Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.54 KB, 63 trang )

Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
BS- Đỗ Hồng Ngọc
LTS: "Trong cuốn Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò, với kinh nghiệm nhiều
năm chăm sóc sức khỏe trẻ em, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã thân ái nói chuyện thẳng với các em,
giúp các em phòng bệnh, phát hiện bệnh kịp thời, tự chăm sóc và biết khi nào phải đi bệnh viện.
Cũng với ý nghĩ đang nói chuyện trực tiếp với trẻ, tác giả đã viết bằng một giọng thân mật và cố
gắng trình bày thật giản dị, tránh những lập luận quá sâu và thuật ngữ gây nhàm chán. Sách do
Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành".
Cận thị – viễn thị – loạn thị
Đôi mắt, em biết đó, là “cửa sổ của tâm hồn”, như các nhà văn thường nói. Qua đôi mắt, ta có
thể nhìn thấy, đọc được tâm hồn người khác. Ta có thể đoán biết người đó hiền lành hay xảo trá,
quỷ quyệt; người đó nhu mì hay ngỗ nghịch, tinh ranh… Đôi mắt còn được các nhà thơ ca tụng
hết lời. Chắc em nhớ câu thơ này của một thi sĩ “Mắt em là một dòng sống, hồn anh bơi lặn trong
lòng mắt em”?.
Với tuổi học trò, đôi mắt đóng một vai trò tối quan trọng. Nhờ nó, ta nhìn, ta ngắm, ta đọc…
Những hình thể, màu sắc, ánh sáng… được ta cảm nhận qua mắt, rồi nhờ những dây thần kinh
dẫn vào trong khu óc não, ở đó là một phòng thí nghiệm vô cùng tinh vi cho ta biết cái mà ta
thấy. Nhiều em học kém vì mắt yếu, nhiều em khác nhức đầu luôn đến nỗi bỏ học một phần cũng
do những tật bệnh của mắt. Có một đôi mắt trong sáng, lành mạnh, đôi khi em không thấy là quý,
cũng như ta thở mỗi phút giây mà chẳng nhận thấy không khí là cần. Em phải chăm sóc đến đôi
mắt của em nhiều hơn.
Tôi sẽ nói ở đây với em về một vài tật bệnh thông thường của mắt, đả phá những thành kiến sai
lầm liên quan đến những tật bệnh này rất thường có ở các em, và sau cùng là chỉ dẫn một vài
phương pháp vệ sinh cần thiết cho mắt. Tôi cũng nói ngay ở đây rằng ở tuổi các em không nên
trang điểm diêm dúa như các đào hát, ca sĩ. Họ vì nghề nghiệp mà phải làm như thế. Cạo lông
mày tô chì đen, mang lông mi giả, nhỏ thuốc cho mắt long lanh…; những điều đó không thích
hợp với tuổi học trò. Hãy để cho đôi mắt em tự nhiên. Một vật lạ nào vào mắt cũng gây tổn
thương ít nhiều cho mắt.
Tôi còn nhớ những ngày mới rời tỉnh lên Sài Gòn “du học”, tôi được nhét vào một lớp học “cá
hộp” gần 120 người và dù cố gắng giành chỗ cũng bị ngồi bàn áp chót! Ở đó, tôi phải nhíu mắt
hết sức mới thấy được nhữung công thức toán, hóa học thầy viết trên bảng xanh. Tôi cũng phải


cố nhíu mắt để nhận mặt thầy vì tôi chỉ thấy ông thầy thấp thoáng qua lại mà không nhìn rõ nét.
Đôi khi gặp thầy hoặc bạn bè ngoài đường tôi chưa kịp chào thì đã trễ và vì thế đành mang tiếng
“bất kính” hoặc “khinh người”!
Tôi đành đi khám mắt, kết quả cận thị 2 độ 5! Thực là tai hại! Giá tôi đi Sài Gòn học sớm hơn,
có lẽ không cận đến độ đó! Ở tỉnh, lớp ít người, tôi luôn luôn được ngồi bàn đầu nên không thấy
mắt mình kém, nhưng nguyên nhân thúc đẩy tôi đi khám mắt chính là vì tôi thấy nhức đầu trong
lúc học. Từ ngày biết mình bị cận thị, tôi lo lắng và xấu hổ ghê lắm! Tôi mua một cái kính cận,
giấu thật kỹ trong cặp, đến lớp thì để kính dưới hộc bàn, chỉ lúc nào cần nhìn bảng thì vội vàng
mang lên nhìn một cái rồi lại vội vàng giấu đi. Tôi sợ bạn bè cười, chế nhạo. Mà thực, họ thêm
vào tên tôi một tiếng cận: Ngọc cận, cũng như các em bây giờ bị gọi là Hồng cận, Văn cận,
Thuận cận…
Chưa đầy một năm sau, trong tình trạng che giấu, mặc cảm này, mắt tôi bị tăng lên 3 độ 5. Ông
bác sĩ đo mắt tôi không hề cho tôi biết nên mang kính như thế nào, cũng không hề giải thích cho
tôi biết cận thị là một tật của mắt, không có gì đáng xấu hổ cả! Có lẽ ông coi là chuyện hiển
nhiên, ai cũng biết như thế. May mắn cho tôi, lần này, khi đi đổi kính, tôi gặp một người chủ
tiệm cận thị nặng, ông ta nói với tôi là ông đeo kính 6-7 năm mới tăng một độ! Lý do là ông
không bỏ kính ra khỏi mắt, trừ khi ngủ, tắm. Tôi cũng khám phá sau đó rằng có nhiều người
“văn minh” mang kính cận thị giả (0 độ) để tỏ ra đạo mạo, trí thức! Từ đó tôi không còn mặc
cảm vì cận thị nữa và trong hơn 12 năm nay, tôi mang kính thường xuyên, nên chỉ tăng lên nửa
độ mà thôi!
Chuyện tôi trải qua đó, chắc có nhiều em đang mắc phải. Tôi biết có nhiều em cận mà không
dám mang kính, sợ mang kính sẽ tăng độ, sợ thiên hạ chế giễu…, đành mang tiếng “hách dịch”
“khinh người”, đành mượn tập vở chép bài, đành ghé mắt sang người bên cạnh “copy”! Bây giờ
thôi hết nhé! Nếu cận thị, hãy mang kính đi. Đừng để mắt mỏi mệt vì phải điều tiết nhiều, sẽ tăng
độ một cách nhanh chóng. Đó là không kể trường hợp đi xe ngoài công lộ có thể gây tai nạn dễ
dàng. Mang kính quen rồi có khi quên cả mình đang có kính trên mắt. Cận thị không xấu, nó là
một cái tật mà nguyên nhân một phần lớn do di truyền. Cận thị vì thế cũng chẳng có gì đáng
hãnh diện để những em không cận cũng bày đặt mua kính không độ mang làm dáng.
Nhớ đừng để như em Hồng tôi, lúc đầu đo mắt chỉ cận 2 độ 5, rồi vì ngượng ngùng, vì mắc cỡ
đến nỗi chưa đầy một niên học mắt đã tăng lên 5 độ.

Đó là cận thị, viễn thị, loạn thị (những tật bệnh khác như loạn sắc, nhìn một vật hóa hai… không
được đề cập ở đây). Cận thị là mắt chỉ nhìn thấy những vật ở gần; vật ở xa thấy mờ mờ, không rõ
nét. Người bị cận thị một độ đọc rõ trong khoảng cách một thước, cận hai độ chỉ còn nửa thước
và một người cận bốn độ chỉ còn đọc rõ trong khoảng cách 2 tấc 5.
Mắt bình thường thì ảnh của một vật ở vô cực sẽ hội tụ ở võng mô (không phải điều tiết), trong
khi ở người cận thị, hoặc vì nhãn cầu lớn hoặc vì thủy tinh thể quá hội tụ, ảnh của vật đó sẽ nằm
trước võng mô. Nguyên nhân một phần chính là di truyền. Có nhiều em mới sinh ra đã bị cận rồi.
Tôi đã thấy có những gia đình cả nhà đều bị cận mà những em bé mới 10 tuổi đã cận trên 10 độ.
Tuy nhiên, những người đọc sách quá nhiều trong điều kiện thiếu vệ sinh (những con mọt sách)
cũng có thể bị cận thị. Thực tế cho thấy những người gọi là trí thức (bác sĩ, sinh viên, học sinh,
học giả, nhà văn, nhà báo…) thường mắc tật cận thị, có lẽ do vấn đề thiếu vệ sinh: đọc và viết
nơi thiếu ánh sáng, tư thế và khoảng cách không đúng, mắt không được nghỉ ngơi, dễ mệt, yếu
đi. Những người ở thôn quê, sống cảnh thiên nhiên ít bị cận thị, vì tầm mắt của họ là chân trời xa
thẳm, là đồng xanh bát ngát…
Viễn thị không phải là mắt nhìn thấy được một vật ở xa hơn mắt bình thường đâu. Người viễn
thị, trái lại, chỉ nhìn được trong một khoảng giới hạn nào đó thôi, nhưng cận điểm (điểm gần nhất
mà mắt còn có thể thấy rõ) xa ra hơn mắt thường.
Một mắt viễn thị muốn nhìn gần (vừa phải) và nhìn xa đều phải điều tiết. Sự điều tiết thường
xuyên này làm cho mắt mỏi mệt nhiều. Mắt viễn thị do nhãn cầu nhỏ hơn bình thường hoặc thủy
tinh thể hội tụ quá yếu, khiến cho ảnh của một vật nằm đằng sau võng mô. Muốn nhìn rõ phải
rán sức rất mệt cho mắt (trường hợp mắt già - cận điểm cũng xa dần ra, vì thủy tinh thể yếu,
không đủ sức hội tụ, người già vì thế muốn đọc phải để xa mắt, nếu không mang kính).
Loạn thị là mắt nhìn không đều. Thí dụ trên mặt đồng hồ có 12 số hợp thành một vòng tròn thì
người loạn thị đọc rõ số 12 và số 6, còn số 3 và số 9 thì không rõ hoặc ngược lại, độc rõ số 3 và
số 9 còn số 12 và 6 thì không rõ. Loạn thị là do độ cong của giác mạc không đều nhau khiến cho
sự khúc xạ ánh sáng phát xuất từ vật sai lệch đi.
Muốn chữa cận thị, viễn thị, loạn thị, người ta dùng các loại kính: kính phân kỳ cho cận thị, kính
hội tụ cho viễn thị và kính lăng trụ cho loạn thị. Khi thấy có những triệu chứng khó chịu về mắt,
như nhìn xa không rõ, nhìn gần mỏi mắt, nhìn chỗ rõ chỗ không, nhức đầu dai dẳng, chóng mặt,
học kém… thì phải đi khám mắt ngay. Bác sĩ chuyên khoa về mắt sẽ khám mắt cho em và sau đó

em đến một tiệm bán kính đeo mắt đáng tin cậy mua một cặp kính đúng tình trạng mắt em. Tại
các tiệm kính lớn đều có dụng cụ đo mắt, tuy nhiên không thể chính xác như việc làm của một
bác sĩ chuyên khoa, vì ngoài cách đo bằng bảng chữ, còn phải kiểm soát lại bằng cách xem đáy
mắt, và đo khoảng cách 2 mắt để chọn gọng đúng nữa.
Không có thứ thuốc nào để chữa tật cận thị, viễn thị và loạn thị vừa nói trên, mà chỉ có thể điều
chỉnh lại bằng cách dùng những kính đeo mắt thích hợp. Có một phương pháp “tập thể dục” cho
mắt bằng cách liếc theo một vòng tròn rồi ngược lại. Phương pháp này chẳng mang lại kết quả
nào trừ trường hợp mắt cận thị “giả”, nghĩa là một mắt mỏi mệt quá vì đọc nhiều trong những
điều kiện kém vệ sinh, vì quá gần, vì thiếu ánh sáng… hoặc mang kính không thích hợp (cận 3
độ mang 4 độ). Cũng giống như sau thời gian nghỉ hè ở đồng quê, ở bãi biển, ta thấy mắt sáng
hơn, khỏe hơn, thế thôi.
Tóm lại:
- Nếu em bị một trong ba tật kể trên thì phải mang kính thích hợp để điều chỉnh lại.
- Phải mang kính thường xuyên trừ lúc tắm, ngủ, rửa mặt… để giúp cho mắt đỡ mỏi mệt, do đó
lâu tăng độ. Phải dẹp bỏ thành kiến là đeo kính thường sẽ làm tăng độ mau hơn. Lúc lái xe, lúc đi
đường cần phải có kính để tránh gây tai nạn. Mặt khác một cặp kính bây giờ không phải là rẻ, lấy
ra mang vào thường có thể làm bể.
- Cận thị, viễn thị, loạn thị là những tật của mắt, không thể muốn mà có hay không có được, nên
chẳng có gì đáng xấu hổ cả!
- Nên giữ gìn cho kính được sạch sẽ, lau chùi kính thường xuyên để mặt kính được luôn trong
suốt. Có vài loại “phụ tùng” gắn thêm vào kính để giữ cho kính khỏi rơi vỡ trong lúc chơi thể
thao (đá bóng, bóng rổ).
- Loại contact-lens hiện nay đã khá phổ biến, nhưng ở tuổi học trò các em không cần dùng loại
này để tránh những trường hợp phản ứng của mắt đối với những vật lạ. Những người vì nghề
nghiệp bắt buộc (ca sĩ, kịch sĩ…) có thể mang.
- Giữ vệ sinh mắt, giúp mắt làm việc trong những điều kiện tốt (xem phần sau).
Bệnh mắt hột: Xốn, ngứa, chảy nước mắt sống, rất hay lây, do một loại siêu vi trùng gây ra, có
thể gây những biến chứng nguy hiểm (lông quặm, loét giác mạc…). Chữa trị vừa dùng thuốc nhỏ
mắt (điểm), vừa nạo hột trong mí mắt. Muốn tránh, ta không nên dùng khăn chung với người có
bệnh.

