Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Chế định xóa án tích trong luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.97 KB, 56 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xóa án tích là một chế định quan trọng thể hiện nguyên tắc cơ bản của
pháp luật hình sự Việt Nam – nguyên tắc nhân đạo. Với chế định này, Nhà nước
ta đã ghi nhận sự nỗ lực cải tạo của người phạm tội nhằm xóa bỏ đi vết nhơ đã
từng bị kết án của mình, từ đó, giúp xóa bỏ thành kiến của xã hội đối với người
phạm tội, giúp họ sớm hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho
xã hội. Vì vậy, quy định về xóa án tích có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với
người phạm tội mà còn giúp xã hội ngày càng phát triển và văn minh.
Kế thừa và phát triển Bộ luật hình sự 1985, Bộ luật hình sự 1999 là bước
phát triển mới trong việc giải quyết vấn đề án tích và xóa án tích trong luật hình
sự nước ta. Nhiều quy phạm của chế định xóa án tích đã được sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng pháp luật đấu
tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả như phân định lại đối tượng áp dụng,
thời hạn xóa án tích trong từng trường hợp xóa án tích... Tuy nhiên, một số quy
định về chế định xóa án tích trong Bộ luật hình sự hiện hành, ở những mức độ
khác nhau, bộc lộ những thiếu sót và chưa rõ ràng như thiếu văn bản hướng dẫn
về xóa án tích, quy định về thời hạn xóa án tích... dẫn đến việc nhận thức và áp
dụng quy định về xóa án tích không thống nhất giữa các Tòa án.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề
lý luận và thực tiễn liên quan đến chế định xóa án tích, trên cơ sở đó đưa ra
những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự hiện hành và giải quyết
những vướng mắc của thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự là việc rất cần thiết,
không những có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa cả về
thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Vì vậy, em lựa chọn vấn đề "Chế định xóa án tích trong luật hình sự
Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho Khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong giới khoa học luật hình sự, chế định xóa án tích chưa thực sự được
quan tâm nghiên cứu. Hiện nay, mới có một số tác phẩm hướng tới nghiên cứu
chế định xóa án tích như:


- "Chế định xóa án tích trong Bộ luật hình sự năm 1999" của Nguyễn Thị Minh
Phương, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân năm 2001.
- "Chế định xóa án tích trong luật hình sự Việt Nam" của Nguyễn Thị Lan, Khóa
luận tốt nghiệp cử nhân năm 2003, Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà
Nội.
1
Cũng như một số bài viết trong Giáo trình Luật Hình sự và các cuốn bình
luận khoa học Bộ luật hình sự do các tác giả khác nhau thực hiện. Các công
trình nghiên cứu khoa học trên đã đưa ra những bàn luận và giải quyết được
một số vấn đề mà lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đặt ra. Tuy
nhiên, một số quy định về xóa án tích vẫn chưa đạt đến sự đồng thuận và gây ra
nhiều tranh cãi trong giới khoa học luật hình sự hiện nay.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: Mục đích của khóa luận là làm sáng tỏ một cách có hệ thống
về mặt lý luận những nội dung cơ bản của chế định xóa án tích theo pháp luật
hình sự Việt Nam, xác định những bất cập trong thực tiễn để đề xuất những giải
pháp tiếp tục hoàn thiện chế định trong thời gian tới và nâng cao hiệu quả của
cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu chế định xóa án tích theo
luật hình sự Việt Nam dưới góc độ Luật hình sự. Đồng thời, cũng đề cập đến
một số quy phạm của Luật tố tụng hình sự, Luật Lý lịch tư pháp nhằm phân
tích rõ quy định về xóa án tích. Khóa luận tập trung chỉ ra quy định về xóa án
tích theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành nhưng trên cơ sở
có đối chiếu, so sánh với quy định về xóa án tích theo pháp luật hình sự trước
kia nhằm thấy rõ sự phát triển cũng như những điểm hạn chế còn tồn tại của
quy định về xóa án tích hiện hành.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của khóa văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên

cứu cụ thể như phương pháp hệ thống, lịch sử, lôgíc, phân tích, so sánh, tổng
hợp… để nghiên cứu khóa luận.
5. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về xóa án tích
Chương 2: Chế định xóa án tích theo quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam hiện hành
2
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÓA ÁN TÍCH
1. 1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự chế định Xóa án tích
1.1.1. Thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985
Vấn đề án tích mặc dù được định hình từ rất sớm trong hệ tư tưởng của
người dân Việt Nam nhưng để được pháp điển hóa trong hệ thống pháp luật thì
vấn đề án tích cũng như xóa án tích chưa được quan tâm trong thời kỳ trước khi
ban hành BLHS năm 1985. Tuy vậy, vấn đề xóa án tích cũng được đề cập rải
rác trong một số văn bản pháp luật như Sắc lệnh 21/SL ngày 14 tháng 2 năm
1946 quy định về xóa án tích đối với người được hưởng án treo. Tại Điều 10
Sắc lệnh 21/SL có quy định: “Nếu trong 05 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội
nhân không bị Tòa án quân sự làm tội một lần nữa về một việc mới thì bản án đã
tuyên sẽ hủy đi, coi như không có”. Tinh thần của điều luật này chính là người
phạm tội đương nhiên được coi như chưa can án nếu họ không bị kết án bằng
một bản án mới trong thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày tuyên án cũ.
Tinh thần này tiếp tục được ghi nhận tại Thông tư 2308/NCLP ngày 1/12/1961
của Tòa án nhân dân Tối cao về xóa án đối với người được hưởng án treo với
nội dung: “Nếu hết thời gian thử thách mà người bị phạt án treo không phạm tội
gì mới thì sẽ coi như không có tiền án. Những hình phạt phụ mà Tòa án có thể đã
tuyên như cấm cư trú hoặc cư trú bắt buộc cũng đương nhiên được xóa bỏ. Nếu
phạm tội mới không cùng tính chất và nhẹ hơn tội cũ thì khi hết thời gian thử

thách, bản án treo cũ cũng vĩnh viễn không phải chấp hành nữa”. Công văn số
1082/NCLP của Tòa án nhân dân tối cao ngày 5/7/1963 cũng đã khẳng định:
“Tòa án không thể coi một người đã bị án treo nhưng đã được xóa bỏ, nay lại
phạm tội mới, như là tái phạm”. Như vậy, từ rất sớm, xóa án tích đã được ghi
nhận là một trong những nguyên tắc xử lý hình sự quan trọng trong Luật hình sự
Việt Nam. Theo các quy phạm hình sự trong thời kỳ này thì xóa án tích đối với
người được hưởng án treo được hiểu chính là xóa đi bản án cũ đã tuyên, coi như
bản án không có nếu người bị kết án không phạm tội mới trong thời gian thử
thách và sẽ không bị áp dụng tình tiết tái phạm trong lần phạm tội sau.
3
1.1.2. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 1999
Đến lần pháp điển hóa pháp luật hình sự lần đầu tiên của nước ta, vấn đề
án tích và xóa án tích đã được ghi nhận chính thức trong văn bản pháp lý có hệ
thống và có giá trị pháp lý cao – Bộ luật Hình sự năm 1985 từ Điều 52 đến
Điều 56 tại Chương “Việc quyết định hình phạt, miễn, giảm hình phạt” với tên
gọi là “Xóa án”. BLHS năm 1985 đã quy định cụ thể các trường hợp xóa án,
điều kiện xóa án, thời hạn xóa án cũng như cách tính thời hạn xóa án. Có bốn
trường hợp xóa án gồm đương nhiên xóa án (Điều 53), xóa án theo quyết định
của Tòa án (Điều 54), xóa án trong trường hợp đặc biệt (Điều 55), xóa án trong
trường hợp người chưa thành niên phạm tội (Điều 67). Việc phân định người
phạm tội sẽ phải xin xóa án theo trường hợp nào không chỉ phụ thuộc vào loại
tội phạm mà người đó đã phạm mà còn căn cứ vào loại và mức hình phạt đã
tuyên với người phạm tội. Theo đó, đương nhiên xóa án chỉ được áp dụng đối
với những người bị kết án về tội không phải là tội đặc biệt nguy hiểm xâm
phạm an ninh quốc gia (Mục A Chương I Phần các tội phạm BLHS năm 1985)
hoặc các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh
(Chương XII Phần các tội phạm BLHS năm 1985) và án không phải phạt tù như
cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc án phạt tù nhưng cho hưởng án
treo và án phạt tù đến năm năm. Còn mọi tội phạm nếu bị tuyên áp dụng hình

