Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Đồ Án Đánh giá ảnh hưởng của điều kiện lao động đến sức khỏe người lao động trong ngành xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.88 KB, 33 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, lao động sản xuất trong
nền công nghiệp luôn là vấn đề mang tính nền tảng. Hơn nữa, trong những năm
gần đây, nhiều khu công nghiệp lớn ở nước ta được hình thành với hàng loạt các
nhà máy, xí nghiệp và các dịch vụ kèm theo đã giải quyết việc làm cho một số
lượng lao động lớn. Tuy nhiên, trước tình hình phát triển nhanh và nhiều của các
cơ sở công nghiệp, dịch vụ…thì vấn đề môi trường, vệ sinh lao động như: yếu tố
vi khí hậu, bụi, ánh sáng, chất độc, hơi khí độc, tiếng ồn, độ rung sốc, tia phóng
xạ, các vi sinh vật gây hại…phát sinh và có diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng đến
sức khỏe cũng như tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Mặc
dù đã biết nhiều là trong quá trình lao động sản xuất, người lao động thường
xuyên tiếp xúc với các yếu tố nguy hại với hàng trăm nghìn các hóa chất và dung
môi độc hại được đưa vào sản xuất và phục vụ đời sống cũng như hàng trăm các
yếu tố vật lý, sinh học có ở trong môi trường sống và lao động. Và hàng ngày
chúng tác dụng lên sức khỏe người lao động có khả năng gây nên những rối loạn
bệnh lý hoặc làm mất cân bằng các phản ứng sinh lý, sinh hóa của cơ thể người lao
động trong thời kỳ mới tiếp xúc…Hơn nữa, đa phần các doanh nghiệp chạy theo
lợi nhuận, không ngừng tăng ca, tăng cường độ và thời gian lao động với tư thế
làm việc gò bó, kém thoải mái… Họ bỏ qua các vấn đề chăm sóc sức khỏe cho
người lao động làm cho người lao động có khả năng mất sức, tiêu hao nhiều năng
lượng, gây stress…ảnh hưởng đến tâm sinh lý của họ. Khi đó người lao động sẽ
làm việc với tâm trạng không thoải mái, bị áp lực…thì năng suất lao động không
cao mà nguy hiểm hơn là khi họ mất tập trung có khả năng sẽ xảy ra tai nạn lao
động. Mặt khác nước ta đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, thô sơ với các cơ
sở hạ tầng, phương tiện lao động và điều kiện sản xuất cũng lạc hậu, không đồng
bộ, đồng thời với nhịp sản xuất tăng nhanh như thế mà trên thực trạng môi trường
bị ô nhiễm, do vậy các tác hại của yếu tố vệ sinh lao động vẫn không ngừng tăng
lên. Hậu quả của nó là các rối loạn bệnh lý, các bệnh nghề nghiệp ngày càng gia
tăng, đây là vấn đề hết sức nan giải trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, đòi
hỏi nhiều cấp, nhiều ngành phải phối hợp giải quyết vì mục tiêu sức khỏe cho
người lao động mới của đất nước. Bởi vì mong muốn được làm việc trong một


môi trường vệ sinh an toàn là một nhu cầu chính đáng của người lao động. Vì thế,
người sử dụng lao động, các cơ quan chức năng có liên quan phải có trách nhiệm
quan tâm đến vấn đề an toàn vệ sinh lao động, phòng ngừa bệnh nghề nghiệp cho
người lao động, cần thiết phải bổ sung nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ,
nhân viên trong doanh nghiệp, đầu tư và cung cấp các trang thiết bị, phương tiện
đo đạc môi trường lao động và dụng cụ chuyên khoa khám sức khỏe, nhất là khám
phát hiện bệnh nghề nghiệp cho người lao động để từ đó có các giải pháp khắc
phục, điều trị bệnh, phục hồi sức khỏe và phòng ngừa những tác hại sẽ đến với
người lao động. Các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát
việc chấp hành các quy định về đảm bảo vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn lao
động đối với các cơ sở sản xuất theo quy định. Bên cạnh đó, lãnh đạo các doanh
nghiệp phải lấy mục tiêu bảo vệ môi trường và vấn đề an toàn vệ sinh lao động là
mục tiêu đi đôi với việc phát triển doanh nghiệp. Còn người công nhân lao động
cần phải nêu cao ý thức về bảo hộ, an toàn trong lao động, sản xuất để tự bảo vệ
sức khoẻ mình.
Là những kỹ sư Bảo hộ lao động trong tương lai, chúng ta cần phải nâng cao trình
độ hiểu biết những yếu tố vệ sinh lao động nói riêng và khoa học bảo hộ nói chung
để có kiến thức cơ bản và sâu rộng nhằm phục vụ, bảo vệ lợi ích sức khỏe của
người lao động tránh tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp là vô cùng quan trọng
vì nó sẽ thúc đẩy quá trình phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Chính vì vậy, với đồ án “Đánh giá ảnh hưởng của điều kiện lao động đến sức
khỏe người lao động trong ngành xây dựng” tôi sẽ tập trung nghiên cứu cách
đánh giá điều kiện, vệ sinh lao động tại nơi làm việc trong ngành xây dựng. Vì
trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với các ngành kinh
tế khác, ngành xây dựng chiếm một vị thế quan trọng, nó là điều kiện cho các
ngành khác phát triển. Tuy nhiên trong quá trình lao động của ngành, tai nạn lao
động xảy ra chiếm một con số lớn hơn 51% tổng số tai nạn lao động vì công việc
nay đòi hỏi người lao động phải thường xuyên tiếp xúc với nhiều yếu tố độc hại và
nguy hiểm như: làm việc trong môi trường vi khí hậu xấu do công việc được tiến
hành ngoài trời, mức độ lao động nặng nhọc, tư thế lao động bắt buột gò bó,

