Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

CHUYÊN đề các yếu tố KHÍ hậu, môi TRƯỜNG đất, kỹ THUẬT CANH tác cây mít TRÊN nền đất PHÙ SA VEN SÔNG, đất ĐEN BAZAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.07 KB, 19 trang )

CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
CÁC YẾU TỐ KHÍ HẬU, MÔI TRƯỜNG ĐẤT, KỸ THUẬT CANH TÁC
CÂY MÍT TRÊN NỀN ĐẤT PHÙ SA VEN SÔNG, ĐẤT ĐEN BAZAN.
1. ĐẤT
1.1. Đất phù sa ven sông
Tại Đồng Nai, đất phù sa (chiếm khoảng 9.32%) phân bố chủ yếu ven các
sông như sông Đồng Nai, La Ngà. Đây là loại đất tốt, có độ phì nhiêu cao, thích
hợp với nhiều loại cây trồng như cây lương thực, hoa màu, rau quả…
 Tính chất đất phù sa ven sông:
- Đất phù sa có thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng, trong đó cấp hạt
sét là chủ yếu (45-55%), cấp hạt cát gần gấp đôi cấp hạt limon.
- Đất phù sa là đất chua đến rất chua, đặc biệt đất phù sa gley rất chua, có trị
số pH (KCl) xấp xỉ 3,2 – 3,7.
- Đất phù sa có cation trao đổi tương đối cao (Ca
2+
, Mg
2+
, Na
+
), có CEC
tương đối cao.
- Đất phù sa gley rất giàu chất hữu cơ, giàu kali, đạm nhưng lại nghèo lân
tổng số và lân dễ tiêu.
1.2. Đất đen bazan
Diện tích 22.707 ha, chiếm 23,4% diện tích tự nhiên toàn huyện, phân bố tập
trung dọc hai bên bờ sông Đồng Nai thuộc các xã Phú Lợi, Phú Tân, Phú Vinh và
Thanh Sơn. Đất được hình thành từ đá bọt Bazan, giàu kiềm nên thường có màu
đen, rất giàu đạm (0,12 – 0,35%), mùn (2,0 – 4,0%), lân (0,1 – 0,4%). Mặt khác
dung lượng trao đổi chất dinh dưỡng trong đất và độ no bazơ rất cao (đạt 30 –
40me/100g sét và 50 – 80%) nên rất thuận lợi để khai thác trồng nhiều loại cây ăn
quả.


Hàm lượng chất hữu cơ và đạm tổng số trong đất đen tương đối cao và giảm
chậm theo chiều sâu phẫu diện. Ở độ sâu 80 – 100cm hàm lượng chất hữu cơ vẫn
đạt 1,6 – 1,7%, đạm tổng số từ 0,10 – 0,11%, lân tổng số rất giàu. Riêng kali tổng
số nghèo (0,5 – 1,0%) là do bản chất của đá bazan nghèo kali.
Vì hàm lượng kali trong đất thường nghèo (chỉ đạt 0,06 – 0,5%), lại ở các
dạng địa hình cao nên rất dễ bị rửa trôi, cần chú trọng đến các biện pháp làm đất và
che phủ đất chống xói mòn.
1
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
Khả năng sử dụng: đây là loại đất tốt, thích hợp với nhiều loại cây trồng và
cây ăn trái nhưng việc bố trí cây ăn trái phải tùy thuộc vào địa hình và độ dày tầng
đất. Tuy nhiên, hạn chế chính của nhóm đất này trên địa bàn huyện là trên 52%
diện tích có tầng rất mỏng < 30cm (11.807 ha) và 38% diện tích có tầng mỏng từ
30 – 50cm (8.628 ha), ít thích hợp cho cây trồng lâu năm, kể cả các loại cây ăn trái.
Hiện trạng trên đất tầng mỏng người dân đang trồng bắp, đậu nành, thuốc lá và trên
đất tầng dày trồng cà phê, cây ăn trái.
Nhìn chung về hình thái đất đen trên bazan đều có đặc điểm chung là tầng
đất rất mỏng, trong phẫu diện lẫn rất nhiều mảnh đá vụn hoặc kết von, nhiều nơi
tầng đất mịn chỉ sâu vài cm và trên bề mặt đất có rất nhiều đá lộ đầu, có nơi tạo
thành cụm dày đặc.
Những thuận lợi: độ phì nhiêu rất cao, các chất dinh dưỡng rất cân đối ngoài
trừ kali, cấu trúc đoàn lạp tơi xốp.
Những hạn chế: tầng đất thường rất mỏng, lẫn nhiều đá và kết von, nhiều đá
lộ đầu.
2. CÂY MÍT
2.1. Giới thiệu
Cây Mít có tên khoa học là Artocarpus integrifolia, thuộc họ Dâu tằm
(Moraceae), là loại cây ăn quả, mọc phổ biến ở các nước châu Á ( Ấn Độ, Việt
Nam, Sri Lanka, Malaysia, Indonesia, Philippines ) và Brasil. Cây mít thuộc loại
cây gỗ nhỡ cao từ 8 đến 15m, ra quả sau ba năm tuổi. Mít ra quả vào khoảng giữa

