Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

BÀI TẬP MÔN HỌC THAY ĐỔI VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC SỰ NĂNG ĐỘNG CỦA VIỆC THAY ĐỔI TRONG NHỮNG LĨNH VỰC TỔ CHỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.45 KB, 38 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN
(BIÊN DỊCH TÀI LIỆU)
SÁCH: HANDBOOK OF ORGANIZATIONAL CHANGE AND INNOVATION
CHƯƠNG 10: SỰ NĂNG ĐỘNG CỦA VIỆC THAY
ĐỔI TRONG NHỮNG LĨNH VỰC TỔ CHỨC
GIẢNG VIÊN: Ts. NGUYỄN HỮU LAM
Ths. TRẦN HỒNG HẢI
NHÓM 10:
1. BÙI QUỐC NAM
2. TRẦN THÁI BẢO
3. LÊ THỊ BÍCH NGỌC
4. NGUYỄN MINH HẢI
2
CHƯƠNG 10
SỰ NĂNG ĐỘNG CỦA VIỆC THAY ĐỔI
TRONG NHỮNG LĨNH VỰC TỔ CHỨC
CR (Bob) Hinings, Royston Greenwood, Trish Reay, và Roy Suddaby
Chương này đưa ra một mô hình tiến trình
1
để hiểu rõ về sự thay đổi thể chế
2
ở cấp
lĩnh vực tổ chức
3
bằng sự phân tích. Mô hình này bao gồm năm giai đoạn chồng lên
nhau: (1) áp lực cho sự thay đổi; (2) các nguồn của thực hiện mới từ các doanh nhân thể


chế
4
; (3) các quy trình của việc khử thể chế hoá và tái thể chế hoá
5
; (4) sự năng động của
việc khử thể chế hoá và tái thể chế hoá; (5) tái thể chế hoá và sự ổn định.
Chúng tôi thấy mô hình này là hữu ích vì tổng hợp được nhiều nghiên cứu về thay
đổi thể chế. Trong khi nghiên cứu này đã từng bị chỉ trích vì nó chỉ tập trung về sự hội tụ
của các trạng thái ổn định và tương đồng, nó cũng luôn có lợi cho sự thay đổi, và vì vậy
chúng tôi sử dụng mô hình tiến trình này để chỉ ra các đóng góp cụ thể của các nghiên
cứu hiện có.
Tâm điểm của lý thuyết thể chế là khái niệm xem các tổ chức như là ''các chương
trình tái sản sinh
6
hoặc hệ thống các quy tắc lặp đi lặp lại thành một thực tiễn và được xây
dựng có cấu trúc và mang tính xã hội'' (Jepperson, Năm 1991, p. 149). Cách thức tổ chức
và hành động trở thành sự thật hiễn nhiên
7
vì sự bao hàm và tính hợp pháp của chúng. Do
đó, thay đổi thể chế là sự dịch chuyển từ một khuôn mẫu thực tiễn mang tính hợp pháp,
đã được thể chế công nhận sang một khuôn mẫu thực tiễn. Như vậy sự thay đổi thể chế
gồm các quá trình của việc khử và tái thể chế hoá. Theo Scott (2001), các lĩnh vực tổ
chức là công cụ để phổ biến và tái tạo các kỳ vọng và thực tiễn có cấu trúc mang tính xã
1
Process model – mô hình biểu thị tiến trình xẩy ra (các giai đoạn) của một sự việc
2
Institututional change
3
Organizational field – từ “field” ở đây tạm dịch là “lĩnh vực”
4

Institutional entrepreneur- tác giả dùng từ “doanh nhân thể chế” để mô tả những đơn vị có thể thu lợi từ thể chế đó
5
Deinstitutionalization, reinstitutionalization
6
Reproduced program
7
Taken-for-granted
3
hội. Các lĩnh vực tổ chức là “những tập hợp của các tổ chức, khi kết hợp, tạo thành một
khu vực của đời sống thể chế
8
'' (DiMaggio và Powell, 1983; trang 148) và những mô
hình tương tác này được xác định bởi các hệ thống ý nghĩa được chia sẻ với nhau (Scott,
1994).
Theo Seo và Creed (2002, trang 222), ''trong hai thập kỷ qua, các nhà lý thuyết thể
chế đã có thể cung cấp những hiểu biết nhiều hơn vào các quá trình để giải thích sự ổn
định thể chế hơn là giải thích thay đổi thể chế.“ Nghĩa là, lý thuyết thể chế đã nhấn mạnh
làm thế nào và tại sao các tổ chức thích ứng với những thực tiễn và hệ thống đã được thể
chế hoá – tức là câu hỏi tại sao các tổ chức ngày càng giống nhau - do đó nhấn mạnh vào
sự năng động của việc hội tụ và thể chế hóa. Điểm mấu chốt được giả định của hầu kết lý
thuyết này là trạng thái ổn định, của một lĩnh vực tổ chức trưởng thành là có nhiều nguồn
lực giữ cho tổ chức như cũ mạnh hơn so với lực lượng làm tổ chức đó tan rã và thay đổi.
Như Holm (năm 1995, p. 398), đã đề cập, ''các tiến trình của những thể chế được hình
thành và cải cách, có xu hướng theo đuổi lợi ích và mang tính chính trị cao, đã được bỏ
qua. Kết quả là một lý thuyết thể chế không thể giải thích làm thế nào những thể chế
được tạo ra và làm thế nào chúng thay đổi.'' Tuy nhiên, điều này đang thay đổi (Barley
và Tolbert, 1997; Dacin, Goodstein, và Scott, 2002; Lawrence, Winn và Jennings, 2001;
Oliver, 1992 Tolbert; và Zucker, 1996), lý thuyết gần đây đã bắt đầu chỉ ra những thay
đổi từ gốc cũng như những thay đổi mang tính hội tụ
9

. Thật vậy, Dacin et al. (Năm 2002,
p. 45) cho rằng ''chủ đề của sự thay đổi thể chế đã trở thành nội dung chính của các nhà
nghiên cứu về tổ chức.”
Chúng tôi cho rằng cần phải có một mô hình để giải thích về cách thức và tại sao
các thể chế thay đổi. Ít có sự quan tâm đến ảnh hưởng của sự đẳng cấu
10
(chứ không phải
là kết quả của bản thân sự đẳng cấu ), vì vậy mà ít ai biết được làm thế nào và tại sao các
thực tiễn được thể chế hoá trong một lĩnh vực lại thay đổi hoặc thu hẹp lại. Tolbert và
Zucker (1996, trang 175), đã có nhiều nghiên cứu sâu về lý thuyết thể chế, phát hiện
8
Institutional life
9
“Radical change” và “Convergent change” sự thay đổi từ gốc (căn cơ) và sự thay đổi từ từ mang tính hội tụ
10
Isomorphism: tạm dịch là sự đẳng cấu- sự tương đồng về mặt cấu trúc
4
rằng, ''mặc dù nhiều công trình nghiên cứu đồ sộ về vấn đề này, nhưng đáng ngạc nhiên
khi có rất ít nghiên cứu về khái niệm và sự xác định các quá trình của thể chế hoá.''
Tương tự như vậy, Seo và Creed (2002) lập luận rằng các quá trình cung cấp sự hiểu biết
cơ bản về sự thay đổi thể chế “trong những nỗ lực gần đây thật sự là chưa đầy đủ” (trang
223). Đó là thách thức và mục tiêu của chúng tôi là sẽ cung cấp những kiến thức này
được đầy đủ hơn.
Bài viết này có giới thiệu một mô hình tuần hoàn
11
các giai đoạn của tiến trình và sự
năng động của sự thay đổi thể chế. Khi triển khai mô hình này, chúng tôi trình bày, và
mở rộng, các thảo luận và mô hình đã được trình bày bởi Greenwood, Suddaby, và
Hinings (2002). Trước khi mô tả mô hình, chúng tôi điểm lại tài liệu về sự thay đổi lĩnh
vực tổ chức. Sau đó chúng tôi phác thảo vai trò của các nguyên ảnh