phạt trên năm năm tù và tội phạm thuộc Mục A Chương I và Chương XII Phần
các tội phạm BLHS năm 1985 đều phải có quyết định của Tòa án thì mới được
xóa án. Trong mỗi trường hợp xóa án đều có quy định hai phân mức thời hạn xóa
án: ba năm hoặc năm năm đối với trường hợp đương nhiên xóa án; năm năm
hoặc mười năm đối với trường hợp xóa án theo quyết định của Tòa án. Trong
trường hợp xóa án theo trường hợp đặc biệt, người bị kết án phải bảo đảm được
từ một phần ba đến một nửa thời hạn quy định. Thời hạn để xoá án đối với người
chưa thành niên là một nửa thời hạn xóa án quy định ở các Điều từ 53 đến Điều
55 của BLHS năm 1985. Thời hạn xóa án được tính từ ngày chấp hành xong bản
án hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành án và nếu chưa xoá án mà phạm tội mới
thì thời hạn để xoá án cũ tính từ ngày chấp hành xong bản án mới.
Năm 1986, Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã ban hành Thông tư liên
4
ngành số 02/TTLN ngày 01/8/1986 (được sửa đổi bổ sung tại Thông tư liên
ngành số 03/TTLN ngày 15/7/1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ) về việc xóa án, hướng dẫn cụ thể về
thẩm quyền xóa án, điều kiện cụ thể xóa án, thủ tục xóa án trong từng trường
hợp xóa án và trong một số trường hợp đặc biệt cụ thể. Theo đó, người phạm
tội muốn xin xóa án thì phải nộp đơn xin xóa án cho Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc
xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm tội phạm cũ của mình, kèm theo các giấy
tờ chứng minh về việc chấp hành xong bản án và không phạm tội mới trong
thời hạn xóa án tích của mình. Trong trường hợp xóa án theo quyết định của
Tòa án hoặc trong trường hợp đặc biệt thì cần thêm giấy tờ nhận xét về thái độ
chấp hành pháp luật của người phạm tội tại địa phương. Tòa án sẽ tiến hành xác
minh và cấp Giấy chứng nhận xóa án hoặc Quyết định xóa án.
Mặc dù là đây là lần pháp điển hóa đầu tiên nhưng có thể nói, BLHS năm
1985 và các văn bản hướng dẫn đã tạo một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ
và rõ ràng về việc xóa án, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xóa án của
những người phạm tội. Điều này thể hiện sự đánh giá đúng mức vai trò, vị trí của

chế định xóa án trong pháp luật hình sự của Nhà nước ta, thể hiện sự ghi nhận
của Nhà nước đối với những cố gắng cải tạo hoàn lương của người phạm tội,
khuyến khích người phạm tội nhanh chóng xóa bỏ mặc cảm lỗi lầm, hòa nhập
cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, điểm hạn chế của chế
định “Xóa án” là chưa đưa ra được khái niệm pháp lý về án tích và xóa án, đồng
thời sự phân hóa về tội phạm trong quy định thời hạn xóa án chưa rõ rệt.
1.1.3. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ Luật hình sự năm 1999 đến nay
Đến BLHS năm 1999 - lần pháp điển hóa pháp luật hình sự lần thứ hai,
quy định về xóa án tích đã được ghi nhận với sự đổi mới toàn diện hơn, cụ thể:
Điều đóng góp đáng ghi nhận trước hết của Bộ luật hình sự năm 1999
trong quy định về xóa án tích là việc thay đổi thuật ngữ “Xóa án” trong BLHS
năm 1985 bằng thuật ngữ “Xóa án tích”. Điều này không những có ý nghĩa lý
luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn. Bởi, thuật ngữ “Xóa án” dễ gây
ra cách hiểu xóa án tích chính là xóa đi bản án mà Tòa án đã tuyên đối với
người phạm tội. Trong khi đó, thuật ngữ “Xóa án tích” lại khẳng định bản chất
của xóa án tích là chỉ xóa đi vết tích từng bị kết án của người phạm tội chứ
không thể xóa đi bản án mà Tòa án đã tuyên đối với người phạm tội như quan
điểm truyền thống về xóa án tích trước kia.
5
Hơn nữa, từ việc quy định xóa án tích trong chế định “Việc quyết định
hình phạt, miễn và giảm hình phạt” thì đến BLHS năm 1999, án tích đã trở
thành một chế định riêng biệt: Chương IX “Xóa án tích” – chương tách từ
chương “Việc quyết đinh hình phạt, miễn và giảm hình phạt” trong BLHS năm
1985, với 05 điều từ Điều 63 đến Điều 67 và Điều 77 quy định riêng đối với
người chưa thành niên. Sự thay đổi này cho thấy sự quan tâm của Nhà nước, đề
cao vai trò, vị trí quan trọng của chế định “Xóa án tích” trong pháp luật hình sự
Việt Nam. Điều này cũng xuất phát từ chính bản chất của án tích. Án tích là
giai đoạn cuối cùng của việc xử lý hình sự với tội phạm. Nó không được thực
hiện trong giai đoạn xét xử như việc quyết định hình phạt, cũng không thuộc
giai đoạn thi hành án như việc hoãn hay miễn chấp hành hình phạt. Vì vậy, việc

tách xóa án tích thành chế định riêng so với “Quyết định hình phạt, miễn và
giảm hình phạt” là điều hợp lý về kỹ thuật lập pháp.
BLHS năm 1999 vẫn giữ nguyên bốn trường hợp xóa án tích chính, tuy
nhiên đã có sự mở rộng phạm vi với nhiều mức độ thời hạn và đối tượng được
áp dụng các trường hợp xóa án tích. So với quy định tại Điều 53 BLHS năm
1985 về đương nhiên được xóa án thì quy định tại Điều 64 BLHS năm 1999
cho thấy tất cả các mức án về các tội không phải là những tội quy định tại
Chương XI “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia” và Chương XXIV “Các tội
phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh” đều thuộc diện
đương nhiên được xóa án tích. Trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa
án chỉ dành riêng cho những tội phạm thuộc chương XI và chương XXIV của
BLHS năm 1999. Như vậy, việc người bị kết án được xóa án tích theo trường
hợp nào chỉ phụ thuộc vào loại tội phạm mà họ đã thực hiện mà không phụ
thuộc vào loại và mức hình phạt mà họ phải gánh chịu. Quy định này xuất phát
từ quan điểm việc quyết định hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không chỉ
là tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà còn là nhân thân người phạm
tội,vai trò đồng phạm, yếu tố tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… Còn
việc quy định thời hạn xóa án tích – chính là khoảng thời gian thử thách mà
người phạm tội phải vượt qua để chứng minh sự cải tạo, tinh thần nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật và thực sự hoàn lương lại cần căn cứ nhiều vào tính chất
nguy hiểm của hành vi phạm tội mà người phạm tội đã thực hiện. Việc có ý
thức phạm tội các tội phạm thuộc Chương XI và Chương XXIV – những tội
6
phạm có tính nguy hiểm cao đối với an ninh quốc gia, xã hội và loài người cho
thấy việc xóa án tích cho những tội phạm này cũng cần phải nghiêm ngặt, chặt
chẽ hơn so với các tội phạm khác.
Đồng thời, Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng rút ngắn thời hạn xóa án tích
trong các trường hợp so với trước đây. Theo BLHS năm 1985 (sửa đổi, bổ sung
năm 1989), đối với người bị phạt tù nhưng được hưởng án treo phải sau ba năm
kể từ ngày hết thời hạn thử thách mới được xóa án tích thì nay thời hạn này chỉ