mùa xuân và chín vào giữa và cuối mùa hè (tháng 7-8). Quả Mít là loại quả phức,
hình bầu dục, chứa nhiều đường, có giá trị thương mại lớn, được sử dụng trong ẩm
thực ở các nước Đông Nam Á. Gỗ của cây mít thuộc gỗ nhóm IV, đôi khi được sử
dụng để sản xuất các dụng cụ âm nhạc như các loại mộc cầm, là một phần của
gamelan ở Indonesia, tạc tượng thờ trong các đền chùa.
2
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
Ở Việt Nam, cây mít được trồng phổ biến ở các vùng nông thôn với nhiều
loại như mít mật, mít dai, mít tố nữ (đặc sản của miền Nam) … ngoài giá trị dinh
dưỡng, nhiều bộ phận của cây mít còn là vị thuốc.
Mít có thể trồng hầu hết các nơi, kể cả những vùng đất nghèo dinh dưỡng.
Vùng đồng bằng, vùng trũng chỉ trồng mít ở những chân đất có đê bao vững vàng
và phải vun mô cao 0,3m-0,8m tùy mức thủy cấp cao thấp. Miền Đông Nam Bộ,
Tây Nguyên, vùng đồi núi miền Trung đổ ra các tỉnh phía Bắc đều có thể quy
hoạch trồng cây Mít nghệ cao sản kết hợp chăn nuôi, thủy sản và công nghệ chế
biến.
Quả mít to, dài chừng 30-60cm, đường kính 18-30cm, ngoài vỏ có gai. Trừ
lớp vỏ gai, phần còn lại của quả mít hầu như ăn được. Múi mít chín ăn rất thơm
ngon.
Hạt mít cũng có giá trị lương thực như các loại hạt và củ khác, được nhân
dân dùng chống đói trong những ngày giáp hạt. Hạt mít có thể phơi khô làm lương
thực dự trữ, chứa tới 70% tinh bột, 5,2% protein, 0,62% lipid, 1,4% các chất
khoáng. Nói chung protein và lipid của hạt mít khô tuy chưa bằng gạo, nhưng hơn
hẳn khoai, sắn khô.
Múi mít chín vàng óng đẹp mắt, ăn ngon ngọt, đặc biệt có hương thơm rất
đặc trưng, được coi là thức ăn bổ dưỡng và có tác dụng long đờm. Về giá trị dinh
dưỡng, trong thịt múi mít chín có protein 0,6-1,5% (tùy loại mít), glucid 11-14%
(bao gồm nhiều đường đơn như fructose, glucose, cơ thể dễ hấp thụ), caroten,
vitamin C, B2… và các chất khoáng như sắt, canxi, phospho…
3

CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
Mít là loại cây dễ tính được trồng nhiều nơi. Nếu trồng đại trà thì phải tuân
thủ theo quy trình kỹ thuật thích hợp để chi phí đầu tư thấp, đem lại hiệu quả kinh
tế cao nhất. Hiện nay có nhiều giống mít tốt như: Mít nghệ cao sản, Mít ruột đỏ
Mít là giống cây ăn trái duy nhất có thể đóng vai trò cây rừng đem lại hiệu
quả kinh tế cao và lâu dài.
Tình hình cây mít ở Đồng Nai
Tại huyện Định Quán, Đồng Nai có trồng rải rác giống Mít nghệ cao sản,
loại mít được chọn từ tổ hợp mít nghệ ở miền Nam, có giá trị kinh tế cao. Giống
Mít Nghệ đang được huyện quan tâm phát triển nhằm thâm canh cây mít, nâng cao
năng suất và hiệu quả trồng mít.
Sau 3 năm tiến hành nghiên cứu đề tài khoa học “Khảo sát tuyển chọn giống
và nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật thâm canh cây mít ráo tại tỉnh Đồng
Nai”, Trung tâm nghiên cứu cây ăn quả miền Đông Nam bộ đã tuyển chọn được 8
dòng mít tốt vừa có khả năng làm nguyên liệu chế biến, vừa có khả năng ăn tươi,
đồng thời đề xuất một số giải pháp về kỹ thuật thâm canh cây mít ráo nhằm canh
tác đạt hiệu quả và năng suất cao. Các cá thể này đều thuộc giống Mít Nghệ có
năng suất cao và chất lượng vượt trội so với trung bình quần thể cùng tuổi.
Theo kết quả điều tra, khảo sát, nhóm nghiên cứu khẳng định, Đồng Nai có
khoảng 1.500 ha mít và được trồng rải rác trên toàn tỉnh. Đa số những vườn mít
trong tỉnh đều có quy mô nhỏ và trồng rải rác, thậm chí cả ở những vùng trồng
nhiều mít như Tân Phú, Định Quán, Thống Nhất và Xuân Lộc; kỹ thuật canh tác
còn nhiều hạn chế, đa số nhà vườn còn theo kiểu quảng canh, chưa có sự đầu tư kỹ
thuật và vật tư thích đáng nên năng suất và hiệu quả còn thấp. Hiện năng suất mít
trung bình toàn tỉnh ước tính khoảng 14-16 tấn/ha, thấp hơn so với một số vùng
khác. Trong khi đó, mít ráo lại đang có nhu cầu tiêu thụ lớn. Nếu được đầu tư thâm
canh tốt sẽ đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người nông dân.
Xuất phát từ thực tế đó, Trung tâm nghiên cứu cây ăn quả miền Đông Nam
bộ đã tiến hành nghiên cứu thử nghiệm các giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng
suất, chất lượng cây mít ráo tại tỉnh Đồng Nai gồm:

4
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
+ Phương pháp hỗ trợ nhân giống mít.
+ Mức độ bón phân NPK kết hợp phân hữu cơ để cây đạt năng suất cao, chất
lượng trái tốt nhất.
+ Ảnh hưởng của một số chất sinh trưởng đến năng suất mít ráo.
+ Các biện pháp tạo tán và tỉa cành cho thấy kiểu tán dù có số trái nhiều và
năng suất cao đối với mít giai đoạn bắt đầu cho trái 4-5 năm tuổi….
+ Việc phòng trừ sâu đục trái trên mít chủ yếu 2 là loài Glyphodes caesalis
và Connogerthes punctiferalis.
+ Xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp cây mít ráo giai đoạn kinh doanh.
Kết quả cho thấy, các biện pháp canh tác ở mô hình này giúp cây sinh
trưởng và phát triển tốt, năng suất cao so với đối chứng canh tác của nông dân, chất
lượng trái tốt.
Đầu năm 2008, Trung tâm đã chuyển giao và xây dựng được vườn cây đầu
dòng tại Công ty Cổ phần giống cây trồng Đồng Nai với diện tích 5.000m
2
.
Được biết Trung tâm sẽ tiếp tục nhân giống và đưa các giống mới ra trồng
khảo nghiệm ở những loại đất khác nhau giúp người nông dân trồng mít tăng năng
suất, chất lượng, ngày càng đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Ngoài ra, từ cuối năm 2004, giống mít Viên Linh đã có mặt ở xã Bảo Quang
– Long Khánh. Đến nay đã có hơn 200 hộ nông dân của xã trồng giống mít này với
diện tích hơn 100 ha. Giống mít Viên Linh có xuất xứ từ Thái Lan, dễ trồng và
chăm sóc cũng dễ hơn nhiều so với một số loại cây ăn trái khác, lại lớn rất nhanh.
Sau khoảng 2 đến 3 năm, cây cho rất nhiều trái, trọng lượng đạt bình quân từ 7 kg
đến 10 kg/trái. Đặc biệt có những trái rất lớn khoảng từ 15 đến 20 kg. Trái mít Viên
Linh có hình dáng đẹp, ít xơ, hương vị ngọt thanh vừa phải, mít trồng bằng gốc
ghép sẽ cho thu hoạch sau 02 năm. Mít Viên Linh là giống cây dễ trồng, không kén
đất lại cho năng suất cao. Loại mít này cho trái quanh năm, giá cả và đầu ra ổn định