12
thể chế. Tiếp theo,
là thảo luận từng giai đoạn trong 5 giai đoạn của mô hình. Cuối cùng chúng tôi sẽ rút ra
kết luận về ý nghĩa của mô hình này cho các nghiên cứu trong tương lai.
Sự thay đổi lĩnh vực tổ chức
Theo DiMaggio và Powell (1983, trang 148-149), một lĩnh vực tổ chức
13
là “những
tập hợp của các tổ chức, mà khi kết hợp, tạo thành một khu vực của đời sống thể chế; bao
gồm: các nhà cung cấp chính, người tiêu dùng sản phẩm và tài nguyên, các tổ chức điều
hành và các tổ chức khác sản xuất những dịch vụ hoặc sản phẩm tương tự.'' Theo Scott
(2001, trang 137), thì hầu hết các nhà phân tích áp dụng một định nghĩa chung chung về
lĩnh vực như một tập hợp của các tổ chức khác nhau mà có chức năng tương tự nhau.
Trong nghiên cứu trước đó của mình, Scott (1994) cho rằng mô hình tương tác giữa
những cộng đồng tổ chức được xác định thông qua hệ thống chia sẻ ý nghĩa. Hệ thống ý
nghĩa thiết lập ranh giới của các cộng đồng của các tổ chức, xác định cách hành xử của
những thành viên và mối quan hệ thích hợp giữa các cộng đồng của các tổ chức
(Lawrence, 1999).
11
Circular model
12
Archetype – từ này có thể dịch là “nguyên ảnh” hay “mẫu tượng”, (đọc thêm Lưu hồng Khanh, “tâm lý học
chuyên sâu”, NXB Trẻ 2006, trang 242 – 246)
13
Ở phần trên ta đã dịch “organizational field” là “lĩnh vực tổ chức”. Trong các phần sau đôi khi tác giả chỉ dùng từ
“field” thì cũng có nghĩa là “lĩnh vực tổ chức”
5
Các khái niệm về tổ chức như vậy cho chúng ta quan điểm cúa các nhà xây dựng xã
hội (Berger và Luckman, 1967; Zucker, 1977, 1987). Niềm tin và giá trị tập thể
14

xuất
hiện từ sự tương tác lặp đi lặp lại giữa tổ chức. Các tổ chức phát triển cách thức trao đổi
của chúng , cụ thể hóa chúng, từ đó hình thành hiện thực xã hội. Từ sự hình thành hiện
thực xã hội này sẽ làm giảm sự mơ hồ và không chắc chắn cho các tổ chức. Ngược lại sự
hiểu biết được chia sẻ của các thực tiễn thích hợp làm cho việc trao đổi đi vào trật tự.
Theo thời gian, việc chia sẻ sự hiểu biết này, hoặc niềm tin của tập thể, được củng cố trở
thành quy trình đẳng cấu
15
(bao gồm ba hình thức: cưỡng chế, chuẩn mực, và bắt
chước)
16
, trong đó bao gồm cả việc truyền bá và lặp lại các quy định được mã hoá
17
theo
hiện thực xã hội, tức là nhấn mạnh tính đồng nhất giữa các cộng đồng thành phần. Các
sai biệt từ những quy ước này sẽ kích hoạt sự cố gắng điều chỉnh (nghĩa là hợp pháp hoá)
việc tách biệt khỏi các chuẩn mực
18
xã hội (Deephouse năm 1999; Elsbach năm 1994;
Lamertz và Baum, 1997; Miller và Chen, 1995), hoặc có lẽ sẽ thiết lập một loạt cấu trúc
xã hội mới và các thay đổi, chuyển đổi tiếp theo của lĩnh vực tổ chức.
Khái niệm về sự tạo dựng này đã phát hoạ quá trình từng bước trưởng thành và đặc
tả các vai trò, hành vi và tương tác của các lĩnh vực tổ chức. Nhưng ranh giới và hành vi
lại không cố định: nên sự tạo dựng không tái tạo được 1 bản sao hoàn hảo (Goodrick và
Salancik năm 1996; Ranson, Hinings, và Greenwood, 1980). Các ranh giới của các cộng
đồng tổ chức thường xuyên được xem lại, định nghĩa lại, và bảo vệ; chúng là kết quả của
sự liên tục khẳng định và sự phản bác (Greenwood, Suddaby, và Hinings, 2002).
Nói chung, các quy trình thể chế có thể hướng tới trạng thái ổn định của lĩnh vực.
Tuy nhiên, luôn có những khác biệt khi diễn giải và cần nhấn mạnh là chúng có thể sẽ
được tạm giải quyết bằng sự đồng thuận xã hội. Như vậy việc xuất hiện của sự ổn định có

thể gây nhầm lẫn (E.g. Sahlin-Andersson, 1996, trang 74) và các lĩnh vực nên được nhìn
nhận là ''không phải tĩnh, mà tiến hóa '' (Hoffman, 1999, trang 352). Đến mức độ có khi
14
Collective beliefs and values
15
Isomorphism process
16
(coercive,normative,mimetic)
17
Coded prescription
18
Social norm
6
các lĩnh vực thậm chí giống như “cuộc chiến thể chế” (trang 352). Ranh giới giữa các tổ
chức thường cho thấy các giai đoạn của sự ổn định đẳng cấu. Nhưng gần như luôn luôn
tiềm ẩn một sự tranh chấp ngấm ngầm.
Chúng tôi sẽ đề cập và triển khai các biểu thị của sự thay đổi trong mô hình quá
trình về sự năng động trong thay đổi thể chế. Hình 10.1 phác thảo các giai đoạn của mô
hình này. Ban đầu, có phải các sự kiện (“cú sốc”
19
theo Meyer, Brooks, và Goes, 1990)
làm mất ổn định các thực tiễn đã được thiết lập (giai đoạn I). Ở giai đoạn II những sự
kiện này cho phép thâm nhập và vận hành các doanh nhân thể chế. Nhưng những ý tưởng
và thực tiễn mới mà các doanh nhân đưa ra phải được định hình rõ ràng và mang tính hợp
pháp, đây là giai đoạn III của mô hình. Giai đoạn IV cho thấy xung đột và sự không công
nhận xảy ra ớ cả hai cấp tổ chức và lĩnh vực bằng các nỗ lực để chuẩn hóa các mô hình
hoạt động mới. Sau đó các lĩnh vực đạt được một mức độ ổn định khi chúng được tái thể
chế hoá (giai đoạn V). Điều quan trọng ở đây là mô hình này tuần hoàn, vì vậy tái thể chế
hoá sẽ tiếp tục là nguyên nhân của những thách thức sau này.
Các Nguyên ảnh Thể chế

Tổ chức chịu áp lực từ các bối cảnh thể chế để tổ chức theo cách đã quy định (và
không tổ chức theo những cách không được quy định). Những quy định tạo thành các
khuôn mẫu thiết kế tổ chức được gọi là “nguyên ảnh.” Một nguyên ảnh là một cấu hình
của cấu trúc và hệ thống được gắn kết với một kiểu diễn giải
20
tiềm ẩn. Lý thuyết thể chế
nhấn mạnh nguyên ảnh được hình thành bên ngoài một tổ chức: '' môi trường tổ chức bao
gồm các yếu tố văn hóa, đó là niềm tin hiễn nhiên và các nguyên tắc được ban hành rộng
rãi như là các khuôn mẫu cho tổ chức. Việc tái tạo lại thể chế đã được liên kết với nhu
cầu của những “đơn vị thực hiện” có quyền lực của thể chế, chẳng hạn như nhà nước, các
chuyên gia, hoặc các chủ thể trung tâm đầy quyền lực. Việc nhấn mạnh này đã nêu các
ràng buộc của thể chế và nhấn mạnh các quy tắc thống nhất trong việc hướng dẫn hành
vi'' (DiMaggio và Powell, 1991, trang 278, phần nhấn mạnh thêm vào).
19
Jolts : từ này mang ý nghĩa tích cực hơn từ “Shock” (lời người dịch)
20
Interpretive scheme
7
Kikulis, Slack, và Hinings (1995) chỉ ra cách thức khuôn mẫu tổng thể của những
thực tiễn trong các tổ chức được hình thành trong cấu trúc và hệ thống của các tổ chức
đó, chúng được tạo ra bằng giá trị và những ý tưởng cốt lõi - có nghĩa là một kiểu diễn
giải (Ranson et al., 1980). Blau và McKinley (1979) phân tích các thực tiễn có cấu trúc
như là '' các kiểu làm việc điển hình
21
'' trong khi Pettigrew (1985) mô tả các thực tiễn
quản lý và tổ chức của tập đoàn ICI như “sự quy định mang tính thống trị hay niềm tin
cốt lõi”
22
. Haveman và Rao (2002) khái niệm hoá lực lượng tổ chức như “cảm tính thuộc
về đạo đức.”