Mụt lẹo: Orgelet, là một mụt nhỏ do vi trùng gây ra, xuất phát từ một tuyến nhờn ở gốc lông
nheo. Không chữa cũng có thể khỏi nếu mụt nhỏ. Dùng vật nóng áp lên vùng đó cũng mau khỏi,
giống như đắp nước nóng trên chỗ áp xe. Có thể dùng trụ sinh uống. Mụt lớn, đau, phải rạch lấy
mủ.
Viêm kết mạc: Mắt đỏ, nổi gân máu. Có nhiều nguyên nhân. Không nên khinh thường. Giụi mắt
sẽ làm cho bệnh nặng thêm. Có thể nhỏ các loại thuốc sát trùng thông thường, khám chuyên
khoa nếu cần.
Bướu mi mắt (chalazion): Tuyến meibomius ở mí mắt bị sưng tạo thành một cái bướu nhỏ, không
đau, nhưng cộm khó chịu, phải mổ, thường khó lấy được hết cả bọc, nên dễ bị tái phát, lại phải
mổ.
Quáng gà: Sức nhìn kém đi lúc mặt trời vừa lặn (hoàng hôn). Nguyên nhân là do thiếu sinh tố A.
Thường thấy ở trẻ em hoặc vì ăn uống không đầy thủ, thiếu thức ăn tươi (rau cải có màu vàng
hay màu xanh đậm… như đu đủ, cà rốt, bí đỏ, trái gấc, rau dền, rau muống, rau bồ ngót…) hoặc
vì bệnh hoạn nên cha mẹ bắt cữ ăn thái quá, đến nỗi mắt khô đi, có khi loét giác mạc và hỏng
mắt luôn. Ngược lại, nhiều người lầm tưởng sinh tố A “bổ mắt”, dùng nhiều quá hóa thừa, lại
sinh ra bệnh thừa sinh tố A. Nhiều em ăn cà rốt thật nhiều cho sáng mắt, nhưng ăn nhiều quá da
tay hóa vàng, lại tưởng đau gan… Nên đến y tế khám nếu cảm thấy mắt nhìn kém vào buổi
hoàng hôn.
Tôi đã trình bày một số tật và bệnh thông thường ở mắt. Mục đích là để giải đáp những thắc mắc
của em, những thắc mắc mà chính tôi đã mắc phải. Bây giờ, tôi sẽ nói thêm về vệ sinh mắt. Đây
chính là phần quan trọng vì nó có thể giúp em tránh được bệnh tật (trừ bẩm sinh) của mắt hay ít
ra cũng giúp cho mắt những điều kiện tốt để hoạt động bình thường và nhờ đó khả năng học tập
của em có thể tiến bộ hơn lên.
1. Trong phòng học:
a) Trong phòng học cần có ánh sáng vừa đủ và một đèn bàn rọi sáng nơi bàn học, không nên để
phòng tối hẳn.
b) Đèn bàn đặt cao hơn đầu và ở về phía bên trái (để tránh bóng tay cầm viết).
c) Sách đặt cách mắt khoảng 40cm và thẳng góc với mắt, nghĩa là sách làm với mặt bàn một góc
khoảng 30 độ. Người đọc ngồi ngay ngắn trên ghế.
d) Tránh bóng che khuất vì bóng che cũng làm mắt phải điều tiết nhiều, đồng tử phải mở lớn mau

mệt mắt.
e) Tránh ánh sáng quá chói vì ánh sáng càng chói, mắt càng dễ mệt và thị lực kém đi.
2. Ngoài trời
Ngoài ánh sáng mặt trời, nếu có vành nón che càng tốt, nếu mang kính mát thì nên chọn thứ kính
tốt, hấp thụ hết sức chói và lọc được các tia hồng ngoại có hại cho mắt.
3. Vệ sinh chung về mắt
a) Tránh nhiễm trùng mắt: Mỗi người dùng khăn riêng của mình, không giụi mắt bằng tay dơ.
b) Cho mắt nghỉ ngơi lúc mỏi, bằng cách nhìn vào một khoảng tối, ở xa xa, hoặc nhắm mắt lại
một lúc.
c) Tivi có thể làm mỏi mắt, nên coi tivi vừa phải. Nên đặt màn ảnh ngang tầm mắt, xa khoảng 3-
4 cm, trong phòng không nên để tối hẳn.
d) Khám mắt trước khi đi học và ngay khi có những triệu chứng bất thường về mắt như nhức đầu
dai dẳng, chóng mặt, học tự nhiên kém đi…
Mổ cận thị:
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm Mắt thành phố đã mổ cận thị. Điều kiện để mổ là phải ở
độ tuổi 23-40, có độ cận vừa, từ -2 đến -5 độ, và có thể điều chỉnh thị lực tốt. Người được mổ
phải không bị các bệnh về mắt khác. Thời gian mổ chừng 10 phút. Sau mổ, mắt bị xốn vài tuần
lễ, lóa mắt một vài tháng. Kết quả đến nay có thể nói là tốt.
Chương 2. Viêm mũi dị ứng
Viêm mũi dị ứng
Có khi nào em nghe bà hàng xóm nhảy mũi (hắt hơi) từng loạt hàng chục cái liên tiếp, sau mỗi
cái nhảy mũi là một tiếng “dạ” liền không?
Có khi nào em thấy một chị bạn lúc nào cũng sẵn cái khăn tay để chặn ngay những giọt nước
mũi chảy liên miên và những tràng nhảy mũi khó chịu trong lớp học, ngoài đường phố?
Có khi nào em thấy một anh bạn lâu lâu lại ngước mặt lên trời như tìm vần thơ, rồi cho tay vào
túi lấy nhanh một chai thuốc nhỏ hoặc bơm vào mũi vài giọt, rồi mới tiếp tục làm bài, học bài
hoặc đi lại?
Em đừng cười bà hàng xóm dạ rân sau từng loạt nhảy mũi (bà tin có ai đó “nhắc nhở” tới bà),
đừng cười chị bạn luôn có chiếc khăn trên tay; cũng đừng cười anh bạn lúc nào cũng phải có chai
thuốc nhỏ mũi trong mình. Bởi đó không phải là một tật xấu, mà lại là một bệnh khó chịu, bực

mình, và rất khó chữa: bệnh viêm mũi dị ứng.
Tôi sẽ không nói ở đây về thứ viêm mũi bẩm sinh, hoặc rủi ro đụng chạm làm cong vẹo vách
ngăn, phải dùng phẫu thuật để chữa trị, do các chuyên gia tai mũi họng thực hiện. Tôi cũng
không nói về thứ viêm mũi do vi trùng (thứ này có thể chữa bằng kháng sinh thích ứng) và do
siêu vi trùng (chiếm đến 80% trường hợp viêm mũi nhiễm trùng) rất hay lây, làm nhảy mũi, chảy
nước mũi, nghẹt mũi mà hầu hết chúng ta thỉnh thoảng đều có thể bị, nhất là trong mùa có dịch
cảm cúm. Tôi cũng không đề cập tới bệnh viêm mũi do sự thay đổi đột ngột nhiệt độ không khí
làm co giãn mạch máu ở mũi và loại liên quan đến những sự rối loạn kích thích tố trong các thứ
bệnh như phù niêm, hoặc phụ nữ có thai…
Tôi muốn nói với em về bệnh viêm mũi do dị ứng và do dùng thuốc sai lầm. Hai bệnh này rất
thông thường ở lứa tuổi học trò, lại rất khó chữa và nhất là gây nhiều khó chịu cho những em
mắc phải, có thể làm cho sự học kém đi, hoặc làm cho em có mặc cảm với bạn bè rất tai hại.
Thực khó mà giải thích rõ ràng cơ nguyên của loại bệnh này, vì nó thuộc loại dị ứng hay mẫn
cảm mà ngày nay các nhà chuyên môn vẫn không ngớt tìm kiếm. Đại khái em có thể hiểu thế
này: có em ăn cua, tôm bao nhiêu cũng không sao, nhưung có em ăn cua, tôm thì bị nổi mề đay
ngứa hoặc lên cơn suyễn. Có em ngửi mùi rơm rạ không hề gì, có em thì lại nhảy mũi tưng bừng
nếu ngửi phải mùi rơm rạ, phấn hoa… Có em không “chịu” sữa bò, trứng gà, vịt; có em không
chịu thịt gà, các biển, chocolate.
Tại sao có sự không chịu đó? Người ta giải thích là do “tạng” của mỗi người. Hiện tượng “chịu”
vật này, “không chịu” vật khác một phần do yếu tố di truyền, một phần do bản chất của vật, do
cường độ và thời gian tiếp xúc giữa ta và vật đó, một phần khác do sự rối loạn của bộ máy tiêu
hóa khiến cho sự hấp thụ sai lạc và cuối cùng phải kể đến yếu tố tâm lý nữa. Có em “chịu không
nổi” mùi hoa sứ, nhưng lâu dần cũng quen… Có người không ưa đồ biển (tôm, cua, sò) hễ ăn
vào là bị phản ứng, nhưng nếu cứ ăn riết rồi quen đi, thế là hết rắc rối!
Chất mà ta “không ưa” gọi là chất kháng nguyên một khi vào trong cơ thể ta, cơ thể sẽ sinh ra
một chất để kháng cự lại gọi là kháng thể. Cuộc chiến giữa kháng nguyên và kháng thể đó sinh ra
một số chất độc gây nhiều hậu quả tai hại, trong đó có hậu quả viêm mũi. Giải thích một cách sơ
lược thế thôi, bởi đây là một hiện tượng rất phức tạp của cơ thể không thể lãnh hội dễ dàng bằng
một vài câu nói, vài dòng chữ.
Triệu chứng của bệnh thật dễ nhận ra. Như đã nói ở trên, người bị viêm mũi dị ứng thường

nhảy mũi từng loạt dài, chảy nước mũi kinh niên và bị nghẹt mũi luôn (do đó thở “khịt khịt” ).
Khi có triệu chứng này em nên đi bác sĩ tai mũi họng khám sớm để định bệnh. Bác sĩ với dụng
cụ khám mũi sẽ thấy màng mũi phồng lên, trắng bóng màu tai tái. Em sẽ phải chữa ngay và
chữa đúng, nếu không, màng mũi phồng to sẽ lấp kín các cửa sổ thông hơi giữa xoang mũi với
lỗ mũi, các chất nhầy trong xoang không thoát ra được, lâu ngày gây bệnh viêm xoang, một
bệnh nguy hiểm khó khăn hơn nhiều, mà hậu quả có thẻ em phải bỏ học hoặc học kém đi đó!
Chỉ có bác sĩ mới chỉ đẫn thuốc men cho em đúng cách, căn cứ bệnh tình của em, trên tuổi tác,
sức nặng và trạng thái tâm lý của em nữa, thì mới có hiệu quả.
Tuy nhiên, ở đây tôi cũng ghi một cách đại khái nguyên tắc chữa để em có một ý niệm sơ sài về
phương pháp chữa loại bệnh này.
- Nếu biết rõ chất kháng nguyên nào đã gây ra chứng bệnh của ta, ta tránh nó đi. Người ta có thể
xác định chất kháng nguyên này bằng cách thử nghiệm trên da.
- Làm giảm cảm ứng không chuyên biệt, vì không rõ chất nào đã gây ra biến ứng (bằng cách
tránh dùng các vật dụng dễ gây dị ứng như bằng chất dẻo, không ăn chocolate, sữa, trứng…
tránh xa các gia súc, không dùng đồ len, lông thú… ), tiêm thuốc giải cảm ứng không chuyên
biệt.
- Dùng thuốc loại chống viêm theo chỉ dẫn của bác sĩ.
- Dùng thuốc chống histamine.
Loại viêm mũi thứ hai cũng đáng được nói tới, vì có thể tránh được là loại viêm màng mũi do
dùng thuốc bừa bãi, sai lầm. Khi em bị cảm cúm sơ sài, em chạy ra tiệm thuốc tây gần nhà mua
một chai thuốc nhỏ mũi để nhỏ cho đỡ nghẹt mũi, và để bớt chảy nước mũi; người bán thuốc lấy
cho em một thứ thuốc nhỏ mũi nào đó, em mang về dùng và thấy công hiệu lắm! Nhỏ vào mũi
vài giọt thì một lúc sau đã thấy bớt nghẹt, dễ thở ngay. Nhưng một lúc nữa lại nghẹt mũi, lại khó
thở em lại phải nhỏ vài giọt và cứ như thế!
Cũng có khi em không đến nỗi ra tiệm thuốc tây “khai bệnh” mua thuốc, em có đi khám bác sĩ
đàng hoàng. Bác sĩ cho em loại thuốc có tính co mạch để em đỡ nghẹt mũi, đỡ khó chịu tạm thời,
nhưng vì em không để ý lời chỉ dẫn cách dùng, thầy thuốc hay, em dùng đi dùng lại mãi và trở
thành “ghiền” đi đâu cũng phải có chai thuốc bên mình.
Màng mũi rất nhạy cảm đối với các loại thuốc làm co mạch đó. Mạch máu ở màng mũi bị viêm
trương to (làm nghẹt mũi) đột nhiên bị co lại dưới ảnh hưởng thuốc, nhưng một lúc sau, thuốc

hết hiệu nghiệm, mạch máu lại trương to, và to hơn trước, em lại phải nhỏ thuốc cho đến khi em
bị viêm mũi vì thuốc.
Muốn chữa “bệnh “ này, em phải can đảm và có nhiều nghị lực, nghĩa là em ráng hả miệng ra thở
ít lắm là đôi ba ngày, không dùng thuốc nữa! Nhưng không dễ đâu! (cũng giống như ghiền thuốc
lá, muốn bỏ đâu có dễ).
Khi đã quen rồi, em không cần dùng thuốc nữa và khỏi bệnh. Cũng có thể em đến khai bệnh nơi
một bác sĩ chuyên môn, ông ta sẽ cắt bằng điện, hoặc bằng chất hoá học một phần “sừng” mũi,
dọn đường cho không khí ra vào. Dĩ nhiên, nhà chuyên môn sẽ chỉ dẫn cho em cách chữa trị và
em phải nghe theo mới khỏi. Sau đó, em lại phải chữa nguyên nhân đã gây ra chứng viêm mũi
của em (do biến ứng hay do siêu vi trùng…) khi đã thoát nợ giai đoạn đầu là thuốc nhỏ mũi tai
hại !
Tôi đã nói với em về hai loại bệnh viêm mũi thông thường nhất là bệnh viêm mũi do dị ứng và
do dùng thuốc sai lầm, bừa bãi. Bệnh viêm mũi dị ứng rất phức tạp, khó chữa. Em phải chịu khó
điều trị một thời gian lâu dài và chữa đúng phương pháp, tuyệt đối không nên tự ý mua thuốc
chữa vì những loại thuốc đều có thể mang lại những phản tác dụng nguy hiểm.
Loại viêm mũi so dùng thuốc sai lầm thì đòi hởi em phải có nghị lực nếu muốn chữa cái bệnh
“ghiền” kỳ cục đó! Một điều nữa có lẽ cũng nên nói với em là không bao giờ được dùng thuốc
nhỏ mũi của người lớn nhỏ cho em bé trong nhà, dù là giảm liều thuốc đi. Đã có nhiều trường
hợp em bé chết ngất vì phản ứng thuốc nhỏ mũi rồi đó!
Viêm xoang mũi
Tôi biết có một số các em bị thất học chỉ vì viêm xoang mũi. Một đứa em tôi học đến đệ tứ (lớp
9) rồi cũng đành bỏ học vì không thể nào tiếp tục cố gắng được nữa. Em nói bị “ nhức đầu” luôn,
không sao tập trung tư tưởng để học, để nghe thầy giảng bài. Một em khác, con của một người
quen, đã rán tới tú tài một (lớp 11) rồi bỏ. Em bị nhức đầu, chóng mặt và tai hại nhất là mũi ngửi
không đúng mùi nữa. Ở đâu em cũng nghe một mùi “thum thủm “! Khổ chưa! Khổ hơn nữa em
lại là gái, mà em gái phải biết nội trợ. Với cái mũi lúc nào cũng ngửi thấy mùi hôi, em sẽ phải
làm thế nào! Chứng bệnh “kỳ cục” đó như thường xảy ra ở các em gái, mặc dù không phải các
em trai không mắc phải! Có thể lỗi một phần ở chỗ các em gái thường ngại ngùng muốn giấu
bệnh, chữa qua loa để rồi bệnh trở thành kinh niên.
Thường thì những em nào bị viêm màng mũi cũng dễ bị viêm xoang, nhất là trong bệnh viêm