nên tạo được niềm tin cho người nông dân.
5
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
Được biết, 1 ha đất canh tác có thể trồng được gần 200 cây mít Viên Linh và
chỉ hơn 1 năm sau cây bắt đầu cho trái bói, từ năm thứ 3 trở đi năng suất đạt
khoảng 150 kg/cây. Cây mít Viên Linh nếu chăm sóc tốt có thể cho trái từ 12 - 15
năm. Giống mít Viên Linh dễ trồng, tuy ít chăm sóc nhưng cây vẫn phát triển khá
tốt trên những vùng đất đỏ bazan, trái mít Viên Linh hình dáng đẹp, ít xơ, múi dầy,
có vị ngọt thanh, cây cho trái quanh năm.
Tại xã Phú An huyện Tân Phú, dự án trồng cây mít nghệ đã được đưa vào
trồng thí điểm, bước đầu đã cho thấy những tín hiệu khả quan. Do cây mít nghệ
phát triển nhanh, đầu ra cũng thuận lợi ít bị sự tác động của thời tiết; ít tốn công
chăm sóc và công thu hoạch; giá bán lại ổn định.
Về kỹ thuật trồng và chăm bón cũng rất đơn giản, không như những loại cây
khác. Theo kinh nghiệm của một số bà con đã trồng tại xã Phú An thì do cây cho
trái nhiều và dày đặc nên phải thường xuyên kiểm tra, tỉa bớt để có trái mít lớn.
Cây mít nghệ là loại cây dễ trồng, không kén đất lại cho năng suất khá cao,
giá cả ổn định. Sản lượng thu hoạch đã có nhà máy chế biến tiêu thụ hết. So với các
loại cây trồng khác thì hiệu quả kinh tế của cây mít nghệ rất cao. Vì thế, xã Phú An
xác định đây sẽ là cây trồng chủ lực của địa phương. Huyện Tân Phú cũng đang
khuyến khích nhân rộng diện tích cây mít nghệ nhằm nâng thu nhập cho nông dân
và đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo trong toàn xã.

2.2. Đặc điểm thực vật
Cây mít nghệ cao sản được nhân vô tính từ phương pháp ghép cành, ghép
chồi, ghép mắt, có sức tăng trưởng và phát triển nhanh, khi trưởng thành có thể cao
tới 20m.
6
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
Lá: Lá đơn, mọc cách, rìa lá thẳng, cuống lá ngắn, hình Oval, hơi hẹp về

phía đuôi, dài không hơn 20cm. Ở cây con trong vườn ươm những lá đầu có khía
nhưng cây lớn lên lá trở về hình tròn vì thế gọi là phức tạp “heterophyllus”. Màu lá
xanh thẳm, gân lá màu vàng nhạt nổi rõ rệt ở mặt dưới lá chứa nhiều Acétylcholin.
Lá già mới rụng vì vậy bóng râm nhiều, chống cỏ tốt.
Rễ: rễ cọc phát triển ngay từ khi cây còn nhỏ, cắm sâu vào lòng đất. Rễ phụ
và lông hút rất phát triển, ăn lan rộng có thể trên hai lần diện tích tán cây. Ở cây già
bộ rễ phát triển mạnh, có khi nổi lên mặt đất bám chắc, cho nên chống gió bão và
khô hạn rất tốt.
Hoa: hoa đơn tính đồng chu, mọc ở thân và cành lớn, hoa đực và hoa cái
sinh cùng một chùm, chung một cuống rất to khỏe. Mỗi chùm gồm nhiều hoa,
không có cánh, dính vào nhau thành những cụm hoa gọi là “dái mít” có đực riêng,
cái riêng. Hoa đực rụng sớm còn hoa cái sau khi đã thụ phấn lớn lên thành một trái
phức hợp, mỗi múi là một trái con. Trái sinh ra trên thân chính hoặc ở chân những
cành lớn, cây già trái có khuynh hướng mọc thấp, thậm chí cả ở những rễ ăn nổi lên
trên mặt đất.
Thân: thuôn thẳng hình trụ, thân cành mạnh. Da màu nâu đen, có nhiều nhựa trắng chứa
Steroketon kết tinh và Artostenon. Hàm lượng Tanin trong vỏ là 3,3%. Gỗ mít có hai phần: phần ngoài màu
vàng nhạt, bên trong màu vàng nghệ, gọi là lõi, cây càng già lõi càng to.
Trái: đều đặn, hơi dài. Trái dài có màu vàng xanh, rám nâu một ít ở mé dưới trái, có gai, vỏ trái
mỏng, lõi trái nhỏ. Múi mít vàng tươi, to, cao, dầy, ráo, giòn, ngọt và thơm, hạt nhỏ, ít xơ, xơ to vỏ mỏng,
khi chín không còn nhựa nên ăn tươi hay tách cơm sấy đều thuận lợi.
2.3. Đặc điểm sinh thái
Khí hậu: Mít là cây có tính thích nghi rộng, dễ trồng. Mít thích hợp với khí
hậu nóng ẩm, mưa nhiều, chịu hạn tốt nhờ bộ rễ phát triển và ăn sâu, không chịu
được úng và đọng nước ở vùng rễ, chịu được đất chua.
Ở Việt Nam mít được trồng từ Bắc đến Nam trừ những vùng cao ở miền
Bắc. Ở miền Nam nếu trồng ở vùng có độ cao 1.000 m mít vẫn sinh trưởng phát
7
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
dục bình thường nhưng chậm hơn ở vùng thấp. Yêu cầu lượng mưa hàng năm tối