còn một năm. Thời hạn một năm cũng được áp dụng để xóa án tích đối với
những người bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ thay cho quy
định là ba năm như luật cũ. Thời hạn để xóa án tích trong trường hợp xóa án
tích đặc biệt cũng được rút xuống từ cần “đảm bảo ít nhất từ một phần ba đến
một phần hai thời hạn” xuống còn cần “đảm bảo ít nhất một phần ba thời hạn”
quy định. Quy định này thể hiện rõ sự đề cao tính chất nhân đạo trong chính
sách hình sự của Việt Nam.
Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng quy định cụ thể từng mức thời hạn xóa
án tích phụ thuộc vào từng loại tội và mức hình phạt. Đối với trường hợp
đương nhiên được xóa án tích, thời hạn xóa án tích có thể là một năm, ba năm,
năm năm hoặc bảy năm. Còn đối với trường hợp xóa án tích theo quyết định
của Tòa án, thời hạn này là ba năm, bảy năm hoặc mười năm. Điều này phù hợp
với chính sách phân hóa tội phạm được quy định tại khoản 2 Điều 8 BLHS năm
1999 cũng như tạo khả năng để những người phạm tội ít nghiêm trọng sớm hòa
nhập cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội.
Cách tính thời hạn xóa án tích của BLHS năm 1999 đã được kế thừa từ
quy định tính thời hạn xóa án trong BLHS năm 1985.
Đến năm 2009, BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung nhưng những
quy định về án tích và xóa án tích vẫn được giữ nguyên.
Như vậy, trong lần pháp điển hóa pháp luật hình sự lần thứ hai này, chế
định xóa án tích đã được quy định một cách toàn diện, chặt chẽ và hợp lý hơn.
Điều này không chỉ thể hiện sự nâng cao trong kỹ thuật lập pháp mà còn thể
hiện chính sách nhân đạo cũng như sự phân hóa tội phạm ngày càng cao trong
pháp luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, BLHS năm 1999 vẫn chưa đưa ra được
khái niệm pháp lý chuẩn mực về án tích và xóa án tích cũng như một số quy
định chưa thực sự hoàn thiện, đã gây nhiều khó khăn cho việc áp dụng thống
nhất quy định của pháp luật.
1.2. Lý luận chung về xóa án tích
7
1.2.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý của án tích

a. Khái niệm và bản chất của án tích
Án tích là chế định quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam, đã
được pháp điển hóa lần đầu tiên trong Bộ luật Hình sự năm 1985 bằng chế định
“Xóa án” và được tiếp tục ghi nhận tại chế định “Xóa án tích” trong Bộ luật
Hình sự năm năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Tuy vậy, cho đến nay,
khái niệm án tích chưa bao giờ được ghi nhận trong pháp luật hình sự của Việt
Nam. Việc BLHS không đưa ra một khái niệm án tích đã dẫn đến không ít
những cách hiểu khác nhau về khái niệm án tích cũng như bản chất pháp lý của
án tích trong khoa học luật hình sự.
Quan điểm thứ nhất cho rằng “Án tích là hậu quả pháp lý mà người phạm
tội phải chịu khi bị Tòa án kết án (tuyên một bản án buộc tội) theo đó người này
có thể trở thành đối tượng bị áp dụng tình tiết tái phạm hoặc tái phạm nguy
hiểm khi phạm tội mới”
1
. Quan điểm này đã nêu lên được hậu quả pháp lý của
án tích chính là người mang án tích có thể bị áp dụng tình tiết tái phạm, tái
phạm nguy hiểm theo Điều 49 BLHS năm 1999. Tuy nhiên, quan điểm này
chưa thực sự hợp lý vì án tích không phải luôn luôn là hậu quả pháp lý của việc
bị kết án. Trong một số trường hợp, án tích vẫn có thể được loại bỏ khi người bị
kết án không phải chịu hình phạt như trường hợp được miễn hình phạt hoặc chỉ
bị áp dụng biện pháp tư pháp.
Quan điểm thứ hai khẳng định “Án tích là khoảng thời gian nhất định
buộc người phạm tội sau khi chấp hành xong bản án phải phấn đấu tu dưỡng để
được xóa bỏ mặc cảm của xã hội, xóa bỏ lai lịch rằng mình đã can án và trường
hợp nếu họ phạm tội mới thì không bị coi là tái phạm, tái phạm nguy hiểm”
2
.
Quan điểm này mới chỉ nhấn mạnh được ý nghĩa pháp lý của án tích mà chưa
chỉ rõ được các đặc điểm pháp lý của án tích như bản chất án tích, đối tượng
của án tích…

Quan điểm thứ ba cho rằng “Án tích là vết tích đã từng bị kết án của
người phạm tội, xuất hiện khi người đó đã chấp hành xong hình phạt và được
xóa khi đáp ứng đủ các điều kiện Bộ luật hình sự quy định hoặc tồn tại một khi
người đã bị kết án dù đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa đáp ứng được
1 Xem: TS. Phạm Hồng Hải, “Một vài ý kiến về chế định tái phạm và tái phạm nguy hiểm theo quy định trong
Bộ luật hình sự năm năm 1999”, tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2001, tr.14.
2 Xem: Ths. Phùng Văn Ngân, “Hỏi và trả lời về luật Hình sự Việt Nam”, Học viện Cảnh sát nhân dân, NXB
Lao động – Xã hội, năm 2004, tr. 95.
8
những điều kiện được quy định trong Bộ luật hình sự và người đó còn phải chịu
tình tiết định khung tăng nặng hình phạt nếu phạm tội trong thời gian mang vết
tích đã từng bị kết án hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự về những hành vi vi
phạm pháp luật mà theo quy định của Bộ luật Hình sự vết tích đã từng bị kết án
là yếu tố điều kiện cấu thành tội phạm”
1
. Quan điểm này đã chỉ ra khá đầy đủ
hậu quả pháp lý của việc mang án tích nhưng lại chưa chỉ ra được bản chất của
án tích. Bởi án tích nếu chỉ hiểu là “vết tích đã từng bị kết án” thì mới chỉ hiểu
được nội hàm nghĩa đen của thuật ngữ “án tích” mà chưa hiểu được hết bản
chất pháp lý của án tích.
Quan điểm thứ tư lại khẳng định “Án tích là hậu quả pháp lý của việc
người bị kết án bị áp dụng hình phạt theo bản án kết tội có hiệu lực pháp luật
của Tòa án và là giai đoạn cuối cùng của việc thực hiện trách nhiệm hình sự,
được thể hiện trong việc người bị kết án mặc dù đã chấp hành xong bản án
nhưng vẫn chưa hết án tích hoặc chưa được xóa án tích theo các quy định của
pháp luật hình sự”
2
.
Quan điểm thứ năm coi “Án tích là đặc điểm xấu về nhân thân của người
đã bị kết án và áp dụng hình phạt, được ghi và lưu lại trong lý lịch tư pháp trong

thời gian nhất định”, “là hậu quả pháp lý bất lợi cho người có đặc điểm đó”
3
.
Đây cũng là quan điểm mà người viết đồng tình, bởi, quan điểm này đã chỉ rõ
bản chất của án tích cũng như các đặc điểm pháp lý của án tích. “Án tích được
hiểu một cách bao quát và trước hết ở chỗ chủ thể đã bị kết án và áp dụng hình
phạt về một tội phạm nhất định và chưa được xóa án tích”
4
. Án tích bản chất
chính là một đặc điểm xấu về nhân thân của người phạm tội. Yếu tố nhân thân
của người phạm tội là tổng hợp các đặc tính, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội
của con người và việc mang án tích tức là “có tiền án” chính là đặc điểm pháp
lý hình sự được lưu trong lý lịch tư pháp thể hiện nhân thân không tốt của
người phạm tội. Án tích cũng chỉ tồn tại đối với người bị kết án và bị áp dụng
1 Xem: Ths. Hồ Sĩ Sơn, “Án tích theo BLHS năm 1999”, tạp chí Nhà nước & pháp luật số 12/2001, tr. 65.
2 Xem: PGS. TSKH. Lê Văn Cảm, sách chuyên khảo “Những vấn đề cơ bản trong khoa luật luật hình sự”
(Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005, tr. 829.
3 Xem: GS. TS Nguyễn Ngọc Hòa, sách “Từ điển pháp luật hình sự”, GS. TS Nguyễn Ngọc Hòa, PGS. TS Lê
Thị Sơn (chủ biên), NXB Tư Pháp, 2006, tr. 7.
4 Xem: GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa, sách “Từ điển pháp luật hình sự”, tr.7 (đã dẫn).
9
hình phạt trong một thời gian nhất định. Và việc mang án tích sẽ mang lại nhiều
hậu quả pháp lý bất lợi cho người mang án tích.
Như vậy, dựa trên các quan điểm về án tích trong giới khoa học luật hình
sự, có thể tổng quát bản chất của án tích chính là hậu quả pháp lý bất lợi đối với
người bị kết án và bị áp dụng hình phạt, tồn tại trong một thời gian nhất định và
được xóa khi đáp ứng đủ điều kiện của luật định. Trong thời gian mang án tích,
người đó có thể bị áp dụng các tình tiết tái phạm hay tái phạm nguy hiểm với tư
cách tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết định khung hình phạt
hoặc tình tiết định tội theo quy định của BLHS.