màng mũi biến ứng, như trong bài trước em đã thấy. Màng mũi bị sưng phồng lên che bít các lỗ
thông hơi giữa xoang mũi và mũi, chận nghẹt sự bài tiết chất nhờn do màng tế bào xoang mũi tiết
ra, lâu ngày làm độc. Chứng viêm xoang mũi cấp tính cũng thường xảy ra ở các em hay tắm hồ
tắm. Nhất là các em thường thích biểu diễn nhào lộn!
Có lẽ tôi phải nói một chút về “cái gọi là” xoang mũi để em dễ hiểu và dễ phân biệt thế nào là
viêm màng mũi (sinusite) và thế nào là là viêm màng mũi (rhinite). Nhiều bác sĩ than phiền các
bệnh nhân đến họ thăm bệnh, đều định bệnh trước: “Thưa bác sĩ, tôi bị sinusite…”. Giảng giải
thì mất nhiều thì giờ, vả lại,cũng không muốn làm phiền lòng thân chủ, ông bác sĩ có thể sẽ nói:
à, à ông (hoặc bà,cô,em…) hơi bị sinusite! Cũng như người ta thường nói hơi yếu gan, hơi yếu
phổi…
Xoang là một khoảng trống trong xương mặt (xương hàm trên, xương trán, xương sàng… ta có
xoang mũi, xoang trán, nhưng xoang mũi thường bị viêm nên ở đây chỉ có để đề cập xoang này.
Dĩ nhiên ông Trời khoét rỗng cái xương không phải để chơi mà có mục đích hẳn hoi vì xoang
mũi là khoảng trống chứa không khí, làm cho xương nhẹ bớt, hâm nóng không khí, làm tăng độ
ẩm cho không khí trở thành ấm áp, đủ ẩm độ để không làm hại cuống phổi và phổi. Ta hiểu tại
sao những người nghẹt mũi, viêm màng nũi thường bị cảm ho… vì không khí lạnh đi thẳng vào
phổi, kích thích phổi… Một công dụng nữa của xoang là giúp cho sự phát âm, nhờ hiện tượng
cộng hưởng. Lúc nào bị nghẹt mũi, giọng nói ta không còn được bình thường nữa.
Ngoài ra, vi trùng còn xâm nhập vào xoang mũi qua đường thứ hai: qua răng! Nhổ răng bừa bãi
không đúng phép vệ sinh là mở cửa cho vi trùng chui vào xoang tấn công màng tế bào và gây
viêm xoang, hoặc răng không được chữa trị đúng cách và đúng lúc cũng có thể gây bệnh này.
Triệu chứng của bệnh viêm xoang là nghẹt mũi, nhảy mũi (hắt hơi), chảy nước mũi hoặc chảy
mủ (do đó mũi ngửi thấy mùi hôi thối bất cứ thứ gì) nhức đầu, đau đớn và nóng sốt. Nếu viêm
xoang mũi sau một buổi nô đùa thỏa thích biểu diễn nhào lộn bay bướm ở hồ tắm thì triệu
chứng có hơi khác một chút: em cũng thấy nghẹt mũi khó chịu, có thể hơi nhức đầu và sốt
nữa, nhưng sau đó 24 đến 48 giờ em thấy đau, giống như đau răng, ở hàm trên, và đau một lúc
nhiều răng (chớ không phải một răng cố định). Cơn đau này bắt đầu vào buổi sáng, sau khi
thức dậy vài giờ, đau nhiều thêm trong 3, 4 giờ rồi bớt dần vào buổi chiều và tối. Có thể đau
cổ họng nữa! Đôi khi nước mũi chảy ra có dính tí máu hay mủ. Trường hợp viêm ở các xoang
khác như xoang trán ta thấy đau giữa hai chân mày, xoang sàng, đau sau mắt… Em cần nói rõ

triệu chứng khi đến bác sĩ khám.
Đến “bác sĩ khám “, bác sĩ ấn tay trên xoang mũi (vùng 2 gò má) em cảm thấy đau nhức. Khám
thấy màng mũi bị sưng đỏ, đóng mủ. Có khi bác sĩ cho em ngậm một bóng đèn pin nhỏ, để xem
ánh sáng có bị che, mờ đục ở xoang không và thường thì ông cho em đi chụp một phim X-quang
để xác định có bị viêm xoang hay không.
Định bệnh sớm, bệnh còn mới, dễ chữa. Nếu nghi ngờ bệnh do viêm màng mũi hoặc do sâu răng
gây ra, bác sĩ sẽ chữa những bệnh đó trước. Có khi ông gửi em đến một nha sĩ để khám và chữa
răng trước. Sau đó bác sĩ sẽ lấy mủ thử và chữa bằng những thuốc kháng sinh thích hợp, thuốc
giảm đau và các phương thuốc phụ khác. Chẳng hạn có thể cho đắp nước nóng, ấm trên vùng gò
má - nhỏ thuốc loại co mạch vào mũi, để mủ có đường chảy ra, hoặc dùng dụng cụ hút mủ - cho
uống kháng sinh để ngừa nhiễm trùng…
Chữa sớm và đúng cách em sẽ khỏi bệnh trong vòng mười ngày. Nhớ theo đúng lời dặn của bác
sĩ điều trị cho em, đừng chểnh mảng. Vì nếu chểnh mảng, khinh thường, bệnh sẽ trở thành kinh
niên, khó chữa hơn nhiều ngay cả với những phương pháp phẫu thuật.
Nếu mủ vẫn tiếp tục chảy, mũi vẫn nghẹt hoài thì bác sĩ thay phương pháp khác - những phương
pháp này quá phức tạp vì quá chuyên môn, em phải nghe theo để mau lành bệnh. Có thể em sẽ
phải dùng thêm thuốc kháng sinh, thuốc kháng viêm, kháng histamine, thuốc nhỏ mũi: có thể bác
sĩ sẽ dùng các tia hồng ngoại, điện và chích kim vào xoang mũi để rửa, súc cho sạch mủ… Trong
trường hợp những mô của màng xoang bị hư hỏng không thể phục hồi được nữa, bác sĩ sẽ quyết
định phẫu thuật cho em…
Dĩ nhiên, đến giai đoạn này thì đáng tiếc lắm rồi, nhưng không vì thế mà hết hi vọng vì với
những phương pháp mới và những tiến bộ của y học ngày nay, bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng
sẽ chữa cho em được lành bệnh. Em sẽ chọn một lúc thuận tiện như dịp nghỉ hè rồi đến một nhà
chuyên môn xin điều trị.
Chảy máu cam
Một sáng nào đó thức dậy, em thấy một bên mũi bị nghẹt. Đưa ngón tay sờ thử, một nhúm máu
khô giòn: chảy máu cam! Một trưa nào đó, trời nóng nực, em rửa mặt cho khỏe, lúc lau, chợt
thấy một vết máu đỏ trên khăn: chảy máu cam! Một tối nào đó, đang ngồi học thấy nhột nhạt
trong mũi, em sờ thì thấy tay dính máu: chảy máu cam!
Chảy máu cam! Chứng bệnh thông thường nhất ở lứa tuổi học trò. Có thể bị chảy máu cam bất

cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Ở trường, ở nhà, đang đi chơi, đi thi… Có em thỉnh thoảng mới bị chảy
máu cam: rủi ro té, bị một cú” direct” trong một trận cãi lộn, một trái banh vô tình bay trúng vào
mũi. Cái đó không sao. Nghỉ ngơi một lát lại hết, lại khỏe lại. Nhưng có em bị chảy máu cam
thường hơn, có thể do một va chạm nhẹ như rửa mặt, hỉ mũi, hay có khi không đụng chạm gì tới
mũi mà vẫn bị… Một số các em gái thường bị chảy máu cam vài ngày trước khi có kinh. Những
trường hợp này đều làm cho em lo lắng. Em thấy mệt, hồi hộp, tim đập nhanh, chóng mặt, da
xanh xao… Em lo lắng, bỏ buổi học, mất buổi đi chơi. Nhưng đáng phiền nhất là em có thể chảy
máu cam trong phòng thi. Cái này xui xẻo rồi, em sẽ không còn tinh thần để làm bài nữa!
Nguyên nhân như tôi đã kể trên, chảy máu cam có thể do tai nạn (bị té, bị đánh, bị đụng), có thể
do bệnh tật. Nếu nguyên nhân là một tai nạn thì không đáng lo lắng lắm, vì rủi ro mới bị một lần
nhưng nếu do bệnh tật thì phải điều trị. Thường thường ở những em gái còn nhỏ tuổi chạy chơi
ngoài nắng khá lâu, lúc vào bóng mát dễ bị chảy máu cam. Vì ở ngoài nắng mạch máu ngoại biên
căng phồng lên, nhất là mạch máu ở vách mũi (bằng cớ là mặt em đỏ gay lúc ở ngoài nắng) - khi
vào bóng mát đột ngột, mách máu co lại, vỡ ra và chảy máu cam. Ở các em lớn tuổi một chút
(15-17 tuổi) thường bị chảy máu cam do tính dòn dễ vỡ của mao quản ở niêm mạc mũi, một
động chạm nhẹ cũng đủ làm chảy máu. Ở các em gái chảy máu cam ngoài các nguyên nhân trên,
còn có thể do sự rối loạn các kích thích tố nữ.
Ngoài ra, những bệnh như thương hàn, sốt xuất huyết, huyết hữu, đau gan, huyết áp cao, bạch
hầu… cũng làm chảy máu cam.
Phản ứng đầu tiên của người bị chảy máu cam là bịt mũi lại, ngước đầu lên cho khỏi thấy máu
chảy ra nữa. Có khi quấn lá trầu nhét vào mũi, có khi nhét cục thuốc lá… hoặc bất cứ thứ gì có
thể nhét được (bông gòn, giấy), có khi “hôn" tường vôi nữa!
Nhưng sai, cách tốt hơn hết lúc bị chảy máu cam là nên bình tĩnh, lấy ngón tay ấn vào bên mũi
chảy máu để chận không cho máu chảy ra nữa, ấn chừng 5-10 phút (nhớ đừng bỏ tay ra xem
chừng) và cúi đầu xuống. Cúi đầu xuống là để cho máu không chảy xuống cổ họng được, vì nếu
không, em có thể nhổ máu ra ở miệng rồi tưởng là bị khạc ra máu, bị lao phổi; hoặc nuốt máu
xuống bụng, hôm sau đi cầu ra phân đen lại tưởng là xuất huyết ở bao tử hay ruột. Cúi xuống
cũng là để đo lường số máu bị mất đi nhiều hay ít. Nhớ đừng dùng bất cứ thứ gì để nhét vào mũi,
rồi láy ngón tay chận lên trên. Nếu máu còn chảy, em nên đến bác sĩ hoặc bệnh viện. Tại đây, họ
sẽ có cách cầm máu cho em, và sẽ khám kỹ cơ thể em để tìm nguyên nhân gây chứng chảy máu

cam thường xuyên… Thường, nếu do sự mỏng manh của mạch má ở vùng niêm mạc mũi thì bác
sĩ sẽ đốt (bằng hóa chất, bằng điện) để làm teo hết các mạch máu ở vùng này, hoặc cho uống các
loại thuốc giúp mao quản rắn chắc. Trường hợp chảy máu cam mà có thêm những triệu chứng
khác, như nóng sốt, vết bầm dưới da, ban chẩn… thì nên lập tức đến y tế vì trong trường hợp
này, chứng chảy máu cam chỉ là một dấu hiệu của một bệnh nào đó, chỉ có bác sĩ mới tìm ra bệnh
để chữa kịp lúc. Trường hợp nguy hiểm là bị bướu xơ ở hầu, máu chảy rất dữ dội, bệnh thường
xảy ra ở các con trai tuổi 8-15, nhưng rất nguy hiểm.
Trường hợp một em gái chảy máu cam trong thời kỳ tiền kinh nguyệt không có gì đáng lo ngại.
Đến một lúc nào đó, các kích thích tố điều hòa, sẽ hết chảy máu cam, không nên dùng thuốc bậy
bạ. Em luôn nhớ thuốc, nhất là loại thuốc kích tố, rất khó dùng. Dùng bậy, gây những phản tác
dụng không lường được.
Em cũng nên tránh động chạm mạnh ở mũi, lúc rửa mặt đừng dùng tay chà xát mũi-đừng cạy
mũi.
Tóm lại, chảy máu cam là một chứng rất thông thường, nếu chỉ vì ra nắng nhiều, hay bị té, bị
đụng, hoặc do tính quá dễ vỡ của mạch máu vùng mũi ở tuổi đang lớn thì không đáng lo ngại
lắm. Trong những trường hợp đó, em cần bình tĩnh, biết cách cầm máu tạm thời rồi nhờ bác sĩ
điều trị. Trái lại, nếu chảy máu cam chỉ là một trong những triệu chứng của một bệnh nào khác
thì em cần phải được đưa đi bác sĩ hoặc bệnh viện sớm. Trong bài này tôi chỉ nói đến trường hợp
thứ nhất.
Sưng má ông địa
Có người gọi bệnh đó là quai bị, có người gọi là sưng hàm, có người gọi là sưng má ông địa. Tôi
thích gọi sưng má ông địa hơn vì nó diễn tả đúng hình ảnh khuôn mặt em lúc đó: nó phinh phính,
nó bầu bầu, y như mặt ông địa trong đám múa lân mà em vẫn thích xem, chỉ khác một điều là
ông địa của đám múa lân thì miệng cười toe toét, còn em, mắc bệnh này, thì miệng méo xệch…
nếu không cũng khó mà tươi cười!
Hình như ai cũng phải bị một lần thứ bệnh này. Tôi bị sưng má ông địa hồi học lớp 6, nhiều em
bị sớm hơn và nhiều người lớn rồi mà vẫn còn bị. Nhưng bệnh thường xảy ra nhiều nhất ở lứa
tuổi 5-15 và trong một đám đông người như trường học. Bệnh do siêu vi trùng gây ra, hay lây,
nên thường tạo thành một bệnh dịch (nhiều người cùng mắc phải trong một thời kỳ), thường gặp
vào các tháng 11, tháng chạp, tháng giêng, tuy không gây nguy hiểm cho tính mạng, nhưng có