thiểu là 1.000 mm.
Đất đai:
Mít có thể trồng ở những vùng đất nghèo dinh dưỡng, nhiều đá sỏi nhưng
phải thoát nước tốt, không bị ngập úng kéo dài.
Muốn cây mít cho sản lượng cao thì phải trồng ở đất tốt, tầng canh tác dày,
phải bón phân. Cây mít sẽ không cho sản lượng cao nếu mùa khô quá dài và thiếu
nguồn nước tưới.
Khi trồng mít nên chọn đất trồng ở nơi khô ráo thoát nước tốt, không bị ngập
úng kéo dài, có đủ nước tưới để cây sinh trưởng.
Mít được trồng vào đầu mùa mưa tháng 5 đến tháng 7 dương lịch. Nếu chủ
động nguồn nước tưới có thể trồng sớm hơn, thậm chí trồng quanh năm.
2.4. Kỹ thuật trồng mít
2.4.1. Nhân giống
Tùy theo mục đích sử dụng mà lựa chọn giống trồng cho phù hợp. Hiện nay
các tỉnh phía Nam đang trồng nhiều giống mít được chọn tạo trong nước hoặc nhập
nội cho năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu chế biến như:
mít Nghệ CS M99-I, mít Thái, mít Mã Lai…
Có thể trồng mít bằng cây giống được nhân bằng hạt, giâm rễ, giâm cành,
chiết cành, cây ghép và nuôi cấy mô. Trồng bằng hạt dễ làm, cây chậm ra trái, dễ
phân ly nên ít khi chọn được giống tốt cho trái sai, phẩm chất ngon. Cách thông
dụng là trồng bằng cây ghép, cây chiết hoặc giâm hom từ rễ, từ cành cây vừa sớm
cho quả, thời gian cho quả kéo dài, vừa giữ được đặc tính tốt của cây mẹ (năng suất
trái cao, chất lượng trái tốt). Nhược điểm của cách nhân giống này là khó thành
công nếu không nắm được bí quyết nhân giống.
Dùng hạt: sử dụng các hạt mít có khối lượng tối thiểu 4-5g để gieo hạt. Hạt
mít khi tách khỏi quả nên gieo ngay, nên ngâm nước 24-48 giờ trước khi gieo thì
hạt mọc nhanh hơn. Khi gieo, hạt để nằm ngang hoặc lưng lên trên, bụng (chỗ có
8
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
vết mầm lồi lên) úp xuống thì rễ sẽ mọc thẳng, mọc nhanh. Tuy nhiên, khi dùng hạt

nhân giống thì cây có nhiều biến dị, không giữ nguyên phẩm chất cây mẹ, lâu có
quả (trung bình 4 - 8 năm), gieo hạt cây con có rễ cái khi bứng trồng dễ chết.
Ghép: dùng phương pháp ghép mắt hoặc ghép áp. Tuy nhiên, phương pháp
ghép cho cây có tỉ lệ sống chỉ đạt 20-50% vì mít là loại cây khó ghép do có nhiều
nhựa, khó tiếp hợp, mắt ghép mềm, dễ thối. Cây con sau khi gieo hạt 1-2 năm mới
đủ tiêu chuẩn ghép.
Chuẩn bị gốc ghép:
+ Có thể chọn hạt mít rừng, tuy nhỏ nhưng mọc khỏe, nhiều trái, khả năng
chống chịu sâu tốt hơn so với các giống mít khác. Chọn những quả to, chín, tròn
đều để lấy hạt, sau đó đem hạt ngâm vào nước lạnh vài giờ để rửa sạch nhớt, vớt ra
để ráo là đem gieo ngay.
+ Để tiện cho việc vận chuyển sau này nên gieo vào túi bầu nilon kích thước
20x10cm hoặc 20x15cm. Chọn đất tơi xốp, thoát nước tốt, đất trộn với phân
chuồng hoai, phân lân và thuốc trừ kiến, mối, sau đó tiến hành cho vào bầu xếp
thành luống, làm mái che phía trên, gieo mỗi bầu một hạt rồi tưới nước đủ ẩm.
Chăm sóc làm cỏ cho đến khi cây có chiều cao từ 50cm đến 60cm là ổn định, vỏ
thân gần gốc chuyển sang màu nâu và lớn gần bằng ngón tay út có thể tiến hành
ghép được.
Chuẩn bị cành ghép:
Cành để lấy mắt ghép phải chọn từ những cây đúng giống, cây khỏe mạnh,
không sâu bệnh, sai trái, trái tròn đều, năng suất cao và ổn định, chất lượng ngon
…. Chọn cắt những cành bành tẻ có các mầm khỏe, cắt bỏ hết các lá chỉ chừa lại 1-
2mm cuống lá, bảo quản tốt, không để cành ghép bị mất nước, như vậy tỷ lệ sống
sau khi ghép rất thấp.
Kỹ thuật ghép:
Có nhiều cách ghép, nhưng trong đó có cách ghép mắt cửa sổ là dễ sống
nhất, cách ghép như sau:
9
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
+ Trên cây gốc ghép, dùng dao ghép sắc rạch hai đường song song cách