23

Khi những lĩnh vực phát triển, các quá trình của cấu trúc hóa tạo ra một hình thái tổ
chức đẳng cấu, được mô tả như một kiểu diễn giải đơn nhất, những cơ cấu tổ chức, và các
hệ thống hoạt động - nghĩa là, phát triển một nguyên ảnh thể chế hợp pháp và được định
nghĩa rõ ràng. Các tổ chức trong các lĩnh vực trưởng thành chấp nhận các khuôn mẫu
nguyên ảnh được mô tả giống nhau. Khi lĩnh vực trưởng thành, nó ngày càng ổn định, và
càng trở nên được kết nối chặt chẽ hơn thông qua các cấu trúc, tương tác, và niềm tin
chung (Scott, 2001). Các tổ chức trong lĩnh vực càng trở thành giống như nhau như kết
quả của quá trình cưỡng chế, chuẩn mực, và bắt chước, nhấn mạnh vào sự chấp nhận các
nguyên ảnh đã ấn định trước (DiMaggio và Powell, 1983).
Sự tiến triển của công nghệ và các ngành công nghiệp đã được mô tả trong các khái
niệm tương tự. Sau một giai đoạn ban đầu của phát triển kỹ thuật, các “thiết kế mang tính
thống trị”
24
được hình thành theo xã hội tạo sự ổn định các mối quan hệ giữa các nhà
cung cấp và nhà sản xuất: các cộng đồng chuyên nghiệp phát triển, và tổ chức điều hành
25
chẳng hạn như các hiệp hội công nghiệp và các “tiêu chuẩn” kỹ nghệ do nhà nước ban
hành. “Chế độ” kỹ thuật trở thành “khuôn sáo và cứng nhắc”
26
hơn (Tushman và
Rosenkopf, 1992, trang 324; xem thêm Dosi, 1982; Nelson, 1994; 4 Utterback, 1994).
21
Work motif
22
“Dominating rationalities or core belief”
23
Moral sentiment
24

“Dominant design”
25
Regulatory agency
26
“Routinized and rigid”
8
Do đó, sự thay đổi thể chế liên quan đến ít nhất ba điều: sự trội lên của một nguyên
ảnh thay thế, hủy bỏ sự hợp pháp của nguyên ảnh hiện có, và sự hợp pháp hóa nguyên
ảnh mới.Các quy trình song song này bao gồm sự chấp nhận nguyên ảnh mới trong một
lĩnh vực ngày càng rộng hơn của các tổ chức, cùng với những thay đổi tiếp theo trong các
mô hình tương tác và cơ cấu trong lĩnh vực này. Năm giai đoạn của hình 10.1 phác thảo
các quá trình này. Chúng ta sẽ xem từng giai đoạn một.
Giai đoạn I: áp lực sự thay đổi
Theo lý thuyết thể chế, tổ chức phải trở thành đẳng cấu để tồn tại cùng với những kỳ
vọng nằm trong bối cảnh của thể chế (Deephouse, 1996; Meyer và Rowan, 1977 và
Kraatz và Zajac, 1996). Bối cảnh thể chế này được tạo thành từ các bộ phận tương tác
nhau (như nhà nước, cơ quan điều hành, và các hiệp hội ngành nghề), từ các ý tưởng và
từ những kỳ vọng mang tính chuẩn mực. Nghĩa là, bối cảnh thể chế chứa bao gồm cả ý
tưởng và cả cơ chế mà qua đó ý tưởng được truyền bá và được củng cố (Scott, Ruef,
Mendel, & Caronna, 2000). Các cơ chế khác nhau còn gọi là “các con đường đa nhánh”
27
(Greve, 1996), đã được xác định như các bộ phận cài vào nhau
28
(như trường hợp của
Davis, năm 1991, Davis và Powell, năm 1991; Davis và Greve, 1997; Haveman năm
1993; Palmer, Jennings, và Zhou, 1993), các mạng lưới (Galaskiewicz, 1985; Kraatz,
1998; Gulati Westphal,, và Shortell, 1997), các cơ sở tri thức của các cơ chế này (Oakes,
Townley, và Cooper, năm 1999; Power và Laughlin, 1996), hoặc các mô hình bắt chước
(Galaskiewicz và Wasserman, 1989; Greve, 1995, 1996; Haunschild và Miner năm 1997;
Havemann, 1993). Vai trò của nhà nước và cơ quan chuyên môn trong việc kết nối và

điều tiết sự sắp xếp tổ chức cũng đã được văn bản hóa (Baum và Oliver, 1991; Davis và
Greve, 1997; Dobbin và Dowd, 1997; Kikulis và các đồng sự, 1995).
27
“Multiple routes”
28
Interlocking directorates: được tạm dịch là “sự cài vào nhau”
9
Hình 10.1 Sự năng động của sự thay đổi thể chế.
Sự nhấn mạnh này cho thấy rằng nguyên ảnh thể chế được quy định có thể thay đổi
khi hoàn cảnh thay đổi. Hình 10.1 bắt đầu từ ý tưởng về các áp lực trên lĩnh vực và
những tổ chức mà có sự thay đổi bên trong. Có hai khía cạnh đối với quá trình này. Trước
tiên, phải có áp lực bên ngoài đối với lĩnh vực phải trả lời một số câu hỏi. Nhưng những
áp lực đó không nằm trong và tự nó cũng không thể tạo sự thay đổi. Một khía cạnh thứ
hai là làm thế nào các “đối tượng thực hiện”
29
trong lĩnh vực diễn giãi và phản ứng với
29
Nhắc lại từ “actor”: ta tạm dịch là “đối tượng thực hiện”; từ “player”: tạm dịch “đối tượng tham gia”; dù hai từ
này có thể đồng nhất về nghĩa trong ngữ cảnh bài này.
I.Áp lực của sự thay đổi
Chức năng
Chính trị
Xã hội
II.Nguồn gốc các
thực tiễn mới
Doanh nhân thể chế
- Nhà cải cách
- Kỹ sư
- Người tác động
Người chống đối thể

chế
III.Tiến trình khử và
tái thể chế hóa
Lý thuyết hóa
Hợp pháp hóa
Phổ biến

IV.Sự năng động
trong sự khử và tái
thể chế hóa
Tận tụy với các giá trị
Thỏa mãn lợi ích
Cấu trúc quyền lực
Năng lực

V.Tái thể chế hóa
Người thực hiện cấp
lĩnh vực có quyền lực

Các phong trào xu
hướng nhất thời
10
những áp lực này và với những điều quy định mang tính cạnh tranh và thay đổi trong
những áp lực đó. Khi đó các “đối tượng thực hiện” nhận thức và phản ứng với áp lực như
là cơ hội.
Meyer, Brooks, và Goes (1990) thảo luận về hình thức mà những thay đổi bối cảnh
có thể xảy ra và họ cũng lưu ý “cú sốc”
30
làm mất sự ổn định cho các thực tiễn hiện thời.
Cú sốc có thể là hình thức biến động xã hội (e.g., Zucker, 1987), khủng hoảng công nghệ,

mất liên tục do cạnh tranh, hoặc thay đổi luật lệ (Fox-Wolfgramm, Boal, và Hunt, 1998;
Lounsbury, 2002; Powell, 1991). Chúng tác động làm nhiễu loạn sự đồng thuận trong các
cấp lĩnh vực mang cấu trúc xã hội bằng cách đưa ra những ý tưởng mới và do đó mở ra
khả năng thay đổi. Oliver (1992), trong phân tích của bà về những tiền đề của sự khử thể
chế hoá, đã hệ thống hoá các cú sốc hoặc áp lực khác nhau. Tập trung vào việc sự khử đi
các thực tiễn đã được thể chế hóa, bà gợi ý có ba loại áp lực, hay là ba tiền đề của sự khử
việc thể chế hoá. Trong khi Oliver nghiên cứu ở cấp của tổ chức, nhưng các tiền đề của
bà ta về các áp lực chính trị, chức năng và xã hội được dễ dàng chuyển đổi lên cấp độ của
lĩnh vực và sự năng động của liên tổ chức.
Áp lực chính trị là mối đe dọa đối với các dòng tài nguyên đã được thiết lập trong
lĩnh vực , cùng với sự thay đổi phân phối quyền lực, gắn liền đến sự hình thành hoặc phá
vỡ các liên minh. Holm (1995) cho thấy cách thức liên minh giữa người sản xuất, nhà
cung cấp, hiệp hội công đoàn, và các chính phủ có thể biến đổi, thay đổi mối quan hệ
quyền lực giữa các các “đơn vị thực hiện” cấp lĩnh vực. Holm (1995) cho thấy sự liên
minh giữa người sản xuất, nhà cung cấp, thương mại, công đoàn, và các chính phủ có thể
biến đổi, thay đổi mối quan hệ quyền lực giữa các “đơn vị tham gia” cấp lĩnh vực. Trong
nghiên cứu của ông về lĩnh vực thuỷ sản của NA UY, những thay đổi vốn dĩ được ủng
hộ trong pháp luật đã làm thay đổi dòng tài nguyên. Scott và đồng sự (2000) cũng chú ý
đến tầm quan trọng của những áp lực chính trị và vai trò của các hình thức đặc trưng
31
của sự khủng hoảng trong việc tạo ra sự khử thể chế hóa của một lĩnh vực ổn định và
trưởng thành. Thornton và Ocasio (1999) cho rằng các quá trình chính trị bị thay đổi xảy
30
“Jolts” là các cú sốc với hàm nghĩa tích cực
31
Rhetoric of crisis – tạm dịch là: “các hình thức đặc trưng của sự khủng hoảng”
11
ra trong sự thay đổi cấp lĩnh vực giáo dục cao hơn. Một phần của áp lực chính trị trong
một lĩnh vực đến từ những thay đổi các quy định, điều này được nhấn mạnh bởi công
trình của Hoffman (1997) trong nghiên cứu sự thay đổi thái độ đối với những thực tiễn về