thể gây những biến chứng tai hại, trong đó phải kể đến biến chứng viêm tinh hoàn (20-30%) có
thể làm tuyệt tự; nhưng gần gũi nhất là bệnh này làm em khó chịu, phải bỏ học trong vài tuần
lễ…
Bệnh lây trực tiếp và gián tiếp: khi ta nói chuyện cùng bệnh nhân, khi ta dùng chung khăn với họ
là ta đã có thể bị lây rồi. Cũng rất khó tránh sự lây này vì bệnh đã lây từ trước khi có những triệu
chứng cho biết mắc bệnh. Tuy nhiên, một khi đã mắc bệnh một lần rồi thì không bị trở lại nữa.
Người ta cũng nhận thấy là biến chứng nguy hiểm sưng tinh hoàn thường chỉ xảy ra ở những em
sau tuổi dậy thì và ở người lớn. Vì thế mà theo quan điểm y học ngày nay, người ta mong cho trẻ
mắc bệnh quai bị càng sớm càng tốt.
Thời kỳ nhiễm bệnh trung bình 10-20 ngày và bệnh phát khởi nhiều khi một cách âm thầm: thấy
hơi khó chịu, nhức đầu, biếng ăn, hơi nóng (38-38,5). Nếu khám ngay lúc đó thấy cổ họng đỏ,
ống dẫn nước miếng sưng đỏ, và thấy đau ở vùng mang tai khi bị ấn. Giai đoạn này thường ít khi
biết lắm và chỉ đến lúc má bị sưng to lên và đau nhiều ta mới hay. Thường lúc đầu chỉ sưng một
bên, sau đó sưng luôn phía bên má kia và ít khi sưng đều nhau: bên lớn bên nhỏ. Lúc đó, em đã
thấy hơi khó khăn, quai hàm làm như cứng lại, miệng khô đi, và cảm giác đau càng tăng lúc nhai
thức ăn. Điều quan trọng là hai má tuy bị sưng, nhưng không đỏ và không làm mủ. Tình trạng
như thế kéo dài một hai tuần rồi tự nhiên khỏi, nếu không có biến chứng nào khác.
Có nhiều biến chứng có thể xảy ra: viêm tuyến nước miếng dưới hàm, dưới lưỡi, viêm tụy tạng,
thận, khớp xương, não… nhưng rất hiếm. Thường hơn là biến chứng viêm tinh hoàn hoặc viêm
buồng trứng (ở con gái) có thể dẫn đến sự tuyệt tự (không có con) sau này, như đã nói ở trên.
Trường hợp bị viêm tinh hoàn, nóng đến 40 độ C, nhức đầu, ói mửa, run rẩy, làm kinh, có khi mê
sảng… Cũng may mà trường hợp này ít khi xảy ra, vì hầu hết chúng ta đã mắc bệnh từ lúc còn
nhỏ. Vả lại, những người bị rủi viêm tinh hoàn thì thường chỉ bị một bên - không đến nỗi tuyệt tự
- ngay cả những người bị viêm hai bên, 51% có thể trở lại bình thường sau đó.
Bệnh sưng má ông địa, em biết đó, do siêu vi trùng gây ra, vì thế không có thuốc chữa. Bệnh
không cần chữa trị gì cũng khỏi sau vài tuần lễ. Tôi đã thấy có người đốt một cái quai bị (túi
xách) để uống mà cũng khỏi! Có người khoán, vẽ bùa… Dĩ nhiên tôi không khuyên em đốt quai
bị hay mài má ông địa để uống vì có khi trúng độc, nhiễm trùng. Cách tốt hơn hết là:
- Nằm nghỉ trên giường, tránh chạy nhẩy để ngừa biến chứng viêm tinh hoàn, ít nhất là trong thời
gian bị nóng (sốt)

- Ăn thức ăn lỏng, nhẹ (đỡ nhai) và súc miệng thường xuyên với nước ấm pha muối.
- Đắp nước nóng lên vùng má bị sưng cho đỡ đau.
- Có thể dùng một vài thứ thuốc giảm đau như aspirine, paracetamol…
- Nếu có biến chứng gì khác thì phải đưa đến bệnh viện sớm.
- Vì bệnh đã lây từ trước khi có những triệu chứng rõ ràng, ngày nay người ta không cần cấm các
trẻ vào lớp học để tránh lây cho các trẻ khác nữa. Nói cách khác hết sốt là em có thể mang cái má
ông địa đi học được rồi.
- Thuốc chích ngừa hiện đã có, nhưng chưa được sử dụng rộng rãi.
Tôi nhắc lại với em rằng bệnh sưng má ông địa không có gì là nguy hiểm và nhớ không nên chữa
bậy bạ vô ích mà có khi tai hại nhiều hơn.
Sưng thịt dư cổ họng (viêm amiđan)
Có nhiều thứ trong cơ thể ta tưởng như là “dư”, nhưng chẳng dư tí nào cả. Chẳng hạn, cái mà ta
gọi là ruột dư thực ra có nhiệm vụ riêng của nó. Chẳng hạn cái lỗ rốn, em thấy nó chẳng có công
dụng gì cả, nên nó trở thành cái để đùa chơi. Lỗ rốn dùng để làm gì? Để thoa dầu cù là, để thọc
lét! Đó là câu chuyện vui cười ta đã có dịp đọc qua đâu đó! Thực ra lỗ rốn là vết tích của cuống
rốn nối liền lá nhau với với hệ thống tuần hoàn của thai nhi trong bụng mẹ, nhờ đó các chất bổ
dưỡng của người mẹ được truyền qua thai nhi để nuôi nó. Lúc đứa trẻ sinh ra, cuống rốn rụng đi
vì không còn giữ nhiệm vụ đó nữa.
Cái mà ta thường gọi là thịt dư ở cổ họng chẳng hạn, thực ra nó là hai hạch bạch huyết lớn, có
nhiệm vụ như hai đồn lính gác, ngăn chận sự “ xâm lăng” của vi trùng và siêu vi trùng vào bộ hô
hấp. Khi ta bị một bệnh nào đó như cảm cúm, ho, sưng cuống phổi v.v… thì hai hạch đó sưng lên
và đau nhức. Tuy nhiên, đôi khi, hai “ tiền đồn” đó trở thành mục tiêu cho cuộc tấn công cục bộ
và lúc đó, ta mắc một thứ bệnh khó chịu là bệnh “sưng thịt dư”.
Sưng thịt dư có thể cấp tính hay kinh niên, và một khi thịt dư bị sưng thì thường dễ bị trở đi trở
lại, nếu không được chữa một cách nghiêm túc, có thể gây nhiều biến chứng xa gần, trong đó
phải kể biến chứng bỏ học hoặc học kém sút. Khi hai “ tiền đồn” này bị tấn công rồi bị” tràn
ngập” bởi vi trùng (phần lớn là chuỗi cấu trùng), vi trùng sẽ dùng làm “ bàn đạp” tấn công các
khớp xương, gây bệnh viêm khớp cấp tính (RAA) mà hậu quả sau đó có thể là chứng bệnh tim
rất nguy hiểm; vi trùng cũng có thể tấn công thận để gay viêm cầu thận (GNA) cũng nguy hiểm
không kém; không kể những biến chứng lân cận khác, như thối tai giữa, sưng hạch cổ, viêm

xoang mũi viêm xoang mặt, nhọt ở yết hầu và chung quanh thịt dư.
Người bị sưng thịt dư nóng sốt, đau đớn, khó thở, ăn uống không được, và gầy ốm đi. Người
bệnh cũng ho húc hắc luôn, thở khò khè, sức nghe kém và thường đằng hắng, khạc nhổ đôi khi
nếu có một mao quản bị rách, máu chảy, dính trong đờm dễ tưởng lầm bị ho ra máu, bị lao phổi
Một buổi sáng, một bà trông có vẻ là một thương gia giàu có dẫn một cô con gái khoảng 14 tuổi
đến khám bệnh nơi dưỡng đường tôi làm việc. Khi tôi hỏi bệnh, bà trả lời rõ ràng, tin tưởng:
- Cháu bị lao phổi, khạc ra máu
Tôi hỏi kỹ thêm thì được biết em chưa chụp hình phổi, chưa thử phản ứng da (IDR), chưa thử
đờm, thử máu gì cả, nhưng đã bị coi là lao phổi và đã chích streptomycine ít lâu nay không khỏi.
Bà có đưa em đi khám ở một bác sĩ, ông này cho biết em bị sưng thịt dư cổ họng, nhưng bà
không tin, nên không chịu chữa theo toa của ông.
Tôi cố gắng thuyết phục bà cho em chụp hình phổi, thử phản ứng da, thử đờm, thử máu để biết
chắc em không bị lao phổi. Tôi cũng giải thích sự tai hại của việc chích streptomycine không
đúng cách (nếu quả lao phổi thực) chỉ làm cho vi trùng quen thuốc, khó chữa thêm, cũng như sự
“khạc ra máu” và “sút cân” của cô bé có thể do nguyên nhân ở cổ họng, mẹ em mới chịu chữa
sưng thịt dư.
Nhưng cũng có những trường hợp khác ngược lại. Một ông cậu tôi có những triệu chứng đáng
nghi là bị lao phổi, đôi khi khạc ra máy, nhưng ông chỉ chịu đi bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng
thôi. Dĩ nhiên trong trường hợp đó tốt hơn có lẽ nên làm những thử nghiệm cần thiết để biết chắc
không bị lao phổi, rồi mới nên chữa thịt dư nếu có.
Vấn đề thịt dư trong cổ họng quả là vấn đề phức tạp. Nhưng chưa hết! Những điều tôi vừa
nói với em ở phần trên về những biến chứng xa, gần của bệnh này, cũng như những ví von
“tiền đồn”, “xâm nhập”, “tràn ngập” v.v chỉ là một lối nói cho dễ hiểu, dễ có một ý niệm về
một chứng bệnh khá rắc rối đó thôi. Thực ra cho đến ngày nay, các nhà chuyên môn vẫn
thường cãi nhau về những biến chứng đó có thật là do vi trùng xuất phát từ vùng thịt dư
chăng? Họ cũng cãi nhau về chuyện nên cắt hay không nên cắt thịt dư? Cắt vào tuổi nào và nên
cắt trong trường hợp nào? Đó không phải là nỗi thắc mắc của chính em hay sao?
Khoảng năm 1930, có cả một “dịch” cắt thịt dư ở các nước Âu Mỹ, nhưng sau đó, các nhà
chuyên môn nhận thấy rằng:
- Các cơ quan bạch huyết ở cổ họng giữ nhiệm vụ quan trọng trong việc tạo kháng thể để chống

lại bệnh tật. Muốn tạo kháng thể một cách mạnh mẽ, nó cần “được” vi trùng tấn công thường
xuyên. ở người lớn, ít bị sưng thịt dư vì đã đủ lượng kháng thể cần thiết đương đầu với bệnh tật
rồi.
- Cắt bỏ các thịt dư này không làm giảm bớt các bệnh ở bộ hô hấp.
- Chưa biết rõ lợi ích trong tương lai ra sao, nhưng cắt thịt dư có thể gây nguy hiểm cho người
bệnh trong lúc giải phẫu.
- Mặt khác cũng không có gì chắc chắn là chứng bệnh viêm khớp cấp tính (RAA) có liên quan
mật thiết với chứng bệnh sưng thịt dư cổ họng. Người ta chỉ nhận thấy rằng những trẻ đã được
cắt thịt dư ít bị bệnh này hơn trẻ chưa cắt.
Tuy nhiên, ngày nay người ta phân biệt rõ ràng hai trường hợp bị sưng thịt dư: nếu chỉ do siêu vi
trùng gây ra thì không có gì đáng ngại, nhưng nếu chắc chắn do vi trùng streptocoques gây ra (10
– 20% trường hợp) thì phải được chữa trị nghiêm túc bằng trụ sinh (pénicilline) ít nhất là một
tuần lễ để tránh biến chứng RAA rất nguy hiểm.
Người ta cũng ngờ rằng có sự liên hệ giữa bệnh sốt bại liệt và sưng thịt dư, theo đó những người
đã được cắt thịt dư thì khi mắc bệnh bại liệt sẽ bị nặng hơn nhiều. Em cũng nên biết là tại các
nước Âu Mỹ, bệnh sốt bại liệt thường xảy ra ở lứa tuổi học trò và người lớn, trong khi tại xứ ta
thì ở trẻ nhỏ từ 3, 4 tháng đến 1, 2 tuổi, vì thế trẻ 1, 2 tháng đã phải chích hoặc uống thuốc ngừa
sốt bại liệt.
Trước hết ta phân biệt trường hợp sưng thịt dư cổ họng cấp tính thường xảy ra khi ta mắc một
bệnh tổng quát nào đó như cảm, cúm, sưng cuống phổi v.v và ta chữa căn bệnh chính thì chứng
sưng thịt dư cũng khỏi, trong khi chứng sưng thịt dư cục bộ thường do chuỗi cầu trùng ò, hoặc
phế cầu trùng, hoặc siêu vi trùng loại adenovirus gây ra. Trường hợp này em bị nóng sốt 39 –
400C, khó chịu mệt mỏi, nuốt nước miếng thấy đau, bỏ ăn và khó thở (thời khò khè, nhất là
trong giấc ngủ).
Khi khám bệnh thấy hai thịt dư sưng to và đỏ đôi khi có mủ đóng lốm đốm ở trên (cần phân biệt
với màng giả trong bệnh hạch hầu: mảng giả này trắng xám, dính rất chặt vào thịt, khi gỡ dễ làm
chảy máu). Sưng thiẹt dư do chuỗi cầu trung cũng có màng, nhưng khác với bạch hầu. Bác sĩ sẽ
cho thử nghiệm nếu nghi ngờ. ở phía trên vùng hạch hầu mà ta đã biết còn có những cơ quan
bạch huyết nhỏ khác gọi là hạch adenoide. Khi hạch hầu sưng thì hạch adenoide cũng sưng (gọi
là VA). Và chính hạch này đã làm cho khó thở, nghẹt mũi vì chận bít lỗ thông giữa mũi với hầu.