nhau 1cm, dài 2cm, cách mặt đất từ 15-20cm, sau đó cắt đường ngang phía dưới
nối hai đường song song rồi lật vỏ lên tạo thành cửa sổ hình chữ U.
+ Trên cành ghép chọn một mầm ghép đã nổi u khỏe mạnh không bị trầy
xước cắt làm mắt ghép theo hình cửa sổ tương ứng với cửa sổ trên gốc ghép. Tách
lấy mắt ghép xong, đặt vào cửa sổ gốc ghép sau đó dùng dây nilon trong có vải
rộng 1cm quấn chặt lại. Cây mít là loại cây có nhiều nhựa, nếu để như vậy sẽ khó
sống, vì thế phải dùng một miếng vải mềm sạch thấm nhẹ cho khô hết mủ trên gốc
ghép và mắt ghép. Sau khi ghép khoảng 2 tuần mở dây kiểm tra, nếu mắt ghép còn
tươi thì cắt bỏ ngọn của gốc ghép cách nơi ghép khoảng 1,5cm nhằm giúp cho mắt
ghép nhanh nảy chồi, ngược lại mắt ghép có màu nâu khô là mắt ghép đã chết, ta
tiến hành ghép lại.
+ Cây mít trước khoảng 2 tháng ta tiến hành bón phân kali để khi ghép dễ
bóc vỏ, mau liền sẹo và nên ghép vào mùa khô, cây ghép sẽ dễ sống hơn so với
ghép vào mùa mưa, mùa xuân do cây sinh trưởng mạnh và nhiều mủ.
Chiết cành: Chọn cành chiết khoảng 2-3 năm tuổi, đường kính chỗ chiết
khoảng 2-3cm và nên chiết cành vào mùa mưa, tránh những tháng khô hạn. Khi
bóc vỏ phải bóc cả vòng hình ống, bóc xong cạo cho chết tầng hình thành. Để khô
1-2 ngày thì lấy đất (đất xốp gồm 2 phần cát, 1 phần bùn) bọc lại. Ngoài cùng bọc
bao nilon, rồi buộc chặt, thường xuyên tưới nước để giữ độ ẩm. Có thể sử dụng một
số hoạt chất để kích thích sinh trưởng nhằm tạo nhanh chồi và rễ. Khoảng 70-80
ngày sau khi chiết, rễ đã ra nhiều nên có thể cắt cành. Sau 10 ngày cắt cành có thể
đem ương.
Giâm rễ, giâm cành: Lấy rễ hoặc cành bánh tẻ lá đã ổn định có đường kính
2-3cm cắt thành từng đoạn 15-20cm, nhúng gốc vào thuốc chống nấm (Benlet C,
Aliette…0,15%) rồi cắm nghiêng sâu 10-15cm trên mặt luống cát sạch, chừa lại
phần ngọn 3-5cm (dùng vôi đánh dấu cho khỏi nhầm). Hàng ngày tưới nước giữ ẩm
trong nhà có mái che cho tới khi cây ra rễ, mọc chồi cao 10cm thì đem giâm vào
bầu, chăm sóc một thời gian nữa rồi đem trồng.
10
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT

2.4.2. Thời vụ trồng
Tránh trồng đầu mùa khô vì dễ chết, tốt nhất nên trồng vào đầu mùa mưa và
khi trồng tưới đẫm, giữ ẩm.
2.4.3. Khoảng cách, mật độ trồng
Cây mít là cây ưa sáng, cần nhiều ánh sáng để cây sinh trưởng và phát triển,
kháng sâu bệnh, mật độ trồng thích hợp nhất khoảng 200 cây/ha. Khoảng cách
trồng có thể theo như sau:
Trồng dầy: Cây cách cây 5m, hàng cách hàng 6m, khoảng 300 cây/ha. Cây
trồng dày nên được tỉa cành.
Trồng thưa: Cây cách cây 6m, hàng cách hàng 7m, khoảng 210 cây/ha.
Đất cằn cỗi nên trồng dầy, đất tốt nên trồng thưa.
Kích thước hố đào: hố đào thích hợp 60x60x60cm (ngang 60cm, dài 60cm,
sâu 60cm).
Bón lót hố trồng:
+ Bón lót trước khi trồng từ 10-15 ngày bằng các loại phân hữu cơ hoai
mục: phân gà, heo, trâu bò, … hoặc các loại phân hữu cơ vi sinh khác.
+ Sau khi trồng trong thời gian từ 1 tháng trở lên tiến hành làm cỏ cho cây
và bón phân NPK theo tỷ lệ nêu trên, bón xa gốc 20cm trở lên, lấp đất lại tránh để
phân bị bốc hơi. Có thể chia phân ra nhiều lần để bón cho cây. Mỗi năm tiến hành
làm cỏ từ 3 lần trở lên.
+ Tiến hành trồng cây, tuyệt đối phải xé bỏ bầu để rễ cây tiếp xúc phân, như
thế cây mới sinh trưởng phát triển tốt. Dùng rơm rạ, lá khô cho quanh gốc để giữ
ẩm cho cây sau trồng.
Mít là cây dễ trồng, ít sâu bệnh, thời gian cho trái sớm nếu dùng giống cây
ghép, đây là loại cây mang hiệu quả kinh tế cao, kỹ thuật đơn giản, chi phí đầu tư ít.
11
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
2.4.4. Tiêu chuẩn cây trồng
Hiện nay để cho trái sớm, người ta dùng phương pháp ghép, gốc ghép phải
trên một năm tuổi, cây ghép phải khỏe mạnh, không bị gãy ngọn, không sâu bệnh,