môi trường. Đây là điểm tương tự với lập luận của cả DiMaggio và Powell (1983, 1991)
và Greenwood và Hinings (1996). Đối với D'Aunno, Succi, và Alexander (2000) lập luận
rằng trong vấn đề chăm sóc sức khỏe, các “đơn vị thực hiện” thuộc về thể chế có nhiều
lợi ích và các lợi ích này thường không nhất quán và vì thế, tạo áp lực cho sự thay đổi
thể chế.
Áp lực chức năng xảy ra từ những thay đổi trong công nghệ và thị trường. Thay đổi
công nghệ có thể là kết quả của những áp lực để khử thể chế hóa những thực tiễn đặc biệt
nào đó hoặc để phân hủy các lĩnh vực. Tương tự như vậy, những thị trường cho các sản
phẩm và các dịch vụ thay đổi theo thời gian, đôi khi trong một sự hỗn loạn cực kỳ
32
, sẽ
tạo ra áp lực mạnh mẽ cho sự thay đổi trong lĩnh vực này. Đối với cả Thornton, Ocasio
(1999) và Scott với các đồng sự (2000), công nghệ mới và áp lực thị trường sẽ dẫn đến sự
khử thể chế hóa. Greenwood và Hinings (1996) và Greenwood, Hinings, và Cooper (sẽ
được đề cập sau này) chỉ ra cách thức mà trong đó sự thay đổi thị trường của những dịch
vụ chuyên nghiệp sẽ khử thể chế hóa lĩnh vực và hỗ trợ cho sự hình thành những nguyên
ảnh mới. Davis, Diekmann, và Tinsley (1994) lập luận rằng sự khử thể chế hóa của
những công ty có nhiều chi nhánh
33
trong Fortune 500
34
đã xảy ra thông qua một loạt các
quy trình khác nhau bao gồm cả áp lực kinh tế / thị trường. D'Aunno và đồng sự (2000)
chỉ ra các nhân tố của tính tương đồng về địa lý đối với đối thủ cạnh tranh và những bất
lợi về cạnh tranh trong sản phẩm và dịch vụ hỗn hợp tạo ra những thay đổi tổ chức khác
nhau. Thornton (2002) mô tả phương cách mà thị trường tư bản sản sinh ra chuỗi lý luận
mới mang tính thể chế
35
trong ngành xuất bản giáo dục bậc đại học và cho thấy rằng điều
này đã trở thành phổ biến trong các ngành nghề và trong các ngành kỹ nghệ chuyên

nghiệp khác, chính điều này chuyển đổi sự lập luận chuyên ngành thành lập luận
36
của thị
32
Hyperturbulent
33
Multidivisional
34
(chú thích của người dịch: Fortune 500 là tạp chí bình bầu 500 công ty lớn nhất trên thế giới hằng năm)
35
Instituitional logic – từ logic ở đây được tạm dịch là “lý luận”,”lập luận”
36
Profesional logic and Market logic – nhắc lại từ logic ở đây được tạm dịch là “lý luận”,”lập luận”
12
trường. Lee và Pennings (2002) sử dụng các khái niệm về sự lựa chọn cấp thị trường và
sự phản hồi thị trường
37
để giải thích sự hình thành và lan tỏa của mô hình kết hợp đối
tác
38
trong những công ty dịch vụ chuyên nghiệp. Những áp lực cạnh tranh đã khiến
những người ra quyết định trong công ty kế toán tìm kiếm một hình thức tổ chức mới, và
sự phản hồi từ thị trường về hiệu quả hoạt động kinh tế của những công ty chấp nhận các
hình thức liên kết thành viên đã tạo ra một làn sóng chấp nhận do bắt chước nhau.
Oliver đề nghị rằng những áp lực xã hội quan trọng làm gia tăng sự phân cấp xã hội
và giảm sự liên tục mang tính lịch sử. Xu hướng để một lĩnh vực bị phân chia hoặc tái tạo
lại có thể do: (1) có sự phân mảnh ban đầu trong số các quan điểm của các ““đơn vị thực
hiện”” trong lĩnh vực này; (2) do sự áp đặt các giá trị từ bên ngoài lĩnh vực ; và (3) sự
thay đổi những quan điểm của các ““đơn vị thực hiện”” về sự tham gia của họ trong một
doanh nghiệp bình thường. Các khái niệm về phân mảnh và thay đổi quan điểm có thể

được tìm thấy trong các nghiên cứu sự chuyển đổi thể chế và ý tưởng về sự thay đổi của
lý luận mang tính thể chế. Scott và đồng sự (2000) tập trung vào ý tưởng này để phân tích
về việc thay đổi lĩnh vực thể chế trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại Bay Area, cho thấy
sự chuyển đổi từ những lý luận trong ngành y khoa thành những lý luận trong ngành hành
chính khi các “đơn vị thực hiện” thay đổi quan điểm của họ về sự tham gia trong lĩnh
vực. Greenwood và các đồng sự (2002) thảo luận làm thế nào để những quan điểm mới
của những đơn vị có vị thế độc quyền của những ngành nghề đã làm biến đổi lĩnh vực tổ
chức của các công ty kế toán. Haveman và Rao (1997) chỉ ra các thay đổi bản chất của xã
hội Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ XIX- và đầu thế kỷ XX, đã làm thay đổi những khái niệm về
sự tiết kiệm. Denis, Lamothe, Langley, và Valette (1999) cho rằng những áp lực xã hội
đã tạo ra sự thay đổi của hệ tư tưởng từ hệ thống “người cung cấp là chủ đạo”
39
đến hệ
thống ''đám đông là chủ đạo''
40
trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Những tư tưởng trước
đây đều nhấn mạnh về sự tự chủ trong tổ chức và có tính chuyên nghiệp, và sau đó chú
trọng đến những dịch vụ dựa trên cơ sở cộng đồng, thiết kế hệ thống tích hợp, quản lý
37
Market feedback
38
Partner-associate model
39
“Provider driven”
40
“Population driven”
13
địa phương, kiểm soát công dân kiểu dân chủ. Do đó ''có một sự thỏa thuận mang phạm
vi rộng giữa những chính sách khiến các dịch vụ y tế không còn được tổ chức như là một
tập hợp của sự kết hợp lỏng lẽo các nhà cung cấp tự trị mà trở thành một hệ thống tích

hợp có khả năng cung cấp sự chăm sóc liên tục vượt qua những ranh giới tổ chức và
nghiệp vụ để nhằm phục vụ đám đông” (trang 107). Hệ tư tưởng mới về chăm sóc sức
khỏe này đã gắn kết với những sự thay đổi cấu trúc nguyên ảnh cần thiết cho sự hợp tác
và hội nhập lớn hơn.
Một câu hỏi về sự hình thành một quan điểm thay thế (khác) về lĩnh vực, của các
“đơn vị thực hiện” mới, và những nguyên ảnh mới lại không được chỉ ra trực tiếp bởi
phần lớn các học giả. Greenwood và Hinings (1988, 1993, 1996) Hinings và Greenwood
(1988) chỉ ra vấn đề này bằng cách cho rằng các quá trình khử và tái thể chế hóa, trên
thực tế, đã liên kết hoặc có thể nói là xảy ra cùng lúc, mặc dù sự chấp nhận những lý luận
và cấu trúc mới không phải là đơn giản. Những áp lực khác biệt này thúc đẩy sự xuất
hiện của các doanh nhân thể chế
2
(DiMaggio 1988; Garud, Jain, và Kumaraswamy, 2002;
Lawrence, 1999; Leblebici, Salacik, Copay, và King, 1991; Thornton, 1995). Ảnh hưởng
của việc thay đổi này là làm xáo trộn sự đồng thuận của cấp lĩnh vực bằng việc đưa ra
những ý tưởng mới, do đó mở ra khả năng thay đổi. Những ý tưởng đó được xây dựng
như là một nguyên ảnh mới về cách thức mới của sự tổ chức và các thực tiễn thể chế
khác nhau, cũng có nghĩa là xuất hiện một nguyên ảnh mới.
Giai đoạn 2: Nguồn gốc những thực tiễn mới
Một số loại áp lực, hoặc gây ra những khó khăn hoặc tạo cơ hội, đều cần thiết cho
sự thay đổi, nhưng nếu chỉ có những áp lực thì không đủ; phải có ít nhất sơ bộ một tập
hợp các thực tiễn và các hình thức tổ chức có thể thay thế để lan tỏa. McAdam,
McCarthy, và Zald (1996, trang 5) diễn đạt điều này, cho rằng sự thay đổi đòi hỏi “ảnh
hưởng quan trọng của ý tưởng mới như là chất xúc tác.” Ngoài ra cũng phải có các quy
trình hợp pháp hóa, sự thiết lập các hình thức và thực tiễn mới như là những thứ có giá
trị, được mong đợi, và quan trọng đối với lĩnh vực thể chế. Từ đó, các nguyên ảnh mới
phát sinh nhưng làm thế nào để chúng trở nên hợp pháp hoá và được thiết lập trong một
14
lĩnh vực? Giai đoạn II của hình số 10.1 cho thấy rằng các doanh nhân thể chế là một
nguồn gốc để hình thành các thực tiễn thay thế. Như vậy các doanh nhân có thể là những