Em phải thở bằng miệng, giọng nói đổi khác, và sức nghe kém đi. Khi khám cũng thấy nhiều
hạch cổ nổi lên bên hàm dưới.
Trong trường hợp này dĩ nhiên em phải được đưa đến y tế, bác sĩ sẽ định liệu cách chữa trị thích
hợp. Thường em phải nghỉ học 5, 3 hôm, nằm nghỉ trên giường, ăn thức ăn lỏng, nhẹ; dùng thuốc
giảm đau và hạ nhiệt, thuốc trụ sinh; súc miệng thường xuyên bằng một loại thuốc sát trùng hoặc
bằng nước ấm pha muối.
Chữa như thế trong vài ba hôm các triệu chứng sẽ thuyên giảm, nhưng vẫn nên tiếp tục chữa
thêm 3, 4 hôm nữa để chắc chắn bệnh đã dứt.
Nếu không chữa sớm, bệnh nhân có thể bị những biến chứng:
- Thối tai giữa, sưng hạch cổ, viêm xoang, sưng cuống phổi, abcès vùng hầu
- Sưng khớp cấp tính, viêm thận, viêm xương
Bệnh thường dễ bị trở lại, và nếu trở đi trở lại 5-7 lần thì có thể coi như thuộc loại kinh niên rồi,
hoặc là vi trùng đã lờn thuốc. Trường hợp kinh niên, em thấy đau cổ họng thường xuyên, mệt
mỏi, ăn mất ngon, ho dai dẳng, nóng hâm hấp, thường đằng hắng, thở khò khè trong khi ngủ.
Khám thấy hai hạch sưng to lên. Bác sĩ tai mũi họng sẽ quyết định nên phẫu thuật cắt bỏ thịt dư
hay không. Thường chỉ cắt sau khi cơn bệnh cấp tính đã khỏi vài ba tuần lễ.
Những trường hợp sau đây được các bác sĩ khuyên nên phẫu thuật:
- Sưng thịt dư dai dẳng và có nổi hạch cổ.
- Có mụt nhọt chung quanh vùng thịt dư.
- Thối tai.
- Có liên hệ đến bệnh viện khớp xương, suyễn v.v
Dĩ nhiên, chỉ có bác sĩ chuyên khoa mới quyết định sau khi khám sức khỏe tổng quát cho em, và
em nên nghe lời khuyên của họ, vì trong thực tế có những trường hợp khác xa với lý thuyết. Bác
sĩ cũng sẽ tùy từng trường hợp bệnh trạng, sức khỏe của em để chọn một thời gian thích hợp giải
phẫu, nhưng thường thì khoảng từ 6 tuổi trở đi chọn để cắt thịt dư nhiều nhất. Bác sĩ sẽ chỉ dẫn
cho em những điều phải theo sau khi cắt thịt dư, chẳng hạn, em phải ăn những thức ăn lỏng, nhẹ,
dùng thuốc uống và thuốc súc miệng nào Và cũng nên để ý một vài điều sau đây:
- Có khoảng vài ba phần trăm trường hợp bị chảy máu sau khi mổ 5, 6 ngày, nơi chỗ cắt. Lúc đó
em hãy bình tĩnh trở lại cho bác sĩ xem lại.
- Nên tránh uống các chất chua như chanh, cam, cà chua (trong 5, 6 ngày sau khi cắt).

- Có hai màng trắng sẽ xuất hiện nơi trước kia là vùng thịt dư. Đó là trường hợp thông thường
chớ lo ngại.
- Thường từ 10 đến 14 ngày sau khi mổ mới được coi như đã hoàn toàn bình phục.
Phẫu thuật cắt bỏ thịt dư cổ họng phải được cân nhắc rất kỹ, không nên nghĩ rằng cắt thịt dư thì
giải quyết được mọi chuyện. Thịt dư (Amidan), VA (sùi vòm họng) là những cơ quan tạo kháng
thể chống lại bệnh xâm nhập nên cắt đi, nạo đi giống như ta hủy bỏ chốt bảo vệ vậy.
Nhức răng
Em có bị nhức răng bao giờ chưa? Nếu chưa, nên nhức một lần cho biết. Không có thứ gì đau
đớn, khổ sở hơn! Mỗi khi nhức răng, ta nghe cả đầu cũng nhức như búa bổ, cơ thể rời rã và ta
sẵn sàng nhăn nhó, nổi giận, muốn đấm, muốn đá bất cứ cái gì. Nếu đang lái xe, ta như muốn
tông xe vào cột đèn, đang học, đang thi thì muốn liệng hết sách vở! Tôn Hành Giả bị niệm chú
kim cô chắc cũng chỉ đau đến thế! Cho đến bây giờ, nguyên nhân của chứng sâu răng vẫn còn là
niềm bí ẩn. Có người không bao giờ bị nhức răng trong khi kẻ khác luôn chịu nỗi khổ này.
Người ta cho rằng nguyên nhân một phần do di truyền, một phần do dinh dưỡng sai lầm (ăn uống
thiếu thốn hoặc không đúng cách), phần khác do vấn đề vệ sinh răng miệng, vấn đề thiếu chất
flour trong nước uống v.v… Nguyên nhân gần nhất mà các nha sĩ công nhận là vi trùng trong
miệng đã làm lên men các loại chất ngọt (đường, bột…) dính ở kẽ răng tao ra chất acid, chất này
phá hủy men răng làm cho răng bị sâu. Xem đó ta thấy rằng có thể làm giảm bớt sâu răng bằng
cách giữ vệ sinh răng miệng đúng mức. Những người ăn trầu ít bị sâu răng. Có phải các chất
nồng của trầu, cau, vôi thuốc đã làm “say” các chú vi trùng? Những người nhuộm răng đen cũng
ít sâu răng.
Ở nước ta, các thống kê cho thấy tỷ lệ học sinh bị sâu răng rất cao. Thế mà răng quyết định phần
lớn “số mệnh” ta. Sức khỏe ta, dáng dấp bên ngoài của ta đều bị ảnh hưởng bởi tình trạng xấu
hay tốt của bộ răng. Các thi sĩ đã chẳng ca ngợi, ví von răng với những hạt ngọc đó sao? Răng tốt
thì thức ăn mới dễ tiêu hóa vì đã được nhai kỹ. Nhờ nhai kỹ, sự hấp thu ở ruột cũng dễ dàng,
không sinh ra chứng hôi miệng, bón, nhức đầu, vì bộ tiêu hóa xấu. Nụ cười của Bao Tự chắc đẹp
phải nhờ bộ răng. Em có nhớ câu “Nhất tiểu huynh thành” không? Tưởng tượng nụ cười tóe lửa
vì răng vàng hoặc nụ cười của một người mất năm ba cái răng cửa sẽ ra sao? Dù ngày nay kỹ
thuật làm răng giả cũng chỉ là để “ngụy trang” và nhai thức ăn, lúc ngủ vẫn phải gỡ ra. Tôi nhớ
một bức hí họa trong báo vẽ một ông nọ bỏ bàn tiệc, bò xuống đất giành với con chó bộ răng giả

của ông. Chẳng là, trong lúc ăn, ông đánh rơi hàm răng giả và con chớ tưởng miếng xương,
“đớp” liền!
Bộ răng sữa của chúng ta được tạo ngay từ tuần lễ thứ sáu, thứ bảy trong bụng mẹ, nhưng đến
tháng thứ sáu sau khi sanh, mới bắt đầu mọc hai răng cửa hàm dưới. Răng vĩnh viễn cũng đã có
vài tuần trước ngày sinh, nhưng chỉ bắt đầu xuất hiện vào lúc 6 tuổi. Các nhà chuyên môn
khuyên không nên nhổ răng sữa, bất đắc dĩ mới phải nhổ răng sữa và phải do nha sĩ quyết định
sau khi cân nhắc kỹ lưỡng.
Đừng nghĩ rằng nhổ răng sữa để răng vĩnh viễn mọc cho dễ. Trái lại, mỗi lần nhổ răng là giúp
cho vi trùng có dịp tấn công ta. Em cũng không nên nhổ răng bừa bãi ở mấy ông “quảng cáo”
bên lề đường, có khi bị “nhổ răng không đau” đó nghe! Nên phân biệt sâu răng và siết răng: răng
sâu đã đề cập ở phần trên, còn răng siết là những răng bị đóng từng đốm đen ở mặt ngoài, ở tuổi
từ 2 đến 7, răng bị cụt dần, có thể gẫy, về sau chỉ còn cái chân đen thui, nhưng không đau đớn gì
cả. Nguyên nhân cũng chưa rõ. Có thể vì thiếu sinh tố C, ăn uống không được quân bình v.v…
Người ta nhận thấy rằng sâu răng nhiều hay ít tùy thuộc các yếu tố sau đây:
- Lượng acid sinh ra nhiều hay ít (do vi trùng làm lên men chất đường dính ở răng).
- Thời gian tiếp xúc giữa răng và acid (nếu ăn xong súc miệng ngay thì giảm thiểu được thời gian
này).
- Lượng hóa học của nước bọt (có tính tiêu diệt vi trùng).
- Cảm ứng cá nhân tùy thuộc di truyền, chủng tộc, dinh dưỡng v.v…
Acid được tạo thành do sự lên men các chất ngọt dính ở răng, sẽ tấn công trước tiên men răng,
rồi đến ngà răng. Phá hủy được thành trì kiên cố này chúng tấn công đến tủy răng. Lúc đó là bắt
đầu đau, vì đã có sự tiếp xúc với dây thần kinh. Răng coi như đã chết. Nếu không chữa, vi trùng
sẽ theo cửa sổ xâm nhập đó để tiếp tục tấn công chân răng vào xương hàm, gây áp xe, vào xoang
mũi gây viêm xoang v.v…
Chữa trị sau răng thuộc thẩm quyền của nha sĩ. Tuy nhiên, ở đây tôi có thể nói với em về một vài
nguyên tắc vệ sinh răng miệng tối thiểu, hy vọng nhờ đó em phòng ngừa được phần nào bệnh sâu
răng.
- Phải tập thói quen đánh răng từ tuổi nhỏ. Đánh răng ngay sau khi ăn là tốt hơn hết. Nếu có thể
được, nên dùng các loại thuốc đánh răng (kem) có chất fluor.
- Tránh ăn nhiều các chất đường, bột; các loại kẹo, bánh ngọt, nhất là trước khi đi ngủ. Nên ăn

những loại có chất Ca và P để tỉ lệ Ca/P được quân bình, sinh tố D cũng rất cần thiết, giúp sự hấp
thụ chất vôi.
- Nếu đi khám răng thường xuyên ở một nha sĩ, trung bình mỗi năm hai lần cho những người có
bộ răng tốt. Nên đến chữa sớm khi bị sâu răng. Nha sĩ sẽ chỉ cho ta cách giữ gìn vệ sinh răng
miệng, loại thuốc đánh răng thích hợp, loại bàn chải và có thể cả cách đánh răng (chẳng hạn nên
chải theo chiều đứng, từ trên xuống…)
Nhưng tôi biết các em ngán đến nha sĩ lắm, tôi cũng vậy. Chỉ vì nhổ răng thì đau, cà răng thì ê cả
người, lại phải ngồi lâu, ngày này qua ngày khác. Vậy tốt hơn ráng giữ vệ sinh răng miệng, phải
không? Và đi nha sĩ khi răng chưa đau phải không?
Nhức đầu
Chắc chắn phần lớn các em đều có kinh nghiệm về nhức đầu. Nó không phải là một bệnh - theo
đúng nghĩa chữ bệnh - mà là một triệu chứng và hoàn toàn có tính cách chủ quan. Không ai đo
được cường độ của sự nhức đầu. Chúng ta nói: Nhức đầu quá (!) Hơi nhức đầu (!) Nhức đầu chút
đỉnh (!). Những khi trái gió trở trời, em bị cảm cúm cũng nghe nhức đầu. Và chứng nhức đầu
biến mất khi em hết cảm cúm; sau khi em uống một viên thuốc trị nhức đầu nào đó.
Cũng có khi nhức đầu là một triệu chứng của một vài bệnh cấp tính: sốt rét, đau màng óc… và
những trường hợp này không phải em chỉ nhức đầu suông, mà còn có thêm những triệu chứng
khác. Chẳng hạn, trong bệnh sốt rét em thấy lạnh, run lập cập, đắp hai ba cái mền vẫn còn run;
rồi nóng dữ dội (390-400) đổ mồ hôi, khô đắng cả miệng và nhức đầu… Trong bệnh đau màng
óc, ngoài nhức đầu, em còn bị nóng sốt, ói mửa, hôn mê v.v… Trong những trường hợp đó, dĩ
nhiên em phải được cấp tốc đưa đến bệnh viện để cứu chữa.
Có một vài trường hợp nhức đầu… kinh niên, nghĩa là nhức đầu tháng này qua tháng khác, năm
này qua năm khác trong các bệnh huyết áp cao (rất hiếm ở tuổi học trò), bệnh nhức đầu đông
(đau nửa bên đầu)… và trong những trường hợp này em cũng sẽ phải đến bác sĩ, vì nhức đầu
đông chẳng hạn, nhức chịu không nổi. Tôi phải dài dòng về các bệnh trên để em yên chí rằng
chứng nhức đầu của em mà tôi sắp nói đây không có trong các bệnh đó, vì nếu có thì em đã được
đưa đi “khám bác sĩ” hoặc nằm nhà thương rồi.
Thỉnh thoảng đọc báo, mục trả lời y học, tôi thấy có em hỏi có phải em bị đau óc không, bị đau
màng óc không, vì em hay bị nhức đầu… Mới đây, một đứa cháu tôi từ tỉnh về Sài Gòn chữa
chứng hay nhức đầu của nó. Nó ở tuổi em, đang học lớp 10 và chăm học có tiếng. “Ông già” nó

cũng là một y tá, đã chữa cho nó đủ thứ bệnh mà ông nghi ngờ, từ đau gan, đau thận cho đến
đau… óc. Nó cũng đã đi khám nhiều nơi và uống nhiều thuốc, không thấy bệnh thuyên giảm, nên
lo lắng lắm!
Thấy trường hợp khó, tôi cũng lo. Tôi khám tổng quát cho nó, và gửi đi khám chuyên khoa tai,
mắt, mũi, họng… chụp hình xương đầu và làm các thử nghiệm cần thiết khác… Trong thời gian
đó tôi “điều tra” về nếp sống của nó. Nó thực là một học sinh gương mẫu. Ba nó giàu và có một
mình nó là con trai duy nhất nên cưng ghê lắm. Không bao giờ ông cho nó đi chơi - đi xe honda
cũng không dám sợ tai nạn rủi ro - đi học có người chở đi; cả ngày nó lẩn quẩn trong nhà; không
ăn nhậu, không hút thuốc, không uống cà phê, bài bạc gì cả; cũng chưa bao giờ đi tắm biển, dù ở
vùng biển, vì sợ chết đuối… Nó học giỏi và học đến 3 “lớp”! Học ở trường rồi học thêm 2 “cua”
toán lý hóa, sinh ngữ nữa! Hỏi kỹ hơn, tôi được biết nó chỉ bớt nhức đầu khi được bạn bè chở đi
chơi một vòng… hóng gió!
Tôi đã ngờ phần nào nguyên nhân gây chứng nhức đầu của nó rồi, nhưng tôi vẫn phải cho đi làm
những thử nghiệm, mục đích gây tin tưởng và cũng để chứng minh là nó không có bệnh gì trừ cái
bệnh siêng học và được cưng quá đến nỗi nhức đầu, như con chim được nhốt trong lồng son với
chén vàng đĩa bạc đựng gạo nước! Nhưng thuyết phục được nó rằng nó vô bệnh không phải là
dễ; biểu nó chỉ cần thay đổi nếp sống, tổ chức lại việc học để chữa bệnh lại càng khó hơn, nhất là
khó mà thuyết phục cho “ông già” nó đừng… thương nó quá, hãy “ghét” nó một chút!
Tôi nghĩ ra một cách là gửi nó đến một vị giáo sư, thầy tôi, chuyên về bệnh thần kinh tâm lý. Kết
quả như em đoán ra rồi đó! Vị thầy tôi cũng khuyên nó tổ chức lại nếp sống, cách học hành và
cho nó một toa thuốc uống… “lai rai”. Được lời khuyên đó, tôi bắt nó lập chương trình tập thể
dục, bơi lội, đi chơi, ăn uống… kết quả khả quan.
Câu chuyện mà tôi kể cho em nghe đó không phải là để kết luận hồ đồ là chứng nhức đầu của
em chỉ là bệnh tưởng tượng. Nó có thực chớ không phải không, nhưng nguyên nhân quả là
rất phức tạp. Hầu hết các em - nhất là các em quá siêng học - đều mắc chứng nhức đầu. Nếp
sống của em không thoải mái, không thích hợp, cũng đủ làm em nhức đầu. Một đôi khi, trái
lại, có em vì làm biếng, cũng bị nhức đầu giống như chứng đau bụng sáng thứ hai mà y học đã
ghi nhận ở những trẻ muốn… trốn học!
Khi cố gắng quá sức ta thấy đầu nặng trĩu, nhức mắt - nhất là lúc học khuya vào những ngày gần
thi - lúc đó nên nghỉ một lát, tắm nước ấm nếu có thể, hay đắp khăn ướt lên trán. Một lúc sẽ thấy