đạt chiều cao trên 20 cm trở lên mới đem trồng.
Cây giống trồng phải đạt tiêu chuẩn có ít nhất 10 lá phát triển hoàn chỉnh,
cây có chiều cao tối thiểu khoảng 20 cm trở lên kể từ vị trí ghép, cây có thân và cổ
rễ thằng, không bị nhiễm các loại sâu bệnh hại. 2 tuần trước khi đưa đi trồng phải
ngừng bón phân, giảm tưới nước, xịt thuốc phòng chống sâu rầy, nấm bệnh thật kỹ
lưỡng.
Khi trồng dùng dao cắt đáy bầu cây và rễ bị cuộn xoắn phần dưới, sau đó
đào lỗ nhỏ vừa bầu cây giống, rồi đặt cây giống sao cho mặt bầu thấp hơn mặt đất
trong hố đã chuẩn bị khoảng 10cm, dùng cây cột chặt cây giống nhằm cố định cây
trồng, cây sẽ đứng thẳng không bị đổ ngã, giúp cây phát triển tốt.
2.4.5. Làm đất
Cây mít được trồng trên nhiều loại chân đất khác nhau, tuy nhiên khi chọn
đất để tiến hành trồng phải chọn đất không quá xấu, đất càng màu mỡ càng tốt. Cây
mít có thể sống được trên những vùng có nhiệt độ từ 18-20
o
C, không chịu ngập úng
nhưng cần đủ nguồn nước tưới cho cây khi mang trái, có như vậy trái mít mới đủ
lớn, đạt chất lượng và độ đồng đều cao.
Đất bằng phẳng: phải xẻ mương rãnh sâu ít nhất 30 - 40cm (tùy nước thủy
cấp ở từng nơi) để chống úng vào mùa mưa. Làm hốc sâu 40 x 40 x 40cm và đắp
mô cao 40 - 70cm.
Đất có độ dốc khoảng 5%: không cần đắp mô, làm hốc 40 x 40 x 40cm.
Độ dốc cao hơn 7%: làm hốc có kích thước 40 x 40x60cm.
Tiến hành bón lót trung bình mỗi hốc 0,5kg vôi bột, 0,3kg phân super lân,
10kg phân chuồng hoặc xơ dừa, vỏ đậu, trấu mục sau đó trộn phân và lắp đất lại.
Đối với đất có lượng dinh dưỡng thấp thì nên đào hố 80 x 80 x 80 cm, tiến hành
bón lót 10 kg phân chuồng, 0.5 kg super lân, 0.3 kg NPK, 0.03 kg Basudin.
12
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
Làm đất được thực hiện trước khi đặt cây con khoảng 1.5 đến 2 tháng.

2.4.6. Trồng
Xác định vị trí trồng: đất bằng phẳng trồng trên mô cao 40 - 70cm, đất có độ
dốc khoảng 5% trồng mặt bầu ngang bằng với mặt đất, đất dốc hơn 7% trồng thấp
hơn mặt đất 20-30cm.
Trồng: móc lỗ sâu và to hơn bầu cây đôi chút. Dùng dao, kéo cắt đáy bầu và
cắt bỏ đuôi chuột (rễ cọc) bị xoắn lại, sau đó đặt bầu vào lỗ đã móc sẵn và rút nhẹ
túi đựng bầu ra bỏ và lấp đất lại.
Nếu đất khô phải tưới cho cây ngay, dùng rơm, rạ, cỏ rác đậy xung quanh
bầu để giữ ẩm. Cây cao, ốm yếu dùng cọc cắm cố định cho cây khỏi ngã đổ.
2.5. Kỹ thuật chăm sóc
Kỹ thuật chăm sóc Mít chia ra làm hai thời kỳ: thời kỳ xây dựng cơ bản
khoảng 3 năm, đó là khoảng thời gian cây được trồng xong đến lúc cho trái ổn định
và thời kỳ khai thác kinh tế từ năm thứ tư trở về sau.
Theo kinh nghiệm, muốn cho cây mít sai quả phải trồng trên đất tốt, giàu
dinh dưỡng, giàu mùn, đất có tầng canh tác sâu trên 1m, tốt nhất là đất thịt pha sét,
dễ thoát nước, tránh úng ngập. Bón nhiều phân, tủ gốc giữ ẩm, mùa khô tưới 2-3
ngày/lần. Hàng năm bón bổ sung phân cho cây, nhất là những cây sai quả sau khi
thu hoạch xong. Khi cây cao 1m tiến hành tỉa cành, tạo tán.
Sau mỗi vụ thu hoạch cần tỉa cành 1 lần bằng cách chặt bỏ các cành mọc
rậm trong tán, cành sâu bệnh, cành vượt, các chồi mọc thành búi ở thân cây…
nhằm tập trung dinh dưỡng nuôi cây, nuôi quả đồng thời hạn chế sự tác động chất
phytohocmon (có tên là xytokinin được hình thành từ rễ) làm trẻ hóa tế bào, cân đối
tỷ lệ C/N trong cây nhằm kích thích cho cây phân hóa mầm hoa, ra hoa và kết trái.
2.5.1. Đậy gốc giữ ẩm
Khi trồng xong phải dùng các vật liệu sẵn có, rẻ tiền, để đậy phủ xung quanh
gốc để che cỏ dại, chống xói mòn vào mùa mưa và giữ ẩm vào mùa khô.
13
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
2.5.2. Kỹ thuật tưới tiêu
Sau khi đặt cây con, trong 2 tháng đầu phải tưới nước cho cây theo định kỳ

