu, tr-
ng mua, tịch thu tài sản;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc thu phí, lệ
phí;
- Các khiếu kiện khác theo quy định pháp luật.
Nh vậy, áp dụng vào tình huống nêu trên ta thấy: Quyết định số

01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh là quyết
định hành chính của cơ quan nhà nớc có thẩm quyền. Tuy nhiên, xét về hình thức
(tiêu đề) của Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân
huyện Chí Linh thì đây là quyết định về việc thu hồi tiền đóng góp làm đờng điện
cho hai xã Đa Lợi và An Nĩnh chi sai mục đích sung vào ngân sách huyện Chí
Linh Còn nội dung của quýêt định là thu hồi sung vào ngân sách huyện khoản
tiền mà Ông Quân và bà Hạnh chi sai mục đích không có chứng từ hợp pháp (từ
nguồn đóng góp xây dựng đờng điện của nhân dân xã Đa Lợi và xa An Nĩnh) là
19.750.000 đồng để đầu t xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo đề nghị
của hai xã nói trên. Nh vậy xét về cả hình thức và nội dung thì Quyết định số
01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh không
phải quyết định tịch thu tài sản (của ông Quân và bà Hạnh) nên việc khiếu kiện
không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính. Số tiền trên
không phải là tài sản riêng của Ông Quân và bà Hạnh mà là tiền của nhân dân hai
xã đóng góp mà có và tự nguyện giao cho Ban điện để liên hệ làm đờng điện cho
hai xã nói trên. Ông Quân và bà Hạnh chỉ đợc giao quản lý, sử dụng số tiền tiền
này. Vì vậy, nếu ngời có thẩm quyền đã có đủ căn cứ để xác định Ông Quân và bà
Hạnh chi tiêu số tiền trên không đủ chứng từ hợp pháp thì có quyền buộc các ông
này nộp lại (thu hồi lại), số tiền trên. Trong trờng hợp này, Uỷ ban nhân dân huyện
Chí Linh đã quyết định thu hồi lại số tiền 19.750.000 đồng, mà Uỷ ban nhân dân
huyện cho rằng Ông Quân và bà Hạnh chi không đủ chứng từ hợp pháp, sung vào
ngân sách huyện để đầu t xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo yêu câud
của hai xã nói trên. Vì vậy không thể đồng nhất khái niệm thu hồi tài sản với khái
niệm tịch thu tài sản đối với số tiền nói trên với lý do thu hồi sung vào ngân sách
huyện có nghĩa là tịch thu tài sản.
Toà án nhân dân huyện Chí Linh (tại quyết định hành chính sơ thẩm số
03/QĐ-ĐC-HC ngày 28-11-2002); Toà án nhân dân tỉnh Hải Dơng (tại quyết định
hành chính phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003) và Toà Hành chính Toà
án nhân dân tối cao (tại Quyết định số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003) đã căn cứ vào
điểm g, khoản 1 Điều 41 Pháp lênh Thủ tục gải quyết các vụ án để ra quyết định

đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do việc khiếu kiện của Ông Quân và bà Hạnh
đối với Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 Uỷ ban nhân dân huyện
Chí Linh không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà bằng vụ án hành chính là có
căn cứ và đúng pháp luật.
III. Những kiến nghị
Trong giai đoạn vừa qua cải cách hành chính đã thu đợc những thành công
nhất định, tạo ra những bớc chuyển cơ bản hoạt động quản lý hành chính nhà nớc ở
nớc ta. Tuy nhiên nền hành chính của nớc ta vẫn còn nhiều hạn chế nh: Chức năng
nhiệm vụ quản lý của bộ máy hành chính trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa cha đợc xác định rõ và phù hợp, hệ thống thể chế hành chính cha
đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất, tổ chức bộ máy con cồng kềnh, nhiều
tầng nấc, phân tán, cha thông suốt, đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều điểm yếu
về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính,
quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, bộ máy hành chính ở địa phơng và cơ
sở cha thực sự gắn bó với dân, không nắm chắc những vấn đề nổi cộm trên địa bàn,
lúng túng, bị động khi xử lý các tình huống phức tạp.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, tôi xin đợc đa ra một số kiến nghị nhằm
góp phần xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên
nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa dới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát
triển đất nớc:
1. Hoàn thiện hơn hệ thống thể chế hành chính, cơ chế chính sách phù hợp với
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, trớc hết là các thể chế về kinh tế, về
tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính.
2. Xoá bỏ về cơ bản các thủ tục mang tính rờm rà, quan liêu, gây phiền hà cho
doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo hớng công
khai, đơn giản và thuận tiện cho dân.
3. Xác định và thực hiện đợc các quy định mới về phân cấp quản lý hành
chính giữa Nhà nớc giữa Trung ơng và địa phơng, giữa các cấp chính quyền địa ph-