hết nhức đầu. Nếu vẫn còn thì cơ thể cần ngủ rồi đó. Đừng ép nó làm việc thêm, vô ích, vì lúc đó
trí óc cũng không còn minh mẫn nữa.
Em khó mà biết chứng nhức đầu của em thuộc loại nhức đầu vì quá siêng học hay nhức đầu vì…
làm biếng học. Phụ huynh sẽ giúp em. Thấy em học nhiều quá thì phải bắt em đi chơi. Thấy em
trốn học thì phải cho em ăn đòn, đúng lúc, phải không?
Trong lứa tuổi học trò, thường thường nhức đầu là do các nguyên nhân bên ngoài bộ óc. Thường
nhất là đau răng. Cơn đau răng sẽ làm cho đầu bừng bừng lên chịu không nổi. Trong trường hợp
này muốn chữa chứng nhức đầu dĩ nhiên phải đến nha sĩ chữa cái răng hư. Mắt cũng là nguyên
nhân của bệnh nhức đầu, vì các bắp thịt mắt phải làm việc quá nhiều để điều tiết. Sự chênh lệch
giữa hai mắt cũng có thể làm nhức đầu.
Trong trường hợp em bị một trong các bệnh tật kể trên, em phải mang kính để điều chỉnh lại và
nhờ đó mà cũng hết nhức đầu. Em không nên mua kính bừa bãi để mang vì kính không đúng độ
sẽ làm khó chịu thêm và nhức đầu thêm. Nếu được một bác sĩ nhãn khoa đo mắt cho em là tốt
hơn cả và khi mua kính thì chọn tiệm lớn, có uy tín, họ sẽ bán cho ta kính tốt.
Sau đó phải kể trường hợp nhức đầu vì viêm màng mũi hoặc viêm xoang. Chứng viêm thịt dư cổ
họng cũng gây nhức đầu dai dẳng! Chứng thối tai kinh niên cũng gây nhức đầu. Trong các
trường hợp này, em phải chữa đúng bệnh thì nhức đầu mới khỏi.
Trường hợp nhức đầu ở các em gái, những ngày trước khi có kinh hoặc trong khi có kinh cũng
rất thường gặp.
Cuối cùng phải kể trường hợp nhức đầu vì bộ tiêu hóa xấu, bị bón, ăn không tiêu v.v…
Tôi không nói nhiều ở đây về các trường hợp trên, vì đã viết rõ ràng hơn trong các chương viêm
màng mũi, viêm xoang, kinh nguyệt, táo bón v.v…
Trong chương này tôi muốn nhấn mạnh với em rằng chứng nhức đầu trong tuổi học trò, ngoại trừ
những trường hợp kể trên thì thường là do em thiếu tổ chức trong việc học hành, hoặc nếp sống
của em không thích hợp. Mặt khác, tôi cũng muốn đánh tan cái thành kiến thường có của em,
những khi nhức đầu chút đỉnh là tưởng mình đau óc, sắp điên tới nơi, rồi hốt hoảng quá đáng!
Những bệnh ngoài da
Mụn
Có những “vấn đề” mà người lớn không sao thông cảm nổi với tuổi học trò của em. Chẳng hạn,
những đổi thay trên da mặt trong tuổi dậy thì mà đối với em là cả những âu lo, buồn khổ, bực

mình, trong khi người lớn thì chẳng những không quan tâm, lại còn có vẻ chế giễu khi thấy em
chăm soi quá đáng.
Tôi hiểu lắm, vì tôi đã trải qua giai đoạn mà em đang bước tới, và tôi cũng chưa đủ già để quên,
nên tôi sẽ nói với em hôm nay về “vấn đề số một” đối với em: Mụn! Không thực sao, khi em đã
khổ tâm rất nhiều vì nó? Em đã ngượng ngùng khi cắp sách đến trường vì sợ bạn bè chê cười?
Đôi khi họ còn tàn ác gán cho em cái biệt hiệu “Hùng mặt mụn”, “Thúy mụn”, “Lan mụn” v.v…
để phân biệt với những Hùng, Thúy, Lan khác! Không thực sao, khi em đã để khá nhiều thì giờ
soi gương, nặn, nắn, sờ từng vết mụn trên mặt và sợ hãi biết bao khi thấy nó lớn lên, hoặc làm
độc v.v…
Những người lớn không hiểu nổi những điều đó đâu! Họ cho là mất thì giờ! Nhưng họ quên đó
thôi, vì chính họ cũng có một thời kỳ giống em bây giờ, vì có đến 85% trẻ đến tuổi dậy thì có
mụn, kẻ ít, người nhiều. Tôi chắc có em nhiều xúc cảm đã có lần bồi hồi trước tấm gương: “Mụn
thế này, chết còn sướng hơn!”.
Thực ra, em hãy an tâm! Không có gì đáng lo lắng quá như thế! Không có gì đáng phải chết vì
mụn, trừ khi em nóng nảy làm cho mụn lở loét rồi bị nhiễm trùng nặng. Trước hết, em nên nhớ là
có 85% người có mụn trước, trong hoặc sau tuổi dậy thì nhưng một thời gian sau, lớn lên, hầu
hết tự nhiên mà khỏi.
Mụn thông thường đến nỗi người ta coi nó như một trong những dấu chứng của tuổi dậy thì.
Nguyên nhân thì chịu! Y học chưa biết rõ, chỉ biết nó phát xuất từ các tuyến nhờn dưới da, các
tuyến này hoạt động quá độ và phát sinh ra mụn. Kẻ thì cho là vì các ống thông từ tuyến ra ngoài
bị bít, bị nghẹt (tại ở dơ? hay tại các loại phấn trét lên đó?). Có người cho là do nguyên nhân tâm
lý: lo lắng cho mụn nhiều chừng nào, mụn càng “sum suê” chừng đó. Tuy nhiên, người ta có thể
xác định một số những yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng, phát triển của mụn trứng cá, chẳng
hạn: yếu tố di truyền, cảm xúc, va chạm, vi trùng…
Người ta nhận thấy cha mẹ hay trong họ hàng có người nhiều mụn, thì con cháu dễ có nhiều
mụn. Kết luận: có lẽ di truyền. Người ta nhận thấy những kẻ bị thiến (hoạn) không có mụn: có lẽ
do kích thích tố! Vả lại những em gái để ý khi sắp đến ngày có kinh, hình như mụn phát triển
mạnh thêm; hoặc những người chích, hay uống loại kích thích tố sinh dục nam thường có nhiều
mụn. Ăn những thức ăn “nóng” cũng có thể gây mụn như chocolat, coca, đồ biển v.v…
Những em hay xúc động, hay lo lắng cũng dễ có mụn nhiều, những em hay sờ mó, nắn, bóp mụn

thì mụn càng phát triển (yết tố va chạm) và cuối cùng vi trùng có sẵn bên ngoài da, sẵn sàng xâm
nhập để tấn công ta, khiến mụn thành nhọt, vỡ ra rồi thành thẹo (sẹo).
Chính vì nguyên nhân gây mụn không rõ ràng nên cách chữa rất phức tạp:
- Trước hết, em phải tránh những cảm xúc quá độ, những lo âu, phiền muộn hoặc những xung
đột trong gia đình, và giữa bạn bè với nhau. Nghĩa là luôn giữ một tinh thần thoải mái, vui tươi.
- Làm việc và nghỉ ngơi đúng mức (tránh sự quá sức).
- Để da được sạch sẽ, nên tắm mỗi ngày và rửa mặt thường xuyên với loại xà phòng có chất
sulfur và acid salycilic.
Như em thấy đó, người ta cho rằng nguyên nhân của mụn trứng cá là do các tuyến nhờn hoạt
động mạnh trong tuổi dậy thì, chất nhờn tiết ra đáng lẽ được bài tiết ra ngoài lại vì nguyên nhân
nào đó ống dẫn bị bít nghẹt nên làm độc. Nguyên nhân làm nghẹt ống dẫn một phần là do dùng
mỹ phẩm. Ở tuổi học trò mà nhiều em bắt chước người lớn dùng mỹ phẩm trang điểm nhiều quá.
Càng muốn che đậy một vài mụn trứng cá trên mặt, vô tình em làm nghẹt thêm những lỗ thông
của tuyến nhờn và làm cho mụn thêm phát triển. Vậy em cần giữ da mặt tự nhiên, sạch sẽ và
tuyệt đối tránh đừng nặn mụn, bào mụn… vì hậu quả trước hết là mụn sẽ thành thẹo (sẹo) rất khó
chữa sau này. Còn nếu không may, mà trường hợp này dễ xảy ra lắm, vi trùng xâm nhập vào da
là em có thể bị nhọt mủ (thường do vi trùng tụ cầu) rất khó chữa và nếu vi trùng vào máu càng
nguy hiểm hơn vì chứng nhiễm trùng máu, thỉnh thoảng ra gặp ở những người bị “đinh râu” do
phá mụn.
- Sau khi rửa mặt xong, có thể chấm một thứ thuốc nước cũng có chất sulfur, acid salycilic và
résorchine.
- Nên tránh những thức ăn nóng, kích thích, làm táo bón như chocolat, đồ chiên xào, mỡ, và vài
thức uống có nhiều hơi v.v…
- Tránh dùng những loại có kích thích tố vì có thể gây những phản tác dụng. Chẳng hạn như
dùng kích thích tố nam để chữa bớt mụn ở em gái, thường có nhiều trong những ngày trước khi
có kinh, có thể sẽ làm cho cô gái thành “con trai” (mọc râu, bể tiếng…). Thà chịu đựng vài cái
mụn còn hơn là bị mọc râu, bể tiếng phải không?
- Có thể dùng thuốc kháng sinh theo chỉ định của bác sĩ.
Bất đắc dĩ lắm mới phải dùng đến những phương pháp khử mụn bằng cách rọi tia cực tím, bằng
quang tuyến X và bằng các máy hút mụn. Dĩ nhiên, những phương pháp này phải do các bác sĩ

chuyên môn da liễu hoặc bác sĩ thẩm mỹ thực hiện. Tôi hy vọng em không phải dùng những
phương pháp tốn kém này và nhớ có mụn là một sự thông thường, chẳng nên quan trọng hóa quá
đáng. Vài tuổi nữa, em sẽ khỏi một cách không ngờ. Trừ phi, em muốn phá hủy gương mặt xinh
đẹp của em bằng cách để lại nhiều vết thẹo nám đen vì nặn mụn.
Tôi trích một đoạn nhỏ sau đây của Slawomir Mrozek, trong truyện “Con hươu cao cổ”:
- “Dĩ nhiên bạn có thể hỏi: Thế ông làm gì từ nhỏ cho tới năm 20 tuổi?”.
- “Dạ thưa từ nhỏ cho đến khi ông tới cái tuổi đó thời mối bận tâm duy nhất của ông là mấy cái
mụn trứng cá trên mặt, mấy cái mụn này cứ còn hoài, bất chấp số giờ vô cùng tận mà ông đã
dành cho chúng trước tấm gương soi”.
Em thì nhớ đừng để cho những cái mụn trứng cá đó trở thành mối bận tâm duy nhất của em nhé!
Bởi em còn nhiều việc quan trọng hơn là bỏ ra một số giờ vô cùng tận để soi gương phải không?
Em còn phải học hành, phải du ngoạn, thể dục, thể thao, hoạt động văn nghệ… nữa chớ! Và em
càng ít quan tâm đến mụn bao nhiêu, mụn càng “không thèm chơi” với em bấy nhiêu.
Lang ben
Có người gọi là lông ben, có người gọi là lang ben, có người gọi là bạch biến! Chẳng biết tiếng
nào đúng để chỉ cái bệnh ngoài da khó chịu của hầu hết các em trong tuổi học trò. Nó là những
đốm trắng, hồng nhạt, lốm đốm hoặc từng về to, có khi lan tràn cả mặt xuống ngực, lưng, tay
chân v.v… Nó khó coi vì cái sự lốm đốm đó, nó lại khó chịu vì ngứa ngáy và lại hay lây.
Chắc em còn nhớ một chuyện trong cuốn tập đọc vui lớp tư (lớp 2 bây giờ) kể rằng có thằng bé ở
dơ, nằm mơ thấy cây cối mọc trên người, tỉnh dậy hắn hoảng sợ không còn dám ở dơ nữa. Loại
lông ben hay lang ben này chính thực là loại “cây” mọc trên người chúng ta đó. Nhưng khổ nỗi
các em “ở sạch” vẫn có thể bị như thường, vì nó vốn là một thứ nấm mọc trên da người. Đặc
tính: hay lây, ngứa ngáy và lan tràn. Người có da càng đen thì đốm trắng càng nổi bật rất khó coi.
Nó khác chứng bạch tạng (albinisme) xảy ra ở một số người, có tính bẩm sinh và nguyên nhân là
do các tế bào tiết chất mélanin ở da một vùng nào đó không chịu làm việc hay làm việc kém đi.
Bệnh này rất khó chữa (không phải chỉ ở da, mà có khi ở tóc và mắt nữa). Những người còn trẻ
có tóc bạc, có thể do bệnh bạch tạng, nó không lấy và không ngứa ngáy như bệnh lang ben nói
trên.
Dĩ nhiên, để định bệnh chính xác, em nên đến thăm một bác sĩ. Nhưng trước tiên tôi đề nghị em
thử dùng một vài loại thuốc thông thường vô hại và rẻ tiền để chữa xem sao, một vài tuần có thể