“đơn vị thực hiện” trong lĩnh vực , hoặc những người mới tham gia vào từ bên ngoài lĩnh
vực của tổ chức.
DiMaggio (1988) xác định "doanh nhân thể chế" như một yếu tố quan trọng trong
sự năng động của thay đổi thể chế. Ông ấy đã đề nghị các thể chế mới phát sinh khi
"những “đơn vị thực hiện” được tổ chức với nguồn lực đầy đủ để nhìn thấy bên trong các
thể chế mới có một cơ hội để thực hiện những lợi ích mà họ đánh giá cao" (trang 14). Các
“đơn vị thực hiện” này hành động theo cách doanh nhân
41
để chuyển đổi các hình thức
thể chế và thực tiễn để làm lợi riêng cho chính các đơn vị này. Đối với DiMaggio, hành
động đó quan trọng đối với quá trình mà theo đó các tổ chức mới được thành lập.Ví dụ:
DiMaggio (1991) chỉ ra vai trò của các chuyên gia nghệ thuật trong việc định hình lại
lĩnh vực của các bảo tàng nghệ thuật; Thornton (1995) đã xác định các tập đoàn lớn
42
, bên
ngoài lĩnh vực, như những “đơn vị thực hiện” có ý nghĩa trong việc làm thay đổi xu
hướng trong ngành công nghiệp xuất bản; Leblebici và các đồng sự. (1991) mô tả những
đổi mới quan trọng của những “đơn vị tham gia” nhỏ trong việc khởi tạo sự thay đổi cấp
lĩnh vực trong ngành công nghiệp phát thanh.
Kể từ khi có các công trình ban đầu của DiMaggio, đã có những nỗ lực khác để
minh họa và làm rõ các khái niệm này (Dorado, 1999; Garud và các đồng sự., 2002;
Lawrence, 1999; Sunddaby, 2001). Một sự phân loại đặc biệt có ích được cung cấp bởi
Dorado (1999), ông lập luận rằng có ba loại hình doanh nhân thể chế: những người cải
cách
43
, những người có vai trò xúc tác
44
, và những kỹ sư. Những người cải cách được đặt
trong lĩnh vực tổ chức và họ là những người đưa ra những ý tưởng, các hình thức tổ chức,
hoặc những thực tiễn thể chế mới. Một ví dụ là công trình của Leblebici và các cộng sự

(1991) mô tả về sự hình thành của lĩnh vực phát thanh. Lý luận của họ là phía bên ngoài
có thể tham gia vào các thực tiễn không chính thống mà dần dần sẽ được chấp nhận, dẫn
41
Entrepreneurially
42
Conglomerate
43
Innovator
44
Catalyst
15
đến sự thay đổi cấp độ lĩnh vực. Lý luận tương tự, Suddaby (2001) chỉ ra rằng đó là
những “đơn vị thực hiện” bị đẩy ra rìa
45
trong lĩnh vực pháp luật chính là những người
ban đầu đã giới thiệu những ý niệm về các thực tiễn đa lĩnh vực
46
cho ngành pháp lý, do
đó họ đóng vai trò là những người cải cách.
Tuy nhiên, các nghiên cứu khác nhấn mạnh rằng những nhà cải cách có thể là những
“đơn vị thực hiện” hiện hành có uy tín và quyền lực. Shere và Lee (2002, trang 104) đề
nghị "uy tín của một tổ chức có vai trò quan trọng với sự khởi tạo sự thay đổi trong
nhiều lĩnh vực tổ chức, đặc biệt ở những nơi cần nhiều uy tín." Những tổ chức có uy tín
có nhiều khả năng hành động theo kiểu doanh nhân vì họ có tính hợp pháp để hành động.
Như vậy, trong cuộc nghiên cứu của Sherer và Lee, đã quan tâm nhiều đến các công ty
luật ở New York và Chicago, các công ty này đã đề bạt các luật sư và nhóm của luật sư
cấp cao trong lĩnh vực của pháp luật. Tương tự, đó là Sun Microsystems, một công ty
máy tính có uy tín, vô địch về Java, sử dụng tất cả uy tín và tính hợp pháp như là một
phần quan trọng để đưa ra sự đổi mới (Garud và các đồng sự., 2002). Một số nghiên cứu
khác đã tập trung chú ý đến các hành động của lãnh đạo, như là những “đơn vị thực hiện”

có quyền lực trong đổi mới thể chế, thí dụ như các nghiên cứu của Brint và Karabel
(1991), Galaskiewicz (1991), fligstein (1997) và Greenwood với các đồng sự (2002).
Các kỹ sư cũng được nhận ra trong lĩnh vực thể chế là rất quan trọng với sự hợp
pháp hóa cuối cùng của đổi mới một khi được đưa ra. Họ là những người gác cổng
47

quyền lực mạnh ảnh hưởng đến dòng nguồn lực trong lĩnh vực. Vì vậy, quyền lực của họ
có thể định hướng và kiểm soát nội dung của những cuộc đàm luận và tranh cãi. Trong
nghiên cứu của DiMaggio (1991) về bảo tàng nghệ thuật, những người ảnh hưởng đến
văn hóa và xã hội cũng là những kỹ sư. Suddaby (2001), trong nghiên cứu của mình về
nghề nghiệp pháp lý, xác định một số “đơn vị thực hiện” trong sự hình thành các công ty
đa lĩnh vực
48
trong ngành luật pháp, bao gồm cả Ủy ban Chứng khoán Mỹ vì nó đã cố
gắng cơ cấu lại hệ thống quy tắc để bảo vệ ranh giới cũ giữa các ngành nghề của pháp
45
Marginalized actor
46
Multidisciplinary
47
Gatekeeper
48
Multidisciplinary firm
16
luật, kiểm toán, tư vấn quản lý. Các viện nghiên cứu pháp lý cũng đã có một chức năng
“kỹ thuật ”
49
quan trọng, khi họ tổ chức việc chứng nhận với Hiệp Hội Luật Sư Mỹ
50


đưa ra lời bình luận về sự thay đổi đã được đề nghị cho sự tổ chức thực tiễn hợp pháp.
Những nhà cải cách và công trình sư là thành phần của lĩnh vực hiện hữu và họ sẽ
đưa ra các hình thức và những thực tiễn mới từ quan điểm nội bộ. Trái lại, những người
có vai trò xúc tác, lại hoạt động từ bên ngoài lĩnh vực tổ chức, cung cấp những cú sốc
ngoại sinh
51
. Các “đơn vị thực hiện” bên ngoài thì ít chịu sự điều chỉnh để thích hợp với
những ảnh hưởng của một lĩnh vực tổ chức, giống như là được xã hội hóa thành những
kỳ vọng chuẩn mực khác nhau. Kết quả là, họ có khả năng đưa ra những sự giải thích
mới về các sự kiện và mang lại những thực tiễn tổ chức thay thế khác.
Những thay đổi chức năng,chính trị, xã hội, thúc đẩy việc gia nhập của những người
tham gia mới (Garud và đồng sự, 2002; Reay và Hinings sắp tới; Thornton, 1995). Những
áp lực chính trị thường là trực tiếp. Ví dụ, Reay và Hinings đã chỉ ra cách thức khiến sự
can thiệp chính phủ trong việc chăm sóc sức khỏe đã tái cấu trúc lĩnh vực một cách hoàn
toàn trong thời gian một năm bằng cách loại bỏ hơn 200 hội đồng y tế công cộng và bệnh
viện và và thay thế chúng bằng 17 hội đồng chịu trách nhiệm về sức khỏe khu vực
52
.
Những hội đồng sức khỏe này là những “đơn vị thực hiện” mới gia nhập được ủy thác
thực hiện công việc “theo kiểu kinh doanh” khi họ tiếp cận đến việc phân phối dịch vụ
cung cấp chăm sóc sức khỏe. Như vậy họ đã đại diện cho một nguyên ảnh mới, được cấu
trúc xung quanh những phân phối tích hợp các dịch vụ, lập kế hoạch kinh doanh, và một
sự lý luận thể chế nhấn mạnh về năng suất và hiệu quả. Những thay đổi điều lệ có thể có
ảnh hưởng tương tự, điều này được trình bày trong hoạt động của SEC
53
tại Hoa Kỳ, buộc
“năm công ty kế toán hàng đầu”
54
tự gạt bỏ những hoạt động thực tiễn về tư vấn của họ,
và như vậy sẽ cơ cấu lại lĩnh vực tổ chức dịch vụ kinh doanh và giới thiệu những “người

tham gia” mới. Có một kết quả quan trọng là sự hình thành các công ty trách nhiệm hữu
49
“Engineering” tạm dịch là kỹ thuật hóa – cũng có dịch giả dịch là “công nghệ”
50
American Bar Association
51
Exogeneous shock
52
Regional health authorities
53
SEC (Securities Exchange Commission):Ủy Ban Chứng Khoán (của Hoa Kỳ)
54
“Big Five”- tạm dịch là 5 công ty hàng đầu
17
hạn hoạt động tư vấn về tài sản nợ có trách nhiệm chính đối với các cổ đông, có vẽ như
chống lại sự kết hợp cũng như nền tảng của sự kết hợp giữa các đối tác và khách hàng.
Một lần nữa, những hình thức tổ chức và thực tiễn mới đã xuất hiện với mức độ hợp pháp
cao từ bởi SEC
55
.
Những áp lực chức năng trở nên quan trọng trong việc khử thể chế hóa của lĩnh vực
tổ chức, đặc biệt thông qua những thay đổi trong thị trường. Quả thật, đã có sự tương tác
đáng kể giữa các áp lực chính trị và áp lực chức năng trong nhiều lĩnh vực trong hai thập
kỷ qua như là các chính phủ tập trung quyền lực
56
đã đưa ra ngày càng nhiều việc bãi bỏ
các quy định với mục đích tạo sức cạnh tranh lớn hơn. Điều này liên quan đến việc thay
đổi các “đơn vị thực hiện” trong một lĩnh vực , đưa ra những đơn vị mới, và chuyển đổi
những đơn vị hiện hữu, điều này được mô tả bởi Scott và cộng sự (2000) trong hệ thống
chăm sóc sức khỏe Vùng Vịnh