2-3 ngày/lần vào sáng sớm hoặc chiều, tưới khoảng 15-20 lít nước/cây/lần.
Sau 3 tháng trồng, khi cây đã phát triển thêm khoảng 15 cm và bắt đầu phân
cành thì tưới 5-7 ngày/lần. Từ năm thứ hai về sau thì tưới cho cây vào giai đoạn
mới bón phân và những tháng quá khô hạn.
Mít rất sợ úng nên vào mùa mưa lũ, phải kiểm tra kênh mương cống rãnh và
có kế hoạch chống úng.
2.5.3. Làm cỏ
Định kỳ làm cỏ xung quanh gốc, cày xới chăm sóc mỗi năm 3 lần. Năm đầu
tiên cày cách gốc 0.4m, năm thứ hai cách 0.6m. Ở vùng cao, đầu và giữa mùa mưa
cày ngang so với triền dốc, để hạn chế nước mưa cuốn trôi đất, cuối mưa nên cày
xuôi theo triền dốc để trở đất.
Từ năm thứ 3 chỉ làm cỏ xung quanh gốc hay cày chăm sóc theo hàng khi
cần thiết. Nên giữ lại cỏ để giúp tạo nên vùng tiểu khí hậu ổn định và che chắn
được bề mặt đất.
2.5.4. Cắt tỉa tạo tán
Cắt tỉa tạo tán giúp cây tăng trưởng, có được dáng đẹp, cân đối, thông
thoáng, các cành cấp I (cành ngang) phân bố đều nhau. Việc tỉa cành nên tiến hành
khi cây trồng được một năm tuổi, loại bỏ các cành bị sâu bệnh hại tấn công, cành
mọc sà trên mặt đất, cành sâu bệnh, cành già cỗi, mọc không đúng hướng, cành ăn
hại, giữ lại các cành cấp 1 cách gốc khoảng 40cm trở lên chọn các cành mọc theo
các hướng khác nhau, cành trên cách cành dưới khoảng 40-50cm, tạo thành tầng,
mỗi tầng không quá 5 cành cấp 1. Việc tỉa cành nên thực hiện 1 lần/năm vào đầu
mùa mưa.
2.5.5. Bón phân
 Phân hữu cơ: Gồm các loại phân chuồng, phân xanh, phân rác, bã dừa hay trấu mục ủ hoai
dùng bón cho cây giúp tơi xốp đất, là môi trường tốt cho vi sinh vật có lợi hoạt động giúp phân hủy chất hữu
cơ thành chất mùn cung cấp cho cây.
14
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
Cách bón: phải đào sâu xung quanh hay một phần tán cây để bón.

Liều lượng: ít nhiều tùy thuộc độ tuổi của cây, thời vụ
Chỉ tiêu Thời vụ bón Lượng phân Cách gốc Rãnh bón
Năm 1 Cuối mùa mưa 8 kg 30 cm 20cm×20cm
Năm 2 Đầu mùa mưa 15 kg 80cm 25cm×20cm
Năm 3 Đầu mùa mưa 25 kg Rìa tán 30cm×25cm
Năm 4 Thu hoạch xong 35 kg Rìa tán 30cm×25cm
Năm 5 Thu hoạch xong 45 kg Rìa tán 30cm×25cm
 Phân hóa học:
Đất có độ phì nhiêu trung bình: có thể bón NPK 16: 16: 8 + Super lân + K
2
SO
4
theo tỷ lệ 2: 2: 1
trong thời gian xây dựng cơ bản. Tỷ lệ 2: 3: 3 + Lưu huỳnh (S), ở thời kỳ cho trái.
Ở vùng đất phù sa nhiều mùn hữu cơ, có độ pH thấp: phải bón nhiều Lân và Vôi. Đất
cát xám, đất gò đồi cần nhiều Kali và đạm. Hàm lượng chất dinh dưỡng cần cung cấp cho đất xám bạc màu
trong thời kỳ xây dựng cơ bản như sau:
Tuổi cây
(năm)
Số đợt

bón /năm
Liều lượng (g/đợt)
Urea Super lân KCl
1 6 20 20 5-10
2 4 80 50 15-20
Phân được bón nhiều lần trong thời kỳ xây dựng cơ bản nhằm tránh tối đa hiện tượng thất
thoát chất dinh dưỡng sau khi bón, đồng thời giúp cho cây hấp thu được chất dinh dưỡng thường xuyên hơn,
đáp ứng nhu cầu sinh trưởng và phát triển của cây. Phân được bón vào hố trồng cách cây từ 20-25cm, sau
khi bón tưới nước để tạo điều kiện cho phân hòa tan, tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng của rễ.

 Lưu ý:
-Bón nhiều Lân và Đạm vào cuối thời kỳ cây nuôi trái.
-Bón thêm phân chuồng khoảng 10-15 kg/cây/năm và bón một đợt mùa mưa giúp cải tạo độ phì
nhiêu và độ tơi xốp đất xung quanh bộ rễ của cây.
-Bổ sung cho cây các loại phân trung lượng, vi lượng bằng các chế phẩm có bán trên trị trường để
giúp cây nhận được đầy đủ chất dinh dưỡng, kết hợp với những đợt xịt thuốc sâu rầy để cung cấp phân nuôi
cây.
15
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
2.5.6. Tỉa trái theo tuổi của cây
Do cây cho nhiều trái, mỗi cây trên 100 trái/năm, nếu không tỉa bỏ bớt sẽ
ảnh hưởng đến cây như làm gãy nhánh, trái bị méo mó, sâu bệnh, …. Việc tỉa bỏ
bớt trái là điều cần thiết và chỉ chừa lại những trái đẹp và số lượng trái chứa theo
năm trồng của cây như sau:
- Năm thứ 2 sau trồng có trái, tỉa bỏ để lại 5 trái/cây.
- Năm thứ 3 sau trồng có trái, để lại 20 trái/cây.
- Năm thứ 4 sau trồng có trái, để lại 40 trái/cây.
- Năm thứ 5 sau trồng có trái, để lại 50 trái/cây.
- Những năm tiếp theo sau đó chỉ nên để lại số lượng từ 70-80 trái/cây.
2.5.7. Phòng trừ sâu bệnh gây hại
 Bệnh thối nhũn:
Cây con có độ ẩm cao, quá rậm rạp dễ bị bệnh và bệnh lây lan rất nhanh.
Bệnh có thể do nấm Rizoctonia solani, Sclerotium, Pythium gây nên.
Khi cây bị bệnh thối nhũn thì trên thân gốc và bề mặt vật liệu nuôi cây có
nhiều hạch nấm tròn to, nhỏ dầy đặc và lây lan nhanh. Bệnh làm teo gốc, thân lá có
đoạn tươi xanh và phần non chết gục như bị luộc trong nước nóng.
Phòng bệnh: Sử dụng phân hoai mục; tạo thông thoáng, khô ráo và thoát
nước tốt; xử lý nguyên vật trong vườn ươm bằng các loại thuốc như Kitazin,
Rovral, Ridonyl
Trị bệnh: Sử dụng các loại thuốc như Viben C 50 BTN, Bonanza 100 DD,