biết rõ kết quả ngay.
Chẳng hạn, em có thể dùng loại thuốc có tên antimycose thoa chấm mỗi ngày một lần trong vòng
một tuần lễ: mỗi lần chấm như vậy rát lắm, nhưng đã ngứa và thấy “đáng đời” cho cái lũ nấm
mọc bậy bạ trên da người ta! Những ngày đầu vết trắng có vẻ trắng hơn lên, không sao cả. Sau
một tuần em ngưng thuốc và khoảng một tuần nữa, các vết trắng lốm đốm sẽ bay mất lúc nào
không hay. Khổ nỗi lâu ngày chúng lại mọc lại. Có lẽ là do những quần áo, khăn v.v… của chúng
ta vẫn còn chưa khử hết nấm, nên có dịp là chúng hoành hành ngay.
Em cũng có thể dùng một dung dịch alcool iodé 1% thoa mỗi ngày vài ba lần, kết quả khả quan,
nhưng hơi lâu một chút. Hiện nay có nhiều thuốc hiệu nghiệm. Nên hỏi ở bác sĩ da liễu.
Mồ hôi tay
Cái thứ mồ hôi tay này khó chịu lắm! Một số em gái, hơn ai hết, đã biết nỗi bực mình vì cái bệnh
này.
Nó bực mình vì tuổi em đang cầm viết mà nhiều khi mồ hôi ra ướt nhẹp, nắm viết hết vững, viết
tuột khi nào không hay. Có khi mồ hôi làm lem ướt giấy, vở, bài làm trông dơ dáy… Nhất là
những lúc thêu thùa càng khổ. Tôi nghe nói có em mồ hôi nhỏ ra từng giọt trên ngón tay. Tôi có
một bà dì cũng bị cái bệnh này, lúc đi học thì ướt viết, ướt giấy; lúc ra trường đi dạy thì ướt
phấn… thường hỏi tôi cách chữa, tôi chỉ cười nói lấy chồng thì hết! Mà thực, nhiều người bị
bệnh mồ hôi tay đã khỏi khi lập gia đình.
Các em đều biết là các tuyến mồ hôi ở da chúng ta có “bổn phận” bài tiết mồ hôi để thải chất độc
và điều hoà thân nhiệt. Nhiệt độ cao và sự hoạt động của bắp thịt là hai yếu tố chính gây ra sự đổ
mồi hôi. Tuy nhiên, khi sợ hãi ta cũng “toát mồ hôi lạnh” phải không? Vì thế, yếu tố tâm lý cũng
rất quan trọng, bởi các tuyến mồ hôi do hệ thần kinh trực giao cảm điều khiển và hệ thần kinh
này thuộc loại thần kinh thực vật, tự động.
Người ta thấy bệnh mồ hôi tay thường có ở các em gái, trong lứa tuổi học trò. Nguyên nhân sự
đổ mồ hôi tay phần lớn là do sự xúc cảm quá độ, sợ hãi quá độ. Chẳng hạn, một em lúc bình
thường thì không hề chi, nhưng khi bị gọi trả bài hoặc lên làm bài trên bảng thì mồ hôi túa ra ở
hai bàn tay. Sự kiện đó là hiện tượng rối loạn tâm thể. Khi xúc cảm mạnh là có mồ hôi đổ ra tại
các tuyến mồ hôi ở bàn tay, ở nách và ở mặt, cũng giống như một loại đổ mồ hôi khác – thường
ở con trai gọi là đổ mồ hôi phản xạ, khi nuốt nhanh một thức ăn, thức uống cay quá, nóng quá!
Thứ đổ mồ hôi phản xạ này thường ở các tuyến vùng mặt, nhất là ở mũi. Hôm nào, em thử để ý

các ông anh em trai háu ăn của em xem có phải thường bị đổ mồ hôi ở vùng mũi trong khi ăn
không nhé!
Thầy thuốc sẽ giúp em điều trị với những thứ thuốc thích ứng tùy trường hợp. Tuy nhiên, như em
đã biết, các loại thần kinh trực giao cảm đều chịu ảnh hưởng của xúc động: các em bị đổ mồ hôi
tay thường là các em quá nhạy cảm, sợ hãi, nhút nhát quá đáng. Đó cũng là lý do tại sao khi em
còn trẻ bị đổ mồ hôi tay mà khi lớn lên, lập gia đình rồi thì hết! Vì lúc đó người ta không còn
“nhạy cảm” nữa, có khi người ta còn trửo thành “sư tử” nữa kia! Sư tử đâu có đổ mồ hôi phải
không? Vậy, em có thể “tự chữa” bằng cách giảm bớt tính xúc cảm đi, tự kỷ ám thị là “không có
gì phải sợ”; có thể thở hơi dài, nín thở lâu một chút sau khi thở ra (tức là em tăng cường hệ thần
kinh đối giao cảm để chống lại sự cảm xúc quá độ do hệ trực giao cảm gây ra) cũng làm bớt mồ
hôi tay.
Tôi cũng có nghe người ta chỉ vài loại thuốc ngoại khoa như thoa nghệ v.v… Có người chữa
bằng thuốc bắc phối hợp với châm cứu. Tôi không thể quả quyết ra sao nhưng trong những
trường hợp này dù sao cũng có ảnh hưởng về phương diện tâm lý.
Tóm lại, chữa chứng đổ mồ hôi tay này thuốc men chỉ là phụ mà yếu tố tâm lý mới là quan trọng,
bởi đó là một loại bệnh” do xúc động gây ra.
Sán lãi
Ở những xứ như xứ ta thì sán lãi là một bệnh thông thường đến nỗi người ta không để ý đúng
mức tầm quan trọng của chúng nữa. Trẻ em “bụng ỏng da chì” là cha mẹ tự động ra tiệm mua
thuốc xổ lãi về “xổ”. Coi như xong. Nhưng thực ra thì sán lãi vẫn tiếp tục sống trong bụng trẻ vì
hai lý do: thứ nhất, lượng thuốc không đủ để tận diệt chúng hoặc cách dùng không đúng; thứ hai,
vẫn đề vệ sinh không được tôn trọng để ngăn ngừa lãi xâm nhập trở lại. Ta coi thường bệnh lãi vì
cho là không nguy hiểm, nhưng trên thực tế, nhiều em bị lãi không lớn nổi, học hành thua kém
bạn bè vì chứng đau bụng thường xuyên, chóng mặt, ói mửa, thiếu máu v.v… Không kể những
trường hợp lãi đũa chui vào ống mật, ống tụy, ruột dư, có thể gây những bệnh nguy hiểm, có khi
phải giải phẫu một vài trường hợp rối loạn bộ hô hấp vì sán lãi mà ta cứ tưởng là ho lao…
Lãi đũa
Thông thường nhất ở ta là lãi đũa. Chắc em có dịp thấy anh chị em trong nhà hoặc chính em có
lần đi tiêu ra con lãi dài như chiếc đũa, lòng thòng ngo ngoe thấy mà ghê! Có em ói lãi ra miệng
trông còn dễ sợ hơn! Tại bệnh viện Nhi Đồng, tôi có dịp chứng kiến một em “cho ra” trên trăm

con lãi đũa, vừa ở miệng, vừa ở hậu môn, sau khi được uống thuốc lãi, nhưng tôi nghe các bạn
làm việc tại khu ngoại khoa kể lại, có lần mổ một em vì tắc ruột đã tìm thấy gần 900 con lãi đũa!
Có ghê không?
Những con lãi đũa “xinh xinh” như con trùn đất đó (con đực dài khoảng 15-17 phân, con cái dài
hơn, khoảng 20-25 phân). Các em có ngờ không, mỗi ngày chị lãi đũa đẻ 200.000 trứng! Các
trứng này theo phân ra ngoài, gặp môi trường thích hợp, chúng nảy nở thành những ấu trùng (lãi
con) bám vào rau. Nếu ta ăn những rau sống sít đó, lại rửa không sạch, thì lãi sẽ theo vào ruột ta.
Những lãi con, một khi đã vào ruột, không nằm yên đâu, chúng làm một vòng du lịch trong thân
thể ta. Trước hết, chúng chui qua màng ruột, vào các tĩnh mạch, lên tim, rồi đến phổi. Tại đây,
chúng ta nằm trong các mao quản phế nang khoảng vài tuần lễ, rồi lên yết hầu để được nuốt lại
vào ruột. Sau chuyến chu du này, chúng đã trưởng thành tại ruột non và tiếp tục đẻ trứng, làm lại
chu kỳ. Chính cái thời gian “du lịch” quái ác của lãi con đó mà em bị những triệu chứng khó chịu
ở phổi như ho, khó thở, nóng sốt, ngứa cổ… Chụp hình phổi đôi khi ta tưởng lầm là bị sưng phổi
hoặc bị lao, nếu không để ý đến vụ sán lãi; vì nếu ta chụp hình phổi lại vài tuần sau đó sẽ không
còn thấy những dấu vết cũ trên phim. Chứng bệnh gây ra bởi cuộc du lịch “bất đắc dĩ” đó thực
chẳng thú vị gì cho chúng ta.
Lãi đũa ở ruột non hấp thụ một phần lớn dưỡng trấp do thức ăn tạo ra, khiến những em bị lãi
không thể mập mạnh, khỏe khoắn được. Chúng còn làm đau bụng, ói mửa, tiêu chảy, bỏ ăn…
Không kể những trường hợp chúng chui vào ống dẫn mật làm nghẹt ống này, gây chứng vàng da;
hoặc chui vào ống tụy làm viêm tụy, chui vào ruột dư làm viêm ruột dư v.v… Cũng may là
những trường hợp này rất hiếm.
Nếu một buổi sáng đẹp trời nào đó em đi tiêu ra một con lãi đũa “xinh xinh” hoặc ói ra một con
thì việc định bệnh đã hiển nhiên. Còn nếu chỉ có những triệu chứng như thường đau bụng, bụng
lớn, sốt lâm râm, nổi mề đay; hoặc ho, khó thở mà không có nguyên nhân nhiễm trùng hoặc
nguyên nhân nào khác thì bác sĩ sẽ cho em thử phân tìm trứng lãi đũa. Sau đó, khi đã xác định có
lãi, em sẽ được điều trị đúng liều lượng, đúng cách trong một thời gian, và có thể phải chữa
nhiều đợt với loại thuốc phù hợp.
Mặc khác, em phải để ý đến vệ sinh cá nhân và vệ sinh công cộng. Về các nhân: em không nên
ăn rau sống, nếu không chắc đã được rửa sạch (nhất là ở những nơi rau cải tưới bằng phân người)
ngay cả rửa bằng thuốc tím cũng chỉ có thể giết được vi trùng thôi, còn trứng lãi vẫn bám chặt

vào lá rau. Chỉ có cách tốt nhất là dùng vòi nước dội thật mạnh vào lá rau để đẩy trôi các trứng
lãi đũa đi.
Về vệ sinh công cộng, nên đi tiêu ở cầu tiêu, không đi tiêu bừa bãi, vì sẽ giúp trứng lãi đũa gặp
môi trường tốt, nở thành lãi con, nước mưa đầy chúng bám vào cây lá, hoa quả trong vườn để có
dịp truyền bệnh.
Lãi kim
Nếu lãi đũa còn có một số em không mắc phải thì lãi kim hình như em nào cũng bị cả. Cũng
giống lãi đũa, lãi kim (rất nhỏ, độ vài ly và vài phân) cũng đẻ trúng và trứng bám vào rau sống,
truyền từ người này sang người khác.
Đặc điểm của loại lãi này là chúng sống ở đoạn cuối ruột non, gần ruột dư, nên có thể chui vào
đấy chơi, gây chứng viêm ruột dư. Đặc điểm nữa là cái đêm đêm xuống hậu môn vượt qua cơ
vòng ra tận ngoại biên để đẻ trứng. Do đó, ban đêm em bé thấy ngứa ngáy ở hậu môn. Do đó,
ban đêm em bé thấy ngứa ngáy ở hậu môn. Bé chịu không được, phải gãi và nếu móng tay bé
dài, sẽ có một số trứng dính vào móng, sau đó bé cho tay vào miệng mút chơi hoặc ăn chuối, ăn
bánh với tay dơ đó, sẽ xảy ra tình trạng tự mình lây cho chính mình. (Các em hay ngậm tay coi
chừng nghe). Ở các bé gái 6, 7 tuổi… lãi kim có thể từ hậu môn chui qua âm đạo làm lở loét
hoặc làm độc, chảy mủ, khiến cha mẹ sợ hãi không rõ tại sao trẻ nhỏ mà có “huyết trắng” nữa!
Người ta tìm trứng lãi kim để định bệnh bằng cách dán một miếng băng Scotch vào hậu môn trẻ,
lúc sáng sớm, trứng lãi sẽ dính vào đó nếu có.
Phần em, em nhớ là khi thấy ngứa ngáy ở hậu môn phải cho ba má hay ngay và đừng gãi bậy.
Nhớ rửa tay sạch sẽ trước khi ăn và sau khi đi cầu. Nhớ cắt móng tay cho ngắn! Nhớ đừng cắn
móng tay, dù có làm bài bí đến đâu! Và nếu có thể, nên nấu sôi và giặt “ra” trải giường tuần lễ
vài lần để phòng ngừa trứng lãi bám vào “ra” lây bệnh cho người trong nhà.
Lãi móc
Nhưng trong các loại lãi, chỉ có lãi móc là nguy hiểm hơn cả. Nguy hiểm bởi chúng có hai hàm
răng móc, móc vào màng ruột non của ta (đoạn tá tràng) hút máu và do đó người có lãi móc sẽ bị
bệnh thiếu máu. Lãi móc không lớn lắm, con đực khoảng 10 mm, con cái khoảng từ 10-18 mm,
sống trong ruột ta bằng cách dùng răng bám vào màng nhày để hút máu. Con cái mỗi ngày đẻ
khoảng 10.000 trứng. Trứng theo phân ra ngoài biến thể thành loại ấu trùng trung gian trong 1, 2
ngày rồi trở thành lại hình sợi, sống nhiều tuần trong một môi trường ẩm thấp và mát mẻ. Tại

miền Nam, các vùng đất đỏ, đồn điền cao su, vùng có nhiều đất sét (lò gạch) và ruộng rẫy như
các vùng Sông Bé, Đồng Nai, Khánh Hòa v.v… là những vùng có điều kiện thích hợp cho loại
lãi móc sinh sản. Gặp dịp may, chẳng hạn gặp các em học sinh đi chân không (hoặc những nông
dân, những công nhân cạo mủ cao su, thợ làm gạch) lãi móc con đó sẽ chui qua da chân để vào
mao quản. Từ đó chúng theo dòng máu lên đến phổi (tại đây chúng có thể gây hội chứng Loeffer
như loại lãi đũa đã nói ở trên). Sau đó, chúng tiến đến yết hầu để được nuốt lại vào bụng.
Khoảng 3 đến 5 tuần sau, chúng trở thành lãi lớn, có quyền “kết hôn” với nhau để đẻ mỗi ngày
10.000 trứng, tiếp tục chu kỳ…
Chỗ da ở chân bị lãi con chui vào, nổi lên những vết đỏ ngứa ngáy và sưng lên, nhất là ở các kẽ
chân. Tại ruột, lãi có thể gây chứng đau bụng, ói mửa, tiêu chảy và các triệu chứng của bệnh mất
máu, tiêu phân đen. Sau cùng, phải kể đến ảnh hưởng tai hại trên sự phát triển tâm cơ của trẻ: bị
lãi móc, trẻ không lớn nổi, và học kém đi…
Chữa trị loại lãi này không phải là dễ. Ngoài thuốc diệt sán lãi, bác sĩ sẽ cho em thuốc bổ máu
(có chất sắt), các loại sinh tố cần thiết và hướng dẫn cách ăn uống.
Các em ở những vùng tôi đã kể trên nên mang giày dép tử tế để tránh lãi chui qua da chân vào cơ
thể. Nếu chân có nổi những mụn đỏ, ngứa ngáy thì phải hỏi đến bác sĩ sớm. Ngoài ra, nếu có
những triệu chứng ốm yếu, xanh mét, chóng mặt hoặc đi cầu thấy phân đen thì càng cần cấp tốc
điều trị sớm, để có thể tiếp tục học hành tốt.
Sán xơ mít
Thỉnh thoảng có em mắc bệnh sán xơ mít, đi cầu ra những khoang giống như những miếng xơ
mít ta thường thấy, trông rất dễ sợ. Người bị loại ký sinh trùng này thường đau bụng ói, tiêu chảy
và gầy ốm.
Có nhiều loại sán xơ mít, nhưng có hai loại thông thường là loại sán trong thịt heo taenia solium,
và loại sán trong thịt bò taenia saginata. Tôi có một người bạn học hồi năm chót ở y khoa, uống
thuốc, ông cho ra một con sán dài khoảng năm mét bèn đem ngâm formol làm kỷ niệm.
Loại sán taenia solium sống trong ruột người dài từ 3 đến 5 mét, lưỡng tính (vừa đực vừa cái), có
một cái đầu tròn với hơn hai chục cái móc nhọn và 4 cái ống hút dùng để bám chặt vào ruột non,
và dưới cái đầu dài là cả ngàn khoang (xơ mít). Mỗi khoang dài 12 mm, rộng 6 mm với cả bộ
phận sinh dục đực và cái ở đó, nghĩa là mỗi khoang có thể tự đẻ trứng. Trứng của chúng được
heo ăn vào, nở thành ấu trùng nằm trong các thớ thịt, nhất là ở lưỡi và ngực. Đó là những con