57
. Bên cạnh việc xảy ra việc bãi bỏ quy định của thị
trường là sự chuyển dịch cơ cấu của thị trường cạnh tranh. Thornton (1995), Thornton và
Ocasio (1999) chỉ cho thấy cách thức những áp lực thị trường trong ngành công nghiệp
xuất bản hệ cao đẳng dẫn đến các “đơn vị thực hiện” mới bước vào ngành công nghiệp,
mang theo những thực tiễn về quản lý và cơ cấu tổ chức mới. Hinings, Greenwood, và
Cooper (1999) lập luận tương tự rằng những thay đổi thị trường trong nhu cầu về dịch vụ
kế toán dẫn đến một sự di chuyển từ hình thức cộng tác chuyên môn của tổ chức thành bộ
máy chuyên nghiệp được quản lý với một định hướng thị trường nhiều hơn.
Một cách quan trọng để các áp lực xã hội tạo ra sự chuyển đổi thể chế là thông qua
sự xuất hiện của những giá trị mới thách thức những lý luận thể chế hiện hữu.Việc thay
đổi những khái niệm xã hội cho phép các “đơn vị thực hiện” mới tham gia vào một lĩnh
vực. Việc thay đổi từ công việc ngành y tế đến công việc hành chính dẫn đến các lập
luận xác đáng trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã làm thay đổi các nhà cung cấp dịch vụ,
mà đỉnh cao, là ở Hoa Kỳ, với tổ chức HMO
58
(Caronna và Scott, 1999). HMO là một
nguyên ảnh tổ chức mới nhằm phân phối dịch vụ chăm sóc sức khỏe với hoạt động hoàn
55
SEC (Securities Exchange Commission):Ủy Ban Chứng Khoán (của Hoa Kỳ)
56
Right-of-center government
57
Bay Area health system
58
HMO (Health Maintenance Organization)
18
toàn khác các hình thức tổ chức y tế chuyên nghiệp. Scott và đồng sự (2000) chỉ rõ một
quá trình liên tục trong 60 năm qua của ba


lý luận thể chế chủ đạo khác nhau: y tế, chính
phủ, và thị trường, mỗi lý luận đại diện cho các bộ giá trị xã hội khác nhau về bản chất
của sự chăm sóc sức khỏe.
Những “đơn vị thực hiện” mới đưa ra những ý tưởng mới và cách thức mới làm việc
vào trong lĩnh vực tổ chức. Dĩ nhiên "cái mới" có hai nghĩa. Các áp lực mang tính chính
trị, chức năng, xã hội có thể hoặc cho phép các “đơn vị thực hiện” đã được thiết lập từ
các lĩnh vực khác xâm nhập vào (như trong ví dụ ngành công nghiệp xuất bản của
Thornton), hoặc họ có thể tạo ra các “đơn vị thực hiện” mới hoàn toàn. Cả hai điều này
có thể xảy ra cùng một lúc. Như trong lĩnh vực tư vấn công nghệ, từng được xem như là
tiên phong (Greenwood và các đồng sự., 2002). Hoặc ngành Công Nghệ Thông Tin (IT)
59
ngày càng trở thành một phần của hoạt động kinh doanh, đã có sự hội tụ lại với nhau, nói
theo cách khác, các công ty tư vấn quản lý khác như Cap Gemini Ernst và Young đã di
chuyển mạnh mẽ vào công việc Công Nghệ Thông Tin, mặt khác, các công ty Công Nghệ
Thông Tin như IBM đã trở thành những công ty tư vấn. Kết quả là một sự chuyển đổi của
lĩnh vực này khi các loại tổ chức riêng biệt trước đó bắt đầu cạnh tranh với nhau. Và hình
thức doanh nghiệp nổi trội xuất hiện là sự cung cấp dịch vụ tư vấn kết hợp Công Nghệ
Thông Tin. Trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đã có nhiều quá trình hình thành những
“đơn vị thực hiện” mới hoàn toàn, như HMO và hội đồng phụ trách sức khỏe khu vực
(Reay và Hinings, sắp tới; Scott và các đồng sự., 2000). Trong tình huống này các “đơn
vị thực hiện” mới tạo ra các nguyên ảnh mới.
Tại sao các “đơn vị thực hiện” trong lĩnh vực cần tìm kiếm sự thay đổi là một vấn
đề thú vị. Điều này ít nhất có đóng góp một phần vào việc sự thay đổi có thể nhìn thấy
được, bằng cách đưa vào một cách triệt để hoặc là từng bước. Một điều được ghi nhận là
những người tham gia "ở ngoài rìa "
60
thì có nhiều khả năng tìm kiếm sự thay đổi hơn
(Powell, 1991). Do không được hưởng lợi từ những lợi ích vốn có của lĩnh vực này, và
cũng không có thể mở rộng đầu tư trong sự thỏa thuận hiện có, những người tham gia
59

IT (Information Technology)
60
“Peripheral”
19
ngoài rìa sẽ hưởng lợi nhiều hơn các “đơn vị thực hiện” ở trung tâm nếu có sự thay đổi.
Vì vậy, họ có nhiều khả năng suy tính và thúc đẩy cho sự thay đổi khi có cơ hội xuất
hiện. Theo Leblebici (1991, trang 358), việc đưa ra các thực tiễn mới một cách triệt để
trong các tổ chức "được thực hiện bởi những người cho rằng họ sẽ ít tốn kém hơn với kết
quả cuối cùng". Những ví dụ tương tự có thể thấy từ những cuộc nghiên cứu công nghệ,
khi sự đổi mới nhằm đánh tan sự cạnh tranh được kết hợp với các đại lý nằm rìa hoặc bên
ngoài vì các đơn vị này có ít lý do để tán đồng tình trạng hiện hữu (Anderson và Tusman,
1990). Ví dụ, Hargadon và Douglas (2001) mô tả các công ty gas mạnh mẽ chống lại các
thí nghiệm tiên phong của Edison sản xuất điện dùng cho khu dân cư và kinh doanh. Hơn
nữa, như Greenwood và Suddaby (2002) lưu ý, người tham gia ngoài rìa ít nằm bên
trong, và do đó ít có khả năng bị trói buộc bởi những thực tiễn trong một lĩnh vực.
Thuật ngữ doanh nhân thể chế
61
hữu ích bởi vì nó thể hiện ý tưởng của các “đơn vị
thực hiện” tranh thủ cơ hội để nắm bắt lợi thế. Nhưng trong một chừng mực ý nghĩa nào
đó, thuật ngữ này là gây hiểu nhầm, bởi vì nó tạo ra cảm tưởng rằng những người khởi
xướng sự thay đổi đều giống như “những người nổi dậy” như được mô tả trong lý thuyết
về phong trào xã hội. Lý thuyết về phong trào xã hội (McAdam và các đồng sự., 1996) đề
cập đến cách thức các cá nhân và các nhóm không có lợi trong xã hội huy động và thách
thức cấu trúc thể chế đang nắm ưu thế và cả các tác động của nó. Theo McAdam và các
đồng sự, có một "sự đồng thuận mới xuất hiện" bao gồm ba yếu tố có tầm quan trọng khi
phân tích các phong trào xã hội: "cơ hội chính trị," "sự huy động cơ cấu" và "sự tạo
khung quy trình" (vấn đề này sẽ được nói đến nhiều hơn sau này). Những cơ hội chính
trị, theo ghi chú McAdam (1996, trang 23), đang sinh ra "người nổi dậy có đủ điều kiện
bằng cách chuyển dịch cấu trúc thể chế và bố trí lại các hệ tư tưởng đang thống trị" (điểm
nhấn mạnh này được thêm vào).