không thoải mái, làm việc trên cao ở những vị trí cheo leo, không lang cang, tay
vịnh…, trong tầng hầm, có nhiều bụi, tiếng ồn, rung, hơi khí độc, … Và như thế
ta thấy chỉ có đánh giá đúng mức độ khắc nghiệt của điều kiện lao động không tốt
do các yếu tố có hại và nguy hiểm này thì mới tìm ra được giải pháp hiệu quả và
kinh tế nhất để nâng cao năng suất lao động và đảm bảo sức khỏe cho người công
nhân lao động.
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
Mục lục
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ VỆ SINH LAO ĐỘNG
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Điều kiện lao động
1.1.2. Vệ sinh lao động
1.1.3. Bệnh nghề nghiệp
1.2. Mục đích của vệ sinh lao động
1.3. Phân loại các yếu tố có hại
1.4. Đánh giá điều kiện lao động
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ ĐIỀU KIỆN LAO ĐỘNG CỦA CÔNG TY
2.1. Đặc thù của ngành xây dựng


2.2. Thực trạng về điều kiện lao động của công ty
2.2.1. Thực trạng về điều kiện lao động của ngành xây dựng


2.2.2. Thực trạng về điều kiện lao động của công ty

2.2.3. Quy trình làm việc tại công trường (các công đoạn thi công)


Chương 3
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ KHẮC NGHIỆT CỦA ĐIỀU KIỆN LAO ĐỘNG
ĐẾN SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
3.1. Đánh giá vệ sinh lao động tại công trường xây dựng của công ty
3.1.1. Kết quả đo đạc tại một vị trí làm việc (trên giàn giáo) trong công đoạn
xây tô
3.1.2. Đánh giá nhận xét kết quả đo đạc
3.2. Công tác quản lý và chăm sóc sức khỏe người lao động

3.2.1. Bảng kết quả khám sức khỏe định kỳ
3.2.2. Nhận xét kết quả khám sức khỏe

3.3. Đánh giá điều kiện lao động tại công trường xây dựng
3.3.1. Tính toán mức độ khắc nghiệt của điều kiện lao động tại công trường
3.3.2. Phân loại điều kiện lao động
3.3.3. Cải thiện điều kiện lao động và tính toán mức khắc nghiệt sau khi cải
thiện
3.3.4. Tính khả năng lao động và năng suất lao động
KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VỆ SINH LAO ĐỘNG
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Điều kiện lao động
Điều kiện lao động là một tập hợp tổng thể về các yếu tố tự nhiên, kỹ thuật, kinh
tế, xã hội, được biểu hiện thong qua các công cụ và phương tiện lao động, quá
trình công nghệ, môi trường lao động và sự sắp xếp, bố trí tác động qua lại của
chúng trong mối quan hệ với con người, tạo nên một điều kiện nhất định cho con
người trong quá trình lao động.

Đánh giá, phân tích điều kiện lao động phải tiến hành đánh giá, phân tích đồng
thời trong mối quan hệ tác động qua lại của tất cả các yếu tố trên.
1.1.2. Vệ sinh lao động
Vệ sinh lao động nghiên cứu những quá trình sinh lý của cơ thể trong lúc lao
động, những quan hệ qua lại giữa cơ thể người lao động và ngoại cảnh hay môi
trường lao động; là hệ thống các biện pháp và phương tiện về tổ chức và kỹ thuật
nhằm phòng ngừa các yếu tố có hại trong sản xuất và cải thiện điều kiện làm việc
cho người lao động.
Yếu tố có hại trong sản xuất là yếu tố tác động gây bệnh cho người lao động
Các tác hại nghề nghiệp: Người công nhân trong quá trình lao động sản xuất có
thể tiếp xúc với các yếu tố độc hại, các yếu tố đó có thể xuất phát từ nguyên liệu,
sản phẩm, từ thiết bị công nghệ sản xuất, từ ddiieuf kiện thực hiện công việc, từ
môi trường nơi làm việc…Và có thể ảnh hưởn đến sự thoải mái của cơ thể, đến
sức khỏe người lao động. Đó là các yếu tố nghề nghiệp hay các tiếp xúc nghề
nghiệp. Vậy tác hại nghề nghiệp là khi các yếu