heo gạo. Nếu ta ăn nhằm chúng ta sẽ mắc bệnh sán xơ mít ngay.
Loại taenia saginata ở trong thịt bò. Chúng dài hơn loại trên và cũng nhiều khoang hơn (2.000).
Những em thường ăn thịt bò sống có thể bị bệnh này.
Cách đề phòng hữu hiệu nhất là tránh ăn heo gạo, tránh ăn thịt chưa nấu chín (nem sống, lưỡi
heo), rửa thực kỹ rau cải, giữ tay sạch sẽ…
Bón
Y học cho rằng “bón” không căn cứ trên số lần đi cầu mà căn cứ trên đặc tính của phân. Phân
cứng, khô, ít, được coi là bón. (trẻ em còn bú sữa mẹ, có khi một ngày đi 5,7 lượt không gọi là
tiêu chảy, cũng như có thể bảy ngày mới đi cầu một lần mà không gọi là bón). Có nhiều trường
hợp thực phẩm ăn vào đều được hấp thụ (loại thực phẩm không có bã hay ít bã) thì đôi ba ngày
không đi cầu là thường. Phải có đủ lượng phân nằm trong trực tràng thì mới có phản xạ kích
thích thần kinh ruột làm mở hệ thống cơ vòng ở hậu môn “cho phép” tống phân ra ngoài. Mặt
khác, các cơ vòng này chịu sự chỉ huy trực tiếp của trung khu thần kinh. Do đó, ta có thể “cầm
cự” hoặc chịu thua, hoặc chiến thắng cơn đau đó. Điều này cần phải hiểu rõ, để biết tại sao vấn
đề bón phức tạp và có một ảnh hưởng hỗ tương tâm thể (psychosomtique), cũng như ta sẽ hiểu
dễ dàng phương pháp điều trị ở phần sau.
Nguyên nhân của bệnh bón nhiều lắm. Đại khái ta có thể phân làm 3 loại: 1) do dinh dưỡng: ăn ít
quá. 2) do bệnh tật: ở ruột hoặc hậu môn, rối loạn thần kinh thực vật, ít vận động, nằm lâu một
chỗ, biến dưỡng sút giảm, ung thư ruột già, bướu tử cung, bướu buồng trứng, có mang v.v… 3)
do ảnh hưởng tâm lý: thói quen dồn ép cơn đau đi cầu, ghê tởm phân, mê chơi, xấu hổ khi tới
nhà lạ, kẹt giờ học…
Không kể một vài thứ thuốc có thể làm bón, chẳng hạn thuốc có chất belladone, thuốc ngủ, thuốc
lợi tiểu, bismuth, calcium, sắt, aluminium v.v… mà vì lý do bắt buộc, một số người phải dùng.
Tưởng cũng nên ghi chút xíu về thành phần của phân: bình thường 1/4 nước, 1/4 chất đặc gồm
30% vi trùng chết, 10-20% mỡ, 10-20% chất vô cơ, 2-3% đạm, 30% chất bã không tiêu hóa… Ta
thấy nước chiếm 3/4 phân và nếu phân nằm quá lâu trong trực tràng, nước sẽ bị hấp thụ hết qua
màng ruột, do đó phân khô, cứng lại thành bón.
Hậu quả của bón thì các em đều biết đó! Cứ trông ai mặt mày cau có, gắt gỏng là chắc ruột người
ấy không tốt rồi! Có nhiều người bị nhức đầu vì bón, có người bị bón phân khô, cứng làm rách
hậu môn, mỗi lần đi cầu chảy máu và lâu ngày trở thành một thứ bệnh “đau khổ” là bệnh trĩ vậy.

Em cũng cần để ý là bệnh bón thường xảy ra ở phái nữ (Con gái hay thẹn mà! Con trai có thể ra
ngoài đồng trống, ra bờ sông cho mát mẻ, nhưng con gái thì phải rán về nhà); ở những người
thành thị, những người ít vận động (thư ký, học trò) v.v…
Nhất là học trò! Nếu ngay từ lúc nhỏ, cha mẹ ta không dạy cho ta một thói quen tốt là đi cầu mỗi
ngày, đúng giờ v.v… hoặc gieo vào trí óc non nớt của ta quan niệm sai lầm rằng phân là cái gì
gớm ghiếc thì chắc chắn ta sẽ bị khổ vì bón sau này! Bởi “nghề” đi học vốn là một nghề ít hoạt
động, lại có nhiều bạn bè… làm ta mắc cỡ, ta ít khi có can đảm đứng lên xin thầy… “cho đi
cầu”. Và nhất là ít có trường có nhà cầu thực thoải mái. Có lẽ quý vị y tế học đường để ý thêm vụ
này: có một phòng thuốc đẹp đẽ, có đầy đủ thuốc men là quý, nhưng cũng nên có một hệ thống
cầu tiêu sạch sẽ cho mỗi trường.
Chứng bón kinh niên gây nên những hậu quả tai hại khác như ăn không ngon, khó tiêu, đau lâm
râm ở hai bên bụng dưới, mất ngủ, chóng mặt, gầy yếu, mệt mỏi, đôi khi ói mửa và nóng hâm
hấp mà không rõ nguyên nhân.
Nếu em đã đọc kỹ phần trên, thì không cần tôi phải nói cách điều trị bón, em đã tự điều trị được
rồi. Nhưng hãy nhỡ đừng nhờ đến thuốc nhuận trường hay thuốc xổ! Thuốc này tai hại lắm! Nó
làm ta đau bụng, khó chịu, đôi khi làm ta… lỡ bộ kẹt lắm, nhất là tạo thành cái thói quen tai hại
vì sau cơn… chảy lại tiếp theo cơn bón và cứ làm thế làm thành cái vòng lẩn quẩn! Trong vài
trường hợp, bác sĩ sẽ quyết định cho em dùng thuốc xổ để khởi động lại bộ máy đã mỏi hoặc
dùng vài loại thuốc bơm rửa v.v…
Tóm lại:
- Cố gắng tập một thói quen tốt về vệ sinh. Mỗi ngày nên đi cầu một lần. Đi đúng giờ và dù
không muốn cũng cứ đi! Nếu bực mình lắm thì mang theo một tờ báo hoặc vài công thức toán
hóa học vào cầu… ôn.
- Nên ăn đủ lượng thực phẩm! Nhiều chất có bã (rau cải, hao quả…). Nên ăn đủ lượng nước
(trong phân có 3/4 nước). Có nhà chuyên môn khuyên mỗi sáng nên uống một ly nước, nửa giờ
trước bữa điểm tâm.
- Tập thể dục các bắp thịt bụng mỗi ngày và nên đi bộ thường xuyên.
- Nếu có bệnh gì về ruột, hậu môn thì phải chữa. Bác sĩ sẽ chỉ dẫn cách dùng thuốc nhuận
trường, xổ, hoặc bơm rửa v.v… nếu cần. Một vài trường hợp bón hoặc do thực phẩm khó tiêu,
hoặc do ruột già hoạt động không tốt (co thắt hay tê liệt v.v…) cũng như vài trường hợp bón kinh

niên do thần kinh tâm lý suy nhược cần có ý kiến của thầy thuốc.
Chắc có em sẽ hỏi tôi về phương pháp Oshawa. Có người theo phương pháp gạo lứt muối mè
của Oshawa thấy kết quả tốt trong việc điều trị bón kinh niên. Phương pháp này có vài điều có vẻ
nghịch lý với tây y. Chẳng hạn: uống càng ít nước càng tốt, ăn gạo lứt có nhiều chất cám (mà
chất này có thể quả quyết là đúng hay sai về phương diện điều trị bệnh bón, tuy nhiên tôi tin rằng
phương pháp Oshawa có thể chữa được bệnh bón vì những lý do sau đây:
1. Người theo phương pháp này phải nhai thực kỹ, thực nhuyễn thức ăn. Điều này giúp sự tiêu
hóa dễ dàng.
2. Trong cám có sinh tố B1 là chất cần thiết cho tiến trình tạo năng lượng, và năng lượng này
giúp cơ thể nói chung và bộ tiêu hóa nói riêng làm việc mạnh hơn (co bóp).
3. Mè chứa nhiều chất dầu. Chính chất dầu mè này làm trơn ruột…
4. Phương pháp Oshawa cũng khuyên ăn nhiều rau cả, là những chất có nhiều bã.
5. Người ăn theo phương pháp này phải luôn luôn giữ tâm hồn bình thản, vui tươi… mà điều này
cũng giúp ích nhiều cho sự tiêu hóa.
Em có biết Lâm Ngữ Đường, triết gia danh tiếng của Trung Hoa, nghĩ thế nào về hạnh phúc
không? Ông viết: “Đối với tôi, hạnh phúc trước hết là vấn đề tiêu hóa, phần lớn thuộc về sự hoạt
động của ruột… Ruột ta mà hoạt động điều hòa thì ta sung sướng, không thì ta khổ sở.
Trĩ
Thỉnh thoảng tôi gặp một vài em còn đang học tiểu học mà đã mắc phải bệnh trĩ.
Cha mẹ thì lo lắng không hiểu tại sao mỗi lần con họ đi cầu đều thấy có máu và trở nên sợ hãi
không dám đi cầu nữa. Em bé thì xanh xao, nhăn nhó. Càng sợ hãi trốn tránh đi cầu thì càng bón,
càng bón thì càng dễ bị trĩ, và cái vòng lẩn quẩn bắt đầu.
Thực ra bệnh trĩ có thể xảy ra ở bất cứ tuổi nào, nhất là ở tuổi trưởng thành, ngoài ba mươi
thường bị hơn cả, nhưng ở tuổi còn đi học cũng không phải hiếm. Bởi đi học là cái “nghề” có
nhiều lý do để bón, như em đã biết ở bài trước. Mà bón thì có thể coi như là nguyên nhân chính
của trĩ ở tuổi học trò. Nhất là những em cơ thể phì nộn, ít hoạt động, hoặc những em quá chăm
học, cả ngày chỉ ngồi, không nhớ đến ăn uống, vệ sinh gì nữa!
Chắc em có lần thấy họ quảng cáo một thứ thuốc chữa trĩ: họ vẽ một cô nữ sinh tóc thề, ôm cặp
nhăn nhó, coi bộ đau khổ lắm: bên dưới tấm hình quảng cáo, cũng cô gái đó, sau khi dùng thúôc
của họ, bèn vui vẻ yêu đời ngày! Nhà quảng cáo không phải vô tình mà vẽ bức tranh đó đâu! Họ

cũng có nghiên cứu biết bệnh trĩ… vốn có nhiều “cảm tình” với giới học trò đó chứ!
Không phải bất cứ trường hợp nào đi tiêu có máu cũng là bệnh trĩ! Em phải để ý điều đó để
không lầm lẫn bệnh trĩ và các b ệnh khác của bộ tiêu hóa, của hậu môn. Trong bệnh trĩ thì máu
đỏ tươi, chảy thành từng giọt, sau khi phân đã ra, hoặc bao trùm phân, chớ không trộn lẫn trong
phân. Có nhiều bệnh có thể làm đi tiêu ra máu: máu đen thì bệnh khác, mà máu đỏ có đờm nhớt,
trộn lẫn trong phân là bệnh khác.
Em phải để ý kỹ để mô tả rõ ràng cho bác sĩ, giúp dự định bệnh mau chóng, dễ dàng hơn.
Ở lứa tuổi học trò thường bị nội trĩ hơn và thứ này chỉ làm chảy máu nhiều, chớ không đau đớn
như trĩ ngoại. Có thể cảm giác đau rát hậu môn và đôi khi bị sa hậu môn nữa. Ngoại trĩ là những
kết huyết tĩnh mạch hậu môn. Đó là những bướu xanh nhợt, rất đau đớn, phải dùng phẫu thuật để
chữa trị.
Nguyên nhân gây bệnh trĩ thì nhiều và khá phức tạp. Tựu trung có hai thuyết: thuyết cơ học cho
ràng sở dĩ các tĩnh mạch ở hậu môn trương nở là vì có sự trục trặc trong hệ tuần hoàn. Sự lưu
thông trong các tĩnh mạch hậu môn bị chặn nghẹt vì một lý do nào đó, có thể do chai gan, tim
yếu ,có thể do có thai hoặc bướu tử cung, buồng trứng đã chặn nghẹt tĩnh mạch; cũng có thể do
sự ít vận động, béo mập và nhất là táo bón kinh niên. Các tĩnh mạch hậu môn trương nở, nếu gặp
phân bón, chặt, cứng, sẽ bị rách và chảy máu dễ dàng.
Thuyết thứ hai cho là vì một nguyên nhân nào đó các tĩnh mạch bị viêm, rồi mới trương nở thành
trĩ. Nguyên nhân đó có thể là bón, là tiêu chảy hoặc sự suy kém hoạt động của trực tràng.
Dù thuyết nào thì ta cũng thấy nguyên nhân thông thường gần gũi nhất của trĩ là bón và không
thể chữa trị nếu không đồng thời chữa cho người bệnh hết bón. Những trường hợp khác như chai
gan, huyết áp cao, bướu tử cung, thai nghén v.v… dĩ nhiên bác sĩ sẽ phải điều trị, nhưng vì bón
và vì thiếu vận động là những bệnh mà chính em phải tự điều trị lấy. Và đây mới là nguyên nhân
chính của bệnh trĩ trong tuổi học trò mà cũng là mục đích của tôi trong bài này.
Nếu không chữa thì trĩ có thể gây những biến chứng , trong đó phải kể biến chứng thiếu máu vì
bị mất máu thường xuyên, biến chứng rách hậu môn làm đau đớn dữ dội và sa hậu môn là một
biến chứng “đau khổ” nhất.

×