Score 250 EC, Tilt 250 ND.
 Bệnh thối gốc chảy nhựa:
Bệnh xảy ra trên các vườn mít quá ẩm ướt và có nhiều loại sâu hại chính hút
nhựa cây, gây những vết thương và là cơ hội tốt cho nấm Phytopthora xâm nhập.
Bệnh xảy ra vào mùa mưa và bộc phát mạnh trong mùa khô.
Bệnh thể hiện ở vùng gốc có nhiều vết loét, nước dịch từ bên trong chảy rỉ ra, vỏ vùng gốc bị thối
từng mảng to, bề mặt lớp gỗ ẩm ướt và thâm đen, lá vàng, rụng và cây chết. Bênh thối gốc chảy nhựa thường
khi phát hiện được thì bệnh ở tình trạng nặng, khó chữa trị.
16
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
Cách phòng hữu hiệu nhất là trồng cây trên đất cao ráo, thoát nước tốt, hạn
chế mật độ sâu rầy gây hại, khi cần thiết có thể dùng các loại thuốc hóa học có tính chọn lọc
để phun xịt.
 Sâu rầy:
Sâu đục thân, đục cành: có tên Margronia, thành trùng đẻ trứng trên lá non, trái non sau đó
đục vào thân cành. Xịt thuốc trừ sâu vào giai đoạn ra lá non, trái non như Cyperan 5 EC, 10 EC, Decis
2,5EC, Bian 40-50 EC, Basudin 50 EC.
Ruồi đục trái: do loài dacus sp., đẻ trứng vào trái già, gây thối nhũn trái. Dùng chất dẫn dụ sinh
học để diệt ruồi đực. Bao bọc trái. Hay xịt thuốc diệt ruồi như trebon 10 Nd, decis 25 ec
Sâu đục trái: Gây hại nặng trên mít làm giảm chất lượng và sản lượng. Thường ở các phần tiếp
giáp các trái hay giữa trái tiếp giáp với thân, bị gây hại nặng nhất. Trái có thể bị hư hỏng hay bị rụng sớm.
Không nên dùng biện pháp xử lý thuốc hóa học mà dùng biện pháp sinh học để phòng trừ sự gây hại hay bao
trái vào cuối giai đoạn trái rụng sinh lý.
Ngài đục trái: Có nhiều loài gây hại khác nhau, chúng chích hút vào ban đêm ở giai đoạn trái
chín. Cách phòng trị giống như sâu đục trái.
Rầy, rệp: Có rất nhiều loài gây hại trên mít, chúng chích hút nhựa lá non, đọt non, trái làm lá
quăn queo , cây chậm lớn, trái dị hình và kèm theo là nấm đốm bồ hóng tấn công làm giảm khả năng quang
hợp của cây và trái không đẹp. Khi trồng ở nơi cao ráo thường bị rệp sáp tấn công ở phần gốc và rễ. Dùng
các loại thuốc hóa học sau đây để trị rầy rệp khi điều tra có mật số cao: Bassan 50 EC, Supracide 40 EC,
Basudin 50 ec

So với các loại cây ăn trái khác, Mít nghệ cao sản là cây dễ trồng, chịu hạn
tốt, ít công chăm sóc, ít sử dụng thuốc Bảo vệ thực vật, có năng suất cao, chất
lượng ngon, thích hợp ăn tươi, chế biến và làm thức căn cung cấp cho ngành chăn
nuôi, thủy sản và thu được khối lượng gỗ lớn và quý có giá trị kinh tế cao. Công nhân chăm sóc trực
tiếp không bị tổn hại do nhiễm độc, người tiêu dùng không phải sợ bị ngộ độc do thuốc Bảo vệ thực vật tồn
dư trong các sản phẩm.
Mít Nghệ Cao Sản là giống cây ăn trái có thể đóng vai trò cây rừng đem lại hiệu quả kinh tế cao và
lâu dài.
2.5.8. Thu hoạch và bảo quản
Cây mít cho trái rải vụ quanh năm, vụ chính vào tháng 10-12 dương lịch. Do
điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng ở các huyện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai không đồng
nhất nên thời gian ra hoa tập trung cách nhau 1-2 tháng. Thời gian từ lúc ra hoa cho đến lúc
17
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
trái già là 5 tháng, căn cứ vào màu sắc trái để thu hoạch. Khi trái già, các gai nở căng, trái từ màu xanh
chuyển sang màu xanh vàng, nâu nhạt, mủ lỏng và trong, khi vỗ kêu bồm bộp, để vận chuyển đi xa nên thu
hoạch trái già.
18
CHUYÊN ĐỀ : CÂY MÍT
MỤC LỤC
1. ĐẤT 1
1.1. ĐẤT PHÙ SA VEN SÔNG 1
1.2. ĐẤT ĐEN BAZAN 1
2. CÂY MÍT 2
2.1. GIỚI THIỆU 2
2.2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT 6
2.3. ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI 7
2.4. KỸ THUẬT TRỒNG MÍT 8
2.4.1. Nhân giống 8
2.4.2. Thời vụ trồng 11

2.4.3. Khoảng cách, mật độ trồng 11
2.4.4. Tiêu chuẩn cây trồng 12
2.4.5. Làm đất 12
2.4.6. Trồng 13
2.5. KỸ THUẬT CHĂM SÓC 13
2.5.1. Đậy gốc giữ ẩm 13
2.5.2. Kỹ thuật tưới tiêu 14
2.5.3. Làm cỏ 14
2.5.4. Cắt tỉa tạo tán 14
2.5.5. Bón phân 14
2.5.6. Tỉa trái theo tuổi của cây 16
2.5.7. Phòng trừ sâu bệnh gây hại 16
2.5.8. Thu hoạch và bảo quản 17
19

×