b. Đặc điểm pháp lý của án tích
b.1. Án tích chính là đặc điểm xấu về nhân thân chứng tỏ người có án tích
đã từng bị kết án vì đã phạm tội
Mỗi người phạm tội ngoài việc phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi
được tuyên trong bản án thì còn phải gánh chịu dấu vết chứng tỏ mình đã bị kết
án, đã bị buộc tội bằng một bản án của Tòa án. Đây là đặc điểm nhân thân của
người bị kết án, có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá nhân thân của người
phạm tội tốt hay xấu, từ đó, có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá tính chất
nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như quyết định hình phạt, định khung
hình phạt.
b.2. Án tích là hậu quả pháp lý bất lợi được áp dụng đối với người bị kết
án và bị áp dụng hình phạt
Không phải bất cứ người phạm tội và bị kết án nào cũng có án tích. Đối
tượng mang án tích chỉ là những người bị kết án bằng một bản án của Tòa án và
bị tuyên áp dụng hình phạt. Bởi người bị kết án nhưng được áp dụng các biện
pháp tư pháp như đưa vào trường giáo dưỡng, giáo dục tại phường, xã, thị trấn
theo quy định tại Điều 70 BLHS hay biện pháp buộc công khai xin lỗi, bồi
thường thiệt hại theo quy định tại Điều 42 BLHS sẽ không phải chịu hậu quả
pháp lý này. Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản đánh giá mức độ nghiêm khắc
của hình phạt so với các biện pháp tư pháp khác, thể hiện rõ tính chất “là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước” của hình phạt (Điều 26
BLHS năm 1999).
Sự bất lợi của việc mang án tích đối với người bị kết án và bị áp dụng
hình phạt được thể hiện ở nhiều phương diện, cụ thể:
Thứ nhất, người mang án tích, trong lý lịch tư pháp cũng như các giấy tờ
chứng thực về nhân thân của người phạm tội sẽ ghi “có tiền án”, đồng thời chỉ
10
rõ loại tội phạm cũng như hình phạt dành cho người phạm tội đó. Khi đó, án
tích như một “vết nhơ” trong lý lịch của người phạm tội, dẫn tới sự kì thị của
xã hội cũng như khó khăn trong quá trình sinh hoạt, tham gia hoạt động xã hội,

kinh tế của chính những người phạm tội.
Hơn nữa, do tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà trong một số
lĩnh vực, pháp luật hạn chế quyền của người phạm tội còn mang án tích. Ví dụ:
Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định về điều kiện của người nhận
nuôi con nuôi thì người “chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc
hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình;
dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua
bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em” sẽ không được nhận nuôi con nuôi.
Khoản 4 Điều 17 Luật Luật sư năm 2006 cũng quy định về điều kiện
được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư thì người “đã bị kết án mà chưa được
xoá án tích về tội phạm do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý; đã bị kết
án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý” thì không được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư.
Quy định này xuất phát từ chính yêu cầu phòng ngừa tội phạm trong
chính sách hình sự Việt Nam.
Thứ hai, việc mang án tích có thể là căn cứ để xác định hành vi phạm tội
mới là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. Từ đó, người mang án tích sẽ có thể
bị áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự, tình tiết định khung hình phạt hay yếu tố định tội.
Điều 49 BLHS năm 1999 quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm với
nội dung:
“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại
phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do
vô ý.
2. Những trường hợp sau đây thì coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý,
chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.”

11
Như vậy, dấu hiệu “chưa xóa án tích” – mang án tích chính là dấu hiệu
quan trọng để xem xét hành vi phạm tội của người phạm tội có tái phạm hay tái
phạm nguy hiểm hay không. Dấu hiệu tái phạm, tái phạm nguy hiểm này sẽ là
căn cứ để xác định có áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy
định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS hay tình tiết định khung hình phạt hay
không. Ví dụ như Tội giết người (khoản 1 Điều 83 BLHS năm 1999 “Người
nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười
hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: Tái phạm, tái phạm
nguy hiểm”), Tội hiếp dâm (điểm i khoản 2 Điều 111 BLHS năm 1999 “Phạm
tội một trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười năm
lăm năm: i) Tái phạm nguy hiểm”), Tội hiếp dâm trẻ em (điểm d khoản 2 Điều
112), Tội cưỡng dâm (điểm g khoản 2 Điều 113) … Khi có dấu hiệu còn án tích
và tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì hành vi phạm tội thường bị áp dụng theo
khung hình phạt tăng nặng.
Đối với một số cấu thành tội phạm, dấu hiệu “chưa xóa án tích” trở thành
một trong những yếu tố định tội. Ví dụ: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
(khoản 1 Điều 137 BLHS “Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người
khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai
triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá
án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”), Tội trộm cắp
tài sản (khoản 1 Điều 138 “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá
trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm”), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (khoản 1 Điều 139)...
Như vậy, việc mang án tích đã dẫn đến nhiều hậu quả bất lợi đối với
người mang án tích cả về mặt xã hội cũng như mặt pháp lý hình sự. Quy định

này thể hiện rõ tính chất nghiêm trị của pháp luật hình sự đối với những người
phạm tội, đặc biệt những người ngoan cố, tái phạm đã được khẳng định tại
Điều 3 BLHS năm 1999 “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan
cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền
12
hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính
chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng”.
b.3. Về thời điểm tồn tại của án tích
Án tích xuất hiện ngay sau khi người phạm tội bị Tòa án kết tội bằng một
bản án buộc tội đầu tiên – bản án sơ thẩm
1
. Có một số quan điểm cho rằng án
tích chỉ bắt đầu được tính từ khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật và những
người phạm tội mới trong thời gian kháng cáo, kháng nghị, chờ xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm sẽ không thể trở thành đối tượng có án tích
và sẽ không bị áp dụng những hậu quả pháp lý bất lợi do việc còn án tích như
bị áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm khi xét xử tội phạm mới.
Quan điểm này chưa thực sự hợp lý, bởi xét về bản chất của hành vi phạm tội
trong thời gian kháng cáo kháng nghị bản án thì tính chất nguy hiểm của hành
vi phạm tội mới trong thời gian này còn cao hơn nhiều so với hành vi phạm tội
sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, bởi hành vi đó thể hiện đậm nét sự chống
đối pháp luật, ý thức phạm tội cao của người phạm tội. Trong khi đó, thời gian
kháng cáo, kháng nghị lại không được coi là thời gian mang án tích, tức là sẽ
không thể xem xét việc áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như tái
phạm, tái phạm nguy hiểm… thì khi xét xử tội phạm mới, liệu có đánh giá
được đúng tính chất nguy hiểm của tội phạm mới được thực hiện trong thời
gian này, nhằm đưa ra phán quyết về hình phạt một cách đúng đắn, phù hợp với
tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội? Đặc biệt đối với trường hợp tình tiết
tái phạm là tình tiết có ý nghĩa định khung hình phạt hoặc là dấu hiệu cấu thành
tội phạm mới thì việc xác định thời điểm xuất hiện án tích theo quan điểm trên