ơng.
4. Đào tạo, lựa chọn, sử dụng đội ngũ công chức có chất lợng, cơ cấu hợp lý
chuyên nghiệp, hiện đại. Cán bộ, công chức phải có phẩm chất tốt và đủ năng lực
thi hành công vụ, tận tuỵ phục vụ sự nghiệp phát triển đất nớc và phục vụ nhân dân.
5. Nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động tài phán hành chính để bảo vệ hoặc
phục hồi quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan nhà nớc và tổ chức, góp phần
nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nớc.
Kết luận
Nền hành chính nhà nớc là bộ phận trọng yếu của hệ thống chính trị của giai
cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong xã hội. Quản lý hành chính nhà
nớc là biểu hiện quan trọng và tập trung nhất của toàn bộ hoạt động của nhà nớc
trong qua trình phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Đối tợng quản lý hành chính
nhà nớc là toàn dân, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã
hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, tinh thần, t tởng,
Chính vì tầm quan trọng đó đã đòi hỏi phải cải cách nền hành chính nhà nớc.
Đó không chỉ là sự đòi hỏi từ bên ngoài đối với nền hành chính nhà nớc mà còn là
sự đòi hỏi của chính bản thân nền hành chính. Đó cũng chính là cách thức làm cho
bộ máy hành chính nhà nớc hoạt động có hiệu quả, nhằm xây dựng nền hành chính
đáp ứng đòi hỏi của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển bền vững với các mục tiêu
dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Chơng trình cải cách tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 ban
hành kèm theo Quyết định số 136/QĐ-TTG ngày 17-09-2001 của Thủ tớng Chính
Phủ đã đa ra mục tiêu chung là: xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo
nguyên tắc của Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa dới sự lãnh đạo cuả Đảng;
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của
công cuộc xây dựng, phát triển đất nớc. Theo quyết định số 94/2006/QĐ-TTg của
Thủ tớng Chính phủ ngày 27 tháng 4 năm 2006 phê duyệt Kế hoạch cải cách hành
chính giai đoạn 2006-2010 cũng có nội dung cải cách nh: cải cách về thể chế, cải
cách về tổ chức, xây dựng và nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ, công chức, cải

cách tài chính công, hiện đại hoá nền hành chính nhà nớc
Tuy nhiên, dù bằng bất cứ hình thức hay phơng pháp nào cũng đều nhằm mục
đích làm cho bộ máy hành chính nhà nớc hoạt động có hiệu quả, nhằm xây dựng
nền hành chính đáp ứng đòi hỏi của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển bền vững
với các mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Do phạm vi của tiểu luận rất rộng lớn và phức tạp, trình độ nhận thức cũng
nh về thời gian còn hạn chế, mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định, rất mong nhận đợc sự đóng góp và nhận xét chân thành
quý báu của các Thầy Cô và các bạn học viên, tiểu luận này hoàn thiện hơn.
Cũng thông qua tiểu luận luận này, xin đợc bày tỏ lòng biết ơn chân thành
đến các Thày cô, các bộ phận quản lý đào tạo của Học Viện Hành chính Quốc gia
cũng nh của Trờng Đại học Lâm nghiệp đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành khoá học.


Hồ sơ bàn giao sách

×