Lý thuyết phong trào xã hội bổ sung cho lý thuyết thể chế bởi vì nó nhắc nhở chúng
ta rằng không phải tất cả các “đơn vị thực hiện” trong lĩnh vực đều có đặc quyền như
nhau qua các thực tiễn thể chế hiện hành và có thể đối đầu với các thực tiễn này.Trong ý
61
Institutional Entrepreneur - đã được dịch là “doanh nhân thể chế” suốt chương này, ở phần này được tác giả giải
thích rõ hơn ý nghĩa sử dụng của nó.
20
nghĩa này, các “đơn vị thực hiện” tập hợp các “đơn vị tham gia” nằm ngoài rìa đã được
đề cập trước đó. Nhưng phải hiểu là chúng khác nhau. Doanh nghiệp thể chế như được
mô tả bởi những nhà thể chế
62
được thúc đẩy bởi vấn đề kỹ thuật là chủ yếu, đó chính là,
các thực tiễn hiện hành không thành công trong việc đối phó với những thách thức và
trong một số trường hợp của lĩnh vực thì những lựa chọn thay thế lại được xem là hiệu
quả hơn. Thật vậy, từ ngữ của "doanh nhân" nhằm để vay mượn ý nghĩa trong sự miêu tả
chân dung của từ đó
63
. Nhưng một số sự thay đổi được đấu tranh vì lý do chính trị, khi
các nhóm tìm cách vượt qua bất lợi của họ và có được uy thế và đặc quyền. Những chủ
thể thay đổi
64
như vậy càng giống như “những người nổi dậy" trong lý thuyết phong trào
xã hội. Ví dụ là phong trào của người tiêu dùng chống các bệnh viện tư nhân trong hệ
thống y tế, hoặc các phong trào của phụ nữ thách thức sự đối xử bất bình đẳng, hoặc công
đoàn phản đối các cổ đông ưu thế.
Nói tóm lại, chúng tôi đang đề nghị khi (1) có các áp lực chính trị, chức năng, và xã
hội, (2) các doanh nhân thể chế, xuất phát từ cả trong nội bộ và bên ngoài, nổi lên như
“đơn vị thực hiện” quan trọng, và (3) vai trò của các “đơn vị thực hiện” này là để khởi tạo
sự thay đổi. Những doanh nhân thể chế và những người đối kháng rất quan trọng trong
việc kích hoạt quá trình thay đổi. Họ phá vỡ các ý tưởng và thực tiễn hiện tại (như vậy,

thúc đẩy sự khử thể chế hóa) và đưa ra cách thay thế của việc tổ chức (tái thể chế hóa).
Suddaby (2001) cho thấy rằng điều này mô tả chính xác các hành động của "năm tổ chức
hàng đầu"
65
trong quá trình tạo các thực tiễn đa kỷ luật về kế toán và pháp luật. Tuy
nhiên, như Greenwood và Hinings (1996) đã lập luận, áp lực cho sự thay đổi, thậm chí
kết hợp với các thử nghiệm địa phương, không tự động dẫn tới sự truyền bá đồng đều và
trơn tru của một nguyên ảnh mới. Vì vậy, chúng tôi cần chuyển đến các quá trình mà sự
truyền bá được mạnh mẻ hơn.
Giai đoạn III: quá trình khử và thiết lập lại thể chế hóa
62
institutionalist
63
(chú thích người dịch : ý tác giả dùng chữ “doanh nhân thể chế” để thể hiện người có lợi trong một thể chế )
64
Change agent
65
“Big Five”
21
Có 3 mặt trong việc triển khai sự khử và thiết lập lại sự thể chế hóa là lý thuyết
hóa
66
, sự hợp pháp hóa
67
và sự phổ biến
68
. Lý thuyết hóa là sự phát triển và đặc tả các
phạm trù trừu tượng và tạo ra các chuỗi nhân quả; điều đó có nghĩa là nó bao gồm cả việc
xây dựng một mô hình cho các hình thức tổ chức và thực tiễn mới làm việc và cung cấp
một sự điều chỉnh để thích hợp cho cả hiện tại và tương lai (Strang và Meyer,1993 trang

492). Sự hợp pháp hóa là tiến trình liên kết các ý tưởng mới, các hình thức và thực tiễn
cho các tập hợp của giá trị và lý luận được duy trì bởi sự kính trọng bởi các “đơn vị thực
hiện” trong lĩnh vực và bối cảnh xã hội chung quanh. Các hình thức tổ chức mới sẽ
không đạt tới tình trạng nguyên ảnh “được thừa nhận một cách đương nhiên”
69
trừ khi
chúng được chấp nhận như là pháp chế. Sự phổ biến lan truyền nguyên ảnh mới trong
lĩnh vực, qua cơ chế của sự ép buộc, chuẩn mực, các đẳng cấu sao chép nhau
70

Lý thuyết hóa
Lý thuyết hóa bao gồm một tiến trình của sự trừu tượng hóa (Abbott 1988), lấy các
đặc trưng, thiết lập trường hợp cục bộ của các ý tưởng mới và tổng quát hóa chúng cho
những bối cảnh khác nhau. Trong những giai đoạn trước, giai đoạn II, các thực tiễn mới
được cục bộ hóa một cách cơ bản.Có nghĩa là, các tổ chức đặc thù tiến hành thực nghiệm
với nỗ lực để cải thiện các thực tiễn hiện hữu, có khi kết quả thực nghiệm cao hơn, vượt
qua các thực tiễn hoàn toàn bất ngờ. Tiến trình thực nghiệm có thể được kiểm soát hay là
một bị vô tình lệch hướng. Một cách trầm trọng, sự thực nghiệm và sự lệch hướng được
gắn kết chỉ với một thiểu số của những “đơn vị tham gia” trong ngành. Lý thuyết hóa
chuyển các thực nghiệm cục bộ thành một câu chuyện tổng quát về cách thức liên quan,
thích hợp cho đối tượng thụ hưởng rộng hơn. Lý thuyết hóa nhằm vào hai việc. Trước
hết, nó cho các đối tượng thụ hưởng
71
biết về các thực nghiệm cục bộ. Sau đó nó biện hộ
cho việc bỏ các thực nghiệm cũ mà chấp nhận cái mới. Sự chấp nhận sâu rộng tùy thuộc
vào việc trình bày các ý tưởng mới có thành công đối với những người có xu hướng chấp
66
Theorization
67
Legitimation

68
Dissemination : ở đây tạm dịch là : sự truyền bá ; sự phổ biến; sự lan tỏa
69
Taken-for-granted
70
Mimetic isomorphism
71
Audience - ở đây tạm dịch là “đối tượng thụ hưởng”
22
nhận (Strang và Meyer 1993, trang 494). Những ý tưởng và thực nghiệm mới phải được
thấy, và được xem là hấp dẫn hơn là các thực nghiệm hiện hữu. Như trình bày của Strang
và Meyer (1993 trang 495) “các mô hình phải thực hiện 1 sự chuyển đổi từ công thức lý
thuyết các phong trào xã hội đến các quy định thể chế.
72
” Qua điều này thể hiện những ý
tưởng tổ chức mới sẽ được đưa ra với tính “hợp pháp của đạo đức” (Suchman,1995)
nhằm gia tăng chất lượng hấp dẫn của chúng.
Hợp pháp hóa
Miznuchi và Fein (1999) chỉ ra rằng hầu hết các bài viết trong lý thuyết tổ chức đã
bỏ qua phần lớn cách thức để các ý tưởng mới trở thành hợp pháp, ngoại trừ các ý tưởng
này xuất hiện qua sự đẳng cấu bắt chước nhau. Tuy nhiên, có một vài sự ảnh hưởng của
cấu trúc của sự hợp pháp cho các hình thức tổ chức mới trong sự thay đổi thể chế không
đẳng cấu. Holm (1995) trong nghiên cứu của ông ta về việc đánh cá của người Na Uy đã
nhận định trạng thái như là các “đơn vị thực hiện” quan trọng
73
trong việc hợp pháp hóa
sự cải tổ. Trong nghiên cứu của mình, Holm xử lý việc dịch chuyển các hệ tư tưởng, cấu
trúc xã hội và quyền lực ở các cấp khác nhau, điều đó tạo ra kết quả là thay thế các pháp
chế hiện hữu bằng cái mới. Leblebici với một số công trình (1991) cho rằng sự hợp pháp
hóa xảy ra khi sự đổi mới khiến cho những “đơn vị tham gia” cực đoan được chấp nhận