sẽ làm bỏ sót tội phạm cũng như không đánh giá được hết mức độ nghiêm
trọng, nguy hiểm của hành vi phạm tội. Cũng tồn tại một quan điểm khác cho
rằng án tích chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian nhất định sau khi đã chấp
hành xong hình phạt mà không tồn tại trong thời gian chấp hành hình phạt
2
.
Quan điểm này lại mâu thuẫn với việc cho rằng án tích là đặc điểm nhân thân
“đã bị kết án và bị áp dụng hình phạt” của người phạm tội bởi thời điểm bắt đầu
mang đặc điểm nhân thân “bị kết án” của người phạm tội phải được tính từ khi
1 Xem: TS. Phạm Hồng Hải, “Một vài ý kiến về chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo quy định trong
BLHS năm 1999”, tạp chí Tòa án nhân dân số 04/2001, tr. 14.
2 Ths. Hồ Sĩ Sơn, “Án tích theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm năm 1999”, tr. 64 (đã dẫn).
13
có bản án buộc tội họ chứ không phải từ khi họ chấp hành xong hình phạt.
Đồng thời, quan điểm này sẽ gặp vướng mắc khi đánh giá tính chất của tội
phạm mới trong trường hợp người phạm tội đang chấp hành hình phạt lại phạm
tội mới. Khi đó, theo quan điểm này, liệu có hay không việc áp dụng các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như áp dụng tình tiết định khung hình
phạt hoặc yếu tố định tội đối với người phạm tội mới trong trường hợp này?
Việc kết án là một sự kiện khách quan và không gì có thể xóa bỏ được sự
kiện bị kết án của người phạm tội. Tuy nhiên, án tích lại không phải là đặc điểm
về nhân thân có tính chất vĩnh viễn. Với tính chất nhân đạo của chính sách hình
sự nhằm giúp xóa bỏ mặc cảm tội lỗi của người đã từng bị kết án, giúp họ tái
hòa nhập với cộng đồng, BLHS đã quy định, án tích chỉ tồn tại trong một thời
gian nhất định, và khi đáp ứng đủ điều kiện luật định thì án tích có thể được
xóa bỏ. Tùy từng loại tội phạm cũng như mức hình phạt mà pháp luật hình sự
đưa ra những điều kiện cụ thể về nhân thân (không phạm tội mới, ý thức cải
tạo, hòa nhập với xã hội), thời gian được xóa án tích, cũng như thủ tục được
xóa án tích. Như vậy, án tích chỉ tồn tại đến khi người phạm tội được cấp Giấy
chứng nhận hoặc Quyết định xóa án tích của Tòa án.

Tóm lại, án tích là chế định pháp lý quan trọng thể hiện việc đã từng bị
kết án của người bị kết án và bị áp dụng hình phạt, kéo dài trong một thời gian
nhất định và được xóa để trở thành người chưa bị kết án khi người này đáp ứng
được những điều kiện luật định.
Có thể nói, chế định án tích có ý nghĩa quan trọng trong pháp luật hình
sự Việt Nam không chỉ trên phương diện chính sách pháp luật mà còn cả trong
thực tiễn áp dụng pháp luật. Bởi vậy, việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định án
tích đã trở thành là nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc xây dựng pháp luật
hình sự hiện nay.
1.2.2. Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý của xóa án tích
1.2.2.1. Khái niệm và bản chất xóa án tích
Mặc dù xóa án tích đã được ghi nhận trong pháp luật thực định từ lần
pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng khái niệm xóa án tích vẫn chưa
được pháp điển hóa thành một điều khoản riêng của Bộ luật hình sự. Khái niệm
xóa án tích mới chỉ được đề cập tới trong khoa học Luật hình sự nước ta với
nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể:
14
Quan điểm thứ nhất cho rằng “xóa án tích là xóa bỏ bản án hình sự đối
với người đã bị Tòa án kết án, là thể hiện tính nhân đạo trong luật hình sự nước
ta, là để cho người bị kết án không mặc cảm tội lỗi của mình, tạo điều kiện làm
ăn sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng”
1
. Quan điểm này đã nêu bật
được ý nghĩa nhân đạo sâu sắc của chế định xóa án tích đối với người phạm tội.
Tuy nhiên, người viết không đồng tình với quan điểm này bởi nếu coi xóa án
tích chính là xóa bỏ bản án hình sự thì vô hình chung đã đánh đồng “án tích”
với “bản án hình sự”. Trong khi đó, bản chất của án tích không phải là bản án
hình sự mà chỉ là hậu quả pháp lý của việc từng bị kết án bằng bản án hình sự
đó mà thôi.
Quan điểm thứ hai cho rằng “xóa án tích là việc chấm dứt trách nhiệm

hình sự của người bị kết án do người đó được xóa án tích theo các quy định của
pháp luật hình sự trên cơ sở có sự xem xét và có quyết định của Tòa án công
nhận là chưa bị kết án”
2
. Quan điểm này đã giới hạn phạm vi chỉ hiểu xóa án
tích là trường hợp người bị kết án được xóa án tích khi có sự xem xét và quyết
định của Tòa án. Đây là quan điểm xóa án tích xuất phát việc đề xuất ý tưởng
phân biệt trường hợp “hết án tích” - đương nhiên được xóa án tích và trường
hợp “xóa án tích” – xóa án tích theo quyết định của Tòa án. Vì vậy, nếu hiểu
theo quan điểm này, rất dễ gây mâu thuẫn với các quy định về xóa án tích theo
BLHS năm 1999.
Quan điểm thứ ba cho rằng “xóa án tích là sự thừa nhận về mặt pháp lý
người bị kết án không còn mang án tích và vì vậy, không còn chịu hậu quả nào
do việc kết án mang lại”
3
. Quan điểm này đã chỉ ra được tính chất quan trọng
của xóa án tích – là sự “thừa nhận về mặt pháp lý” không còn án tích. Có thể
đối với xã hội, việc bị kết án của người phạm tội, bị coi là người có “tiền án”
không thể bị xóa bỏ trong tư tưởng của những người dân thì về mặt pháp lý, khi
đáp ứng đủ các điều kiện luật định, Nhà nước sẽ công nhận người bị kết án
chưa từng can án và sẽ công nhận mọi quyền lợi hợp pháp của người bị kết án
1 Xem: Đinh Văn Quế, sách “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm năm 1999” (phần chung), NXB TP. Hồ
Chí Minh, 2006, tr. 387.
2 Xem: PGS. TSKH. Lê Văn Cảm , sách chuyên khảo “Những vấn đề cơ bản trong khoa luật luật hình sự”
(Phần chung), tr. 834 (đã dẫn).
3 Xem: TS. Uông Chu Lưu, sách “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm năm 1999”, tập I, phần
chung, NXB Chính trị quốc gia, 2001, tr. 222.
15
với tư cách là một công dân bình thường. Tuy nhiên, quan điểm lại chưa chỉ rõ
về hậu quả pháp lý của sự “thừa nhận về mặt pháp lý” này.

Quan điểm thứ tư đã khẳng định: “Trong luật hình sự Việt Nam, khái
niệm xóa án tích được hiểu là xóa bỏ việc mang án tích thể hiện ở sự công nhận
coi như chưa bị kết án đối với người trước đó đã bị Tòa án xét xử, kết tội”
1
.
Người viết đồng tình quan điểm này bởi quan điểm này đã chỉ ra được bản chất
cơ bản của xóa án tích: đó là việc xóa bỏ đi án tích – đặc điểm nhân thân đã
từng bị kết án của người phạm tội và hậu quả pháp lý là người được xóa án tích
sẽ được công nhận là chưa bị kết án.
Như vậy, dựa trên việc nghiên cứu khái niệm, bản chất của án tích cũng
như việc tiếp thu những ưu điểm trong những quan điểm về xóa án tích trong
giới khoa học luật hình sự, người viết xin đưa ra một cách hiểu tổng quan về
xóa án tích. xóa án tích được hiểu là xóa bỏ việc mang án tích đối với người bị
kết án và bị áp dụng hình phạt, từ đó, công nhận họ coi như chưa bị kết án. Đây
là chế định nhân đạo trong luật hình sự nước ta, là để cho người bị kết án không
mặc cảm tội lỗi của mình, tạo điều kiện làm ăn sinh sống lương thiện, hòa nhập
với cộng đồng.
1.2.2.2. Đặc điểm pháp lý của xóa án tích
Mặc dù BLHS năm 1999 chưa đưa ra một khái niệm pháp lý rõ ràng về
xóa án tích nhưng Điều 63 BLHS năm 1999 đã nêu lên được đặc điểm pháp lý
cơ bản của xóa án tích:
“Người bị kết án được xóa án tích theo quy định tại các điều từ Điều 64
đến Điều 67 của Bộ luật này. Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án và
được Tòa án cấp giấy chứng nhận.”
a. Về đối tượng được xóa án tích
Theo Điều 63 BLHS năm 1999, xóa án tích được áp dụng đối với người
bị kết án. Người bị kết án ở đây cần được hiểu là người đã bị Tòa án kết án
bằng một bản án buộc tội
2
. Bản án buộc tội là bản án xác định bị cáo có tội

không kể bị cáo có bị áp dụng hình phạt hay không, không phụ thuộc vào việc
bản án đã có hiệu lực pháp luật hay chưa. Có quan điểm cho rằng người bị kết
án chỉ là những người đã được Tòa án kết án bằng một bản án buộc tội có hiệu
1 Nguyễn Thị Học, “Các chế định liên quan đến chấp hành hình phạt, chương XV”, Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2010, tr. 312.
2 Xem: TS. Uông Chu Lưu, sách “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm năm 1999”, tập I, phần
chung, NXB Chính trị quốc gia, 2001, tr. 171.
16
lực pháp luật. Tuy nhiên, nếu hiểu theo quan điểm này sẽ bỏ lọt tội phạm trong
trường hợp người phạm tội đã bị tuyên án lại phạm tội mới trong thời gian
kháng cáo, kháng nghị bản án.
Về nguyên tắc, Điều 63 BLHS năm 1999 quy định xóa án tích đối với
người bị kết án mà không phân biệt họ đã bị áp dụng hình phạt như thế nào.
Tuy vậy, khi xem xét các quy định của BLHS về đương nhiên xóa án tích (Điều
64 BLHS), xóa án tích theo quyết định của Tòa án (Điều 65) hay trong trường
hợp đặc biệt (Điều 66), xóa án tích đối với người chưa thành niên phạm tội
(Điều 77), ta có thể nhận thấy, người được miễn hình phạt sẽ đương nhiên được
xóa án tích ngay tại thời điểm bản án buộc tội có hiệu lực pháp luật, còn những
người được áp dụng các biện pháp tư pháp thì không áp dụng quy định về xóa
án tích. Đồng thời, trong quy định về thời hạn xóa án tích trong các trường hợp
xóa án tích, BLHS cũng chỉ đề cập tới thời hạn xóa án tích đối với những người
bị áp dụng hình phạt. Như vậy, có thể nói, vấn đề án tích và xóa án tích chỉ đặt
ra đối với người bị kết án và bị tuyên áp dụng hình phạt. Đồng thời cũng do bản
chất, án tích là hậu quả pháp lý riêng biệt của hình phạt, nhằm thể hiện rõ tính
chất nghiêm khắc của biện pháp cưỡng chế được coi là nghiêm khắc nhất trong
hệ thống pháp luật Việt Nam nên vấn đề xóa án tích cũng chỉ đặt ra đối với
những người bị áp dụng hình phạt.
Người bị kết án và bị áp dụng hình phạt muốn được xóa án tích thì phải
đáp ứng đủ điều kiện do luật định. Tùy thuộc vào từng loại tội phạm cũng như
mức hình phạt mà pháp luật quy định những điều kiện cụ thể để được xóa án

tích. Nhìn chung, người bị áp dụng hình phạt muốn xóa án tích phải đáp ứng ít
nhất hai điều kiện: đã chấp hành xong bản án và không phạm tội mới trong thời
hạn luật định. Tùy từng loại tội phạm và mức phạt mà thời hạn để được xóa án
tích là khác nhau, theo hướng, tội phạm mang tính chất nguy hiểm càng cao và
mức hình phạt càng cao thì thời hạn để được xóa án tích càng kéo dài. Điều này
thể hiện rõ chính sách phân hóa tội phạm cũng như tính chất nghiêm trị đối với
những hành vi nguy hiểm cao cho xã hội. Hơn nữa, thời gian mang án tích
được chính là thời gian thử thách để khuyến khích cũng như đảm bảo người
phạm tội hối cải về tội lỗi của mình, thực sự hoàn lương, có ý thức nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật nên tội phạm càng nguy hiểm thì thời gian thử thách
này đương nhiên cũng cần kéo dài. Ngoài ra, tùy trường hợp mà người phạm
17
tội phải đáp ứng thêm các điều kiện về nhân thân như có tích cực hòa nhập
cộng đồng, đóng góp cho xã hội, lập công chuộc tội… (trong trường hợp xóa
án theo quyết định của Tòa án, trong trường hợp đặc biệt).
b. Thẩm quyền xóa án tích
“Người được xóa án tích được Tòa án cấp giấy chứng nhận”.
Như vậy, thẩm quyền xóa án tích thuộc về Tòa án. Và theo hướng dẫn tại
điểm 2 Mục III và điểm 2 Mục IV Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày
1/8/1986 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư
pháp, Bộ Nội vụ về việc xóa án (gọi tắt là Thông tư liên ngành số 02/1986) thì
thẩm quyền xóa án tích thuộc về Tòa án cấp sơ thẩm (có thể là Tòa án nhân dân
cấp sơ thẩm hoặc Tòa án quân sự cấp sơ thẩm) đã xét xử tội phạm cũ của người
xin xóa án tích. Quy định này là hợp lý nhằm đảm bảo sự thuận tiện trong việc
xác minh những điều kiện chứng nhận xóa án tích cũng như đảm bảo sự quản
lý hồ sơ tư pháp về người phạm tội.
Đồng thời Thông tư liên ngành số 03 (sau đây gọi tắt là Thông tư liên
ngành số 03/1989) ngày 15/7/1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ về xóa án, bổ sung Thông tư liên
ngành số 02/1986 cũng hướng dẫn cụ thể một số trường hợp nhằm phân định

thẩm quyền xóa án tích của Tòa án trong trường hợp vì lý do khách quan mà
không có Tòa án nào có thẩm quyền xóa án tích hoặc thẩm quyền xóa án tích
thuộc về hai hay nhiều Tòa án khác nhau.
- Đối với trường hợp Tòa án xét xử cấp sơ thẩm đã giải thể như Tòa án
nhân dân đặc biệt trong cải cách ruộng đất, Tòa án nhân dân đặc biệt tại thành
phố Hồ Chí Minh thì Chánh án Tòa án đã tiếp nhận nhiệm vụ của Tòa án đã giải
thể có trách nhiệm giải quyết việc xóa án tích. Trong trường hợp Tòa án đã giải
thể nhưng không rõ Tòa án nào đã tiếp nhận nhiệm vụ của Tòa án đã giải thể thì
Chánh án Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao giải quyết việc xóa án (nếu Tòa
án đã giải thể là Tòa án nhân dân) hoặc Chánh án Tòa án quân sự trung ương
giải quyết việc xóa án tích (nếu Tòa án giải thể là Tòa án quân sự) (điểm a Điều
4 Thông tư liên ngành số 03/1989).
- Đối với trường hợp Tòa án đã xét xử sơ thẩm đã tách thành các Tòa án
khác nhau hoặc đã nhập vào với các Tòa án khác:
Nếu Tòa án xét xử sơ thẩm đã tách ra thành các Tòa án khác nhau thì Tòa
án giải quyết việc xóa án là Tòa án ở địa phương được tách ra nơi người bị kết
án thường trú. Nếu người bị kết án không thường trú ở một trong các địa
18
phương được tách ra thì việc xóa án do một trong số các Tòa án tách ra giải
quyết và trong trường hợp này, nếu Tòa án bác đơn xin xóa án thì Quyết định
bác đơn phải được gửi cho Tòa án khác đã cùng tách ra để đề phòng trường hợp
người bị bác đơn lại xin xóa án ngày ở Tòa án khác đó (điểm b Điều 4 Thông tư
liên ngành số 03/1989). Trường hợp này trên thực tế có nhiều như tòa án tỉnh
Hà Bắc tách thành Tòa án tỉnh Bắc Giang và Tòa án tỉnh Bắc Ninh…
Nếu Tòa án đã xét xử sơ thẩm đã nhập với Tòa án khác thì Tòa án nơi
Tòa án đó nhập vào có trách nhiệm giải quyết việc xóa án (điểm c Điều 4
Thông tư liên ngành số 03/1989). Ví dụ: Tòa án huyện A đã xét xử sơ thẩm, đã
nhập vào Tòa án huyện B thì Tòa án huyện B giải quyết việc xóa án tích.
Người xóa án tích được Tòa án cấp Giấy chứng nhận xóa án tích. Giấy
chứng nhận xóa án tích hoặc Quyết định xóa án tích của Tòa án là cơ sở để