bởi những “đơn vị thực hiện” đã được thiết lập. DiMaggio (1991) qua sự quan sát cho
thấy sự hợp pháp của một dạng mới của bảo tàng đã trao quyền cho các phong trào cải
cách bảo tàng, và như vậy là cho phép sự khử tính hợp pháp của các hình thức đang tồn
tại. Những quan sát này chọn những nghiên cứu của sự thay đổi thể chế xác định sự hợp
pháp như là điều cốt yếu cho sự thiết lập các dạng mới của việc tổ chức (Scott 2001).
Sự thay đổi thể chế bao gồm những đoan quyết với sự hợp pháp có cơ sở rộng rãi
đã được tạo ra cho sự đa dạng của các đối tượng thụ hưởng bằng cách liên kết sự thay đổi
trong các thực tiễn nguyên ảnh đến các giá trị xã hội rộng hơn. Bài thuyết trình về sự hợp
pháp (hay lời tuyên bố ăn khớp ) ăn khớp với giá trị và thuộc tính của các ý tưởng mới,
72
Institutional imperative
73
Critical actor.Ở đây từ actor được lặp lại nhiều lần trong bài viết,có thể tạm dịch là ““đơn vị thực hiện”, “đơn vị
tham gia”
23
hình thức , và các thực tiễn cho những điều được giữ trong xã hội ở mức rộng, có nghĩa là
những giá trị rộng hơn nằm ngoài lĩnh vực tổ chức riêng biệt. Sự thay đổi thể chế thì
được tổ chức ban đầu quanh những bàn cãi về sự thích hợp của các hình thức tổ chức đặc
biệt, với những “đơn vị tham gia” cố gắng “mang sự thích thú của họ vào các luồng của
giá trị xã hội và do đó tạo ra hoặc che chở sự hợp pháp của các định nghĩa về các “thứ tự
xã hội hợp lý” (Miles,1982 trang 23). Đạt được sự hợp pháp có nhiều cách mới tổ chức
liên hệ quyền hạn cho các “đơn vị tham gia” nào đó để điều khiển các quy trình hiện tại
và tương lai cho sự thể chế hóa.
Sự phổ biến (truyền bá)
Các thực tiễn thể chế đã được lý thuyết hóa và hợp pháp hóa (hai tiến trình này
tương tác lẫn nhau) sau đó có thể được truyền bá cho những “đơn vị tham gia” khác qua
các tiến trình bắt buộc,chuẩn mực,và các đẳng cấu bắt chước nhau. Nhiều tác giả đã
khám phá khuôn mẫu (Greve 1995, 1996), và cơ chế này (Baron, Dobbin, và Jenming
1986; Burns và Wholey 1993; davis 1991; Davis và Greve 1997;Funstein 1995; Gulati
1995; Haveman 1993; Haunschild và miner1997; Kraatz 1998; Mizruchi 1996; Palmer

Jenmings và Zhou 1993; Tolbert và Zucker 1983,Westphal và Zajac 1997) bằng cách này
các ý tưởng được chuyển trong cộng đồng tổ chức. Thật ra, sự tập trung vào lý thuyết thể
chế có nghĩa là dựa vào cách thức như thế nào các tiến trình bắt chước thực hiện để duy
trì cấu trúc, tương tác và nhận thức trong các lĩnh vực thuộc về thể chế. Chúng tôi cho
rằng có nhiều tiến trình giống nhau cùng đóng góp trong việc truyền bá các ý tưởng và
các thực tiễn mới ở cấp lĩnh vực
74
, khi nó khử thể chế hóa và sau đó tái thể chế hóa.
Tolbert và Zuker (1983) triển khai tiến trình gồm hai giai đoạn qua các nghiên cứu
của họ từ sự cải cách đô thị
75
ở Hoa Kỳ, bắt đầu với các áp lực xã hội, chính trị và chức
năng. Làn sóng đầu tiên được chấp nhận là các bộ phận nhỏ
76
với các loại khác nhau về
khoảng cách hiệu quả công việc
77
. Giai đoạn 2 (là giai đoạn III của chúng ta) có một sự
dâng cao xu thế đẳng cấu sao chép nhau theo sau sự lý thuyết hóa và sự pháp chế hóa cúa
74
Field level
75
Municipal reform
76
contingent
77
Performance gap
24
các hình thức tổ chức mới. Tương tự như vậy, Lee và Pennings(2002) cho rằng sự gia
tăng kiến thức sẽ là tính cạnh tranh và các quy trình thuộc thể chế tương tác với nhau

trong sự sản xuất sẽ hội tụ về mặt cấu trúc. Khuôn mẫu của mô hình liên kết các thành
phần
78
được chấp nhận trong các công ty luật nhận được sự hợp pháp qua sự hồi tiếp của
thị trường, đã chứng thực hành vi ( và như vậy là hợp pháp) của việc chấp nhận các công
ty. Sau đó đã có một sự khuếch đại của sự truyền bá qua sự gia tăng tính hợp pháp của
hình thức mới.
Westphal với các đồng sự (1997) đã khẳng định và mở rộng mô hình của Tolbert
và Zucker. Họ xem xét sự chấp nhận ở các bệnh viện về các thực tiễn quản lý chất lượng
toàn phần (TQM)
79
và đã nhận thấy có những đơn vị sớm chấp nhận
80
các thực tiễn tối ưu
hóa của TQM, nhằm nâng cao hiệu quả. Đối với những đơn vị chấp nhận trễ hơn thì
ngược lại, chấp nhận các thực tiễn TQM tổng quát nhiều hơn, ngay cả mặc dầu sự chấp
nhận có tuần tự ngược lại với sự thực hiện của bệnh viện. Westphal và các đồng sự kết
luận rằng những đơn vị chấp nhận trễ theo đuổi sự hợp pháp vì áp lực chuẩn mực bất kể
tuần tự thực hiện.
Greenwood và Hinning (1996) gợi ý rằng những cơ chế này của sự truyền bá thay
đổi qua các lĩnh vực thuộc về thể chế. Đây là phần định nghĩa của một lĩnh vực tổ chức
trưởng thành, đó chính là cấu trúc, là các khuôn mẫu của sự tương tác và là những hệ
thống mang ý nghĩa chung nhất đã được thiết lập. Thực tế mà nói, các khái niệm trên gắn
chặt với nhau từng cặp và khó thâm nhập vào nhau. Tình trạng này có hai hàm ý. Một là
tiến trình của sự lý thuyết hóa và pháp chế hóa các ý tưởng mới khó mà thực hiện.
Greenwood và các đồng sự (2002) chỉ ra rằng phải mất cả thập niên để các ý tưởng của
sự cộng tác đa lĩnh vực
81
được chấp nhận trong các lĩnh vực kế toán, ngay cả những đơn
vị đề xuất các ý tưởng này là những bộ phận tham gia có quyền lực và lớn hơn. Tuy

nhiên, hàm ý thứ hai là vì sự hiện diện của các cơ chế sao chép và mang tính chuẩn mực
trong các trường hợp đặc biệt, sự truyền bá một khi được khai hỏa có thể xẩy ra rất nhanh
78
Partner-associate model
79
Total quality management
80
Adopter ở đây được hiểu là đơn vị chấp nhận chứ không phải là 1 “đơn vị thực hiện”
81
multidisciplinary
25
chóng. Trong trường hợp mối liên kết từng cặp càng lỏng thì các lĩnh vực càng dễ thâm
nhập
82
lẫn nhau và khi đó có càng nhiều ý tưởng được lý thuyết hóa - như là khi các nhà
lý thuyết phong trào xã hội đưa ra, thì càng “tạo khuôn khổ sự tranh tài ”
83
(McAdam và
đồng sự 1996, trang 17), thì kết quả sẽ làm sự truyền bá sẽ khó khăn hơn vì sự cho phép
những cơ chế.
Dĩ nhiên, có những lĩnh vực tổ chức trong tất cả quốc gia là những chủ đề quan
trọng cho pháp chế và luật lệ và khi đó sự thay đổi về chất
84
có thể xẩy ra cực nhanh
85
.
Dobbin (2000),Dobbin và Dowd (1997) phân tích làm thế nào những chế độ chính sách
khác nhau - sự huy động vốn từ công chúng, ủng hộ các liên minh
86
,chống lại tập đoàn

87
– của những năm 1825 -1992 đã ảnh hưởng đến sự thành lập và hình thành hệ thống
đường sắt ở Massachusetts. Hinings và Greenwood(1988) đã chỉ ra cách thức mà các lĩnh
vực của chính quyền địa phương ở Anh đã được chuyển đổi bằng sự sinh ra pháp chế từ
sự kết hợp của các áp lực chức năng, xã hội và chính trị trong hệ thống. Vào thời điểm
1/4/1974 khoảng chừng 1300 tổ chức đã trở thành 430 tổ chức với sự phân bố chủ yếu lại
công việc, biên giới địa lý, thay đổi mối quan hệ, tất cả đều dựa vào một tập hợp khác về
niềm tin về nhứng cách thức mà các dịch vụ địa phương phân bố. Reay (2000) mô tả một
sự chuyển đổi pháp chế tương tự trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở Alberta, Canada.
Hơn 200 hội đồng sức khỏe và bệnh viện được phân ra thành 17 hội đồng sức khỏe địa
phương (Regional Health Authorities- RHAs). Một lần nữa, điều này cũng thể hiện sự
phân phối chủ yếu lại công việc, ranh giới địa lý mới, và các mối quan hệ đã được thay
đổi. Toàn bộ sự thay đổi được tập trung bao quanh một tập hợp các giá trị nhấn mạnh một
hướng tiếp cận mang “dáng dấp kinh doanh”
88
cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe, được nhấn
mạnh bằng việc đưa ra quy trình lập kế hoạch kinh doanh cho từng RHA và đề cao sự hội
họp giữa các thành viên hội đồng có kinh nghiệm kinh doanh hơn là có kiến thức về sự
chăm sóc sức khỏe.
82
Permeable field
83
“Framing contest”
84
Transformational change
85
“At a stroke” tạm dịch là “cực nhanh ”
86
Pro-cartel
87

Anti-trust
88
‘Businesslike”

×