chứng minh sự công nhận của Nhà nước đối với sự cố gắng hoàn lương của
người phạm tội, là giấy tờ pháp lý chứng minh người phạm tội đã được xóa án
tích trên thực tế.
1.2.2.3. Ý nghĩa của xóa án tích
Xóa án tích là chế định mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc khi đã khẳng định
“Người được xóa án tích được coi như chưa bị kết án”.
Người được xoá án tích coi như chưa can án. Vì vậy, sau khi cấp giấy
chứng nhận xoá án tích hoặc sau khi Toà án ra quyết định xoá án tích thì trong
những giấy tờ về căn cước, lý lịch cấp cho họ, phải ghi là "chưa can án" hoặc
“không có tiền án”.
Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án tức là không phải chịu bất
cứ một hậu quả nào của việc kết án mang lại bao gồm:
Một là, được khôi phục một số quyền công dân bị hạn chế do còn án tích
như quyền xuất nhập cảnh, quyền đứng đầu, quản lý doanh nghiệp, quyền nhận
nuôi con nuôi… Như đã phân tích ở phần đặc điểm pháp lý của án tích, thì một
đặc điểm thể hiện sự bất lợi của án tích là án tích có thể là nhân tố dẫn tới việc
người bị chưa được xóa án tích bị hạn chế một số quyền cơ bản của công dân.
Quy định này xuất phát từ chính yêu cầu phòng ngừa tội phạm trong chính sách
hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, khi người phạm tội đã được xóa án tích tức là
qua một thời gian thử thách người phạm tội đã thực sự có ý thức hoàn lương,
trở thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, việc khôi phục lại những quyền công
dân cho họ là điều chính đáng, đồng thời cũng khích lệ tinh thần của những
19
người phạm tội nhanh chóng hòa nhập xã hội, hoàn lương để được hưởng
những quyền lợi cơ bản của công dân.
Hai là, không bị Tòa án căn cứ vào án tích đã được xóa để xác định hành
vi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. Từ đó, không bị áp dụng tình tiết tái
phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết
định khung hình phạt hay yếu tố định tội. Dấu hiệu “chưa được xóa án tích” có
thể được áp dụng để làm căn cứ xem xét hành vi phạm tội có phải là tái phạm,

tái phạm nguy hiểm hay không, từ đó, có áp dụng tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự hay tình tiết định khung tăng nặng hình phạt hay không. Dấu
hiệu này cũng có thể là yếu tố để định tội trong một số cấu thành tội phạm theo
quy định của BLHS hiện hành. Như vậy, khi được xóa án tích, Tòa án sẽ không
thể căn cứ vào hành vi phạm tội đã được xóa án tích để xét việc áp dụng tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết định khung hình phạt là tái phạm
hoặc tái phạm nguy hiểm cũng như tình tiết định tội.
Điều này có thể lý giải bởi khi còn mang án tích, nhằm thể hiện sự
nghiêm trị đối với những người có ý định tái phạm, pháp luật quy định một
trong những hậu quả pháp lý của án tích chính là người phạm tội có thể bị áp
dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự, tình tiết định khung hình phạt hoặc dùng án tích làm yếu tố định tội
nếu phạm tội mới trong thời gian còn án tích. Vì vậy, khi đã được xóa án tích
thì hậu quả pháp lý này của án tích đương nhiên cũng được xóa bỏ.
Tóm lại, khi người bị kết án được xóa án tích thì mọi hậu quả pháp lý
của việc mang án tích sẽ không còn nữa.Với sự khẳng định người được xóa án
tích coi như chưa bị kết án, Luật hình sự Việt Nam đã đưa ra một quy tắc xử sự
đối với người bị kết án: Kể từ thời điểm được xóa án, họ trở thành người hoàn
toàn bình thường về mặt tư pháp và không một ai có thể căn cứ vào sự kiện họ
từng bị kết án để hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Như vậy, chế định xóa án tích không chỉ góp phần đảm bảo cho việc thực
hiện nhất quán nguyên tắc công minh, mà còn phản ánh nguyên tắc nhân đạo
của chính sách hình sự nói chung, khi TNHS của người bị kết án đã hoàn toàn
chấm dứt khi họ được xóa án tích. Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại khoản
5 Điều 3 BLHS: “Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm
ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật
định thì được xóa án tích”. Việc quy định những hậu quả pháp lý mà người
20
mang án tích phải chịu do thực hiện tội phạm hoặc hành vi vi phạm pháp luật
trong thời gian chưa được án tích không nhằm trả thù người đã bị kết án mà

chính là nhằm tạo điều kiện cho người đó tự hoàn lương và thấy được giá trị
của việc chấp hành nghiêm chỉnh những điều kiện để được xóa án tích, để được
coi là người lương thiện. Quy định này đã xóa bỏ thành kiến của mọi người đối
với người phạm tội khi họ đã cố gắng cải tạo, chuộc lại lỗi lầm của mình. Từ
đó, giúp cho người bị kết án không còn mặc cảm về tội lỗi của mình đã gây ra,
tích cực chấp hành nghiêm chỉnh bản án và pháp luật sau khi chấp hành xong
bản án, sớm hòa nhập với cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Điều này xuất phát từ thực tế là pháp luật mặc dù cần thiết phải quy định các
chế tài để nghiêm trị và răn đe người phạm tội nhưng không thể thiếu tính nhân
đạo. Xã hội muốn có công bằng và nhân đạo phải là xã hội có một hệ thống
pháp luật vì con người, nếu pháp luật chặn kín mọi lối hoàn lương của người
phạm tội thì vô hình chung đã buộc người phạm tội phải tái phạm và tạo thêm
gánh nặng cho xã hội.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Trong chương I, Khóa luận đã nêu lên khái quát lịch sử lập pháp hình sự
của chế định Xóa án tích, từ đó, tập trung tìm hiểu khái niệm, bản chất cũng
như đặc điểm pháp lý của án tích và xóa án tích. Qua nghiên cứu, có thể thấy,
chế định xóa án tích đã được ghi nhận từ rất sớm trong lịch sử lập pháp hình sự
nước ta và ngày càng được hoàn thiện cả về nội dung cũng như kỹ thuật lập
pháp. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, pháp luật hình sự Việt Nam vẫn chưa
đưa ra một khái niệm pháp lý chuẩn mực về án tích và xóa án tích. Trong khi
đó, việc làm sáng tỏ khái niệm án tích và xóa án tích có ý nghĩa lý luận cũng
như thực tiễn quan trọng. Nó không chỉ giúp tạo lý luận vững chắc cho chế
định án tích mà còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng đúng đắn các
quy định của Luật hình sự về việc xóa án tích. Vì vậy, cần xây dựng một khái
niệm pháp lý chuẩn mực về án tích và xóa án tích là nhiệm vụ cần thiết để hoàn
thiện pháp luật Hình sự nói chung, chế định “Xóa án tích” nói riêng. Theo quan
điểm người viết, khái niệm xóa án tích cần được quy định thành một điều
khoản riêng kèm theo các đặc điểm pháp lý của xóa án tích, theo đó, Điều 63
BLHS năm 1999 nên được quy định theo mô hình:

21
“Xóa án tích là chế định nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam, thể hiện
sự xóa bỏ việc mang án tích đối với người bị kết án và bị áp dụng hình phạt,
theo quy định tại các điều từ Điều 64 đến Điều 67 của Bộ luật này.
Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án và được Tòa án cấp sơ
thẩm cấp Giấy chứng nhận xóa án tích hoặc Quyết định xóa án tích.”
22
CHƯƠNG II
CHẾ ĐỊNH XÓA ÁN TÍCH THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1. Các trường hợp xóa án tích theo quy định của Bộ Luật hình sự hiện hành
2.1.1. Đương nhiên được xóa án tích
“Những người sau đây đương nhiên được xoá án tích:
1. Người được miễn hình phạt.
2. Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và
Chương XXIV của Bộ luật này, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi
hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau
đây:
a) Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b) Ba năm trong trong trường hợp hình phạt là tù đến ba năm;
c) Năm năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên ba năm đến mười
lăm năm;
d) Bảy năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên mười lăm năm”.
(Điều 64 BLHS năm 1999)
a. Mặc dù BLHS chưa đưa ra khái niệm pháp lý thế nào là đương nhiên xóa án
tích nhưng theo quan niệm phổ biến thì đương nhiên xóa án tích được hiểu là
trường hợp được coi là chưa can án mà không cần có sự xem xét và quyết định
của Tòa án
1

. Chỉ cần người bị kết án đáp ứng được đầy đủ điều kiện luật định
và có yêu cầu xin cấp Giấy chứng nhận xóa án tích thì Tòa án cấp sơ thẩm đã
xét xử họ có trách nhiệm xác minh các điều kiện đó và cấp Giấy chứng nhận
xóa án tích. Tuy nhiên, Tòa án không cấp Giấy chứng nhận xóa án tích cho tất
cả những người được đương nhiên xóa án tích mà chỉ cấp cho những người
được xóa án tích yêu cầu.
b. Các trường hợp đương nhiên xóa án tích
b.1. Người được miễn hình phạt
Theo quy định tại khoản 1 Điều 64 BLHS năm 1999, người được miễn
hình phạt là trường hợp đầu tiên được đương nhiên xóa án tích.
1 Xem: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, sách “Mô hình Luật Hình sự Việt Nam”, NXB CAND, 2010, tr.44.
23
Theo Điều 54 BLHS, “Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong
trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46
của Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được
miễn trách nhiệm hình sự”. Như vậy, người được miễn hình phạt được hiểu là
người bị kết án do có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đáng được khoan hồng đặc biệt
nên mặc dù bị đưa ra xét xử nhưng được Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình
phạt. Người được miễn hình phạt đương nhiên được xóa án tích mà không cần
có sự xem xét, quyết định của Tòa án cũng như không cần thêm bất cứ điều
kiện nào khác. Điều này xuất phát từ việc án tích chỉ phát sinh khi người bị kết
án bị áp dụng hình phạt, nên người được miễn hình phạt sẽ không phải chịu hậu
quả pháp lý bất lợi của hình phạt này và được coi là người không có án tích.
Theo hướng dẫn tại Điều 1 Mục II của Thông tư liên ngành số 02/1986
thì người được miễn hình phạt được xóa án tích ngay sau khi bản án có hiệu lực
pháp luật. Tuy nhiên, nếu trong trường họp người được miễn hình phạt bị tuyên
áp dụng một số quyết định khác của bản án như án phí, phạt tiền, bồi thường
thiệt hại, sửa chữa tài sản… thì người được miễn hình phạt chỉ được xóa án tích
sau khi đã chấp hành xong những quyết định khác của bản án đó.
Ví dụ: A và B cùng bị kết án về tội “Làm nhục người khác” theo khoản 1

Điều 121 BLHS năm 1999. A được miễn hình phạt, B được miễn hình phạt
nhưng bị áp dụng biện pháp tư pháp: bồi thường thiệt hại trị giá ba triệu đồng.
Ngày 01/10/2008, bản án tuyên phạt A và B có hiệu lực pháp luật nhưng đến
ngày 15/10/2008, B mới thực hiện xong việc bồi thường thiệt hại. Trong trường
hợp này, A sẽ đương nhiên được xóa án tích từ ngày 01/10/2008 nhưng với B
thì từ ngày 15/10/2008 (sau khi đã chấp hành xong bản án), B mới đương nhiên
được xóa án tích.
Tuy nhiên, quy định này chưa thực sự rõ ràng, gây ra cách hiểu khác
nhau trong trường hợp người được miễn hình phạt thực hiện xong các nghĩa vụ
khác của bản án trước khi bản án có hiệu lực pháp luật. Cũng ví dụ trên, giả sử
ngày 28/9/2008, B đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của mình.
Có quan điểm cho rằng trong trường hợp này, áp dụng theo Điều 1 Mục II
Thông tư liên ngành số 02/1986, A sẽ đương nhiên được xóa án tích từ ngày
01/10/2008, còn B sẽ đương nhiên được xóa án tích từ ngày đã chấp hành xong
toàn bộ bản án tức là ngày 28/9/2008. Quan điểm này chưa hợp lý bởi thời hạn
24
xóa án tích là thời gian thử thách để chứng minh khả năng cải tạo của người
phạm tội. Xét về thực tế, đối với một người phạm tội tuy được miễn hình phạt
nhưng bị áp dụng biện pháp tư pháp khác thì tính chất nguy hiểm của hành vi
phạm tội đó bao giờ cũng cao hơn so với người phạm tội được miễn hình phạt
và không bị áp dụng thêm bất cứ một quyết định khác của Tòa án. Cho nên, nếu
theo quan điểm trên, vô hình chung tạo sự không công bằng cho chính những
người được miễn hình phạt khi hành vi có tính chất nguy hiểm hơn nhưng lại
được xóa án tích sớm hơn. Theo quan điểm người viết, quy định tại Điều 1
Mục II của Thông tư liên ngành số 02/1986 phải được hiểu một cách linh hoạt
theo hướng: Nếu người phạm tội được miễn hình phạt chấp hành xong bản án
trước khi bản án có hiệu lực pháp luật thì thời điểm được đương nhiên xóa án
tích vẫn tính từ thời điểm bản án có hiệu lực pháp luật.
b.2. Người bị kết án bị áp dụng hình phạt theo khoản 2 Điều 64
Khoản 2 Điều 64 BLHS năm 1999 quy định việc đương nhiên được xóa

án tích cho những đối tượng bị áp dụng hình phạt. Trong trường hợp này, muốn
được đương nhiên xóa án tích, người bị kết án phải hội tụ đủ hai điều kiện:
Một là, Họ không phạm các tội quy định tại Chương XI “Các tội xâm
phạm an ninh quốc gia” và Chương XXIV “Các tội phá hoại hòa bình, chống
loài người và tội phạm chiến tranh” của BLHS năm 1999.
Nếu như đối tượng được áp dụng theo khoản 1 Điều 64 BLHS năm 1999
có thể phạm bất cứ tội phạm nào được quy định trong BLHS chỉ cần được miễn
hình phạt đều được đương nhiên xóa án tích, thì chỉ những người không phạm
phải tội phạm quy định tại Chương XI và Chương XXIV BLHS năm 1999 mới
thuộc đối tượng được áp dụng khoản 2 Điều 64 BLHS. Mọi tội phạm không
thuộc Chương XI và Chương XXIV BLHS năm 1999 dù bị tuyên áp dụng bất
cứ hình phạt nào cũng thuộc đối tượng đương nhiên được xóa án tích. Quy định
này đã mở rộng phạm vi đối tượng đương nhiên được xóa án tích so với quy
định của BLHS năm 1985. Theo quy định BLHS năm 1985, chỉ những người bị
kết án không phải tội phạm thuộc hai chương trên đồng thời bị áp dụng hình
phạt không phải hình phạt tù hoặc bị áp dụng hình phạt tù không quá năm năm tù
mới được đương nhiên xóa án tích. Việc mở rộng phạm vi đối tượng đương
nhiên được xóa án tích đã thể hiện tính nhân đạo sâu sắc trong chính sách hình sự
nước ta, khích lệ những người phạm tội cải tạo, sớm hòa nhập với cộng đồng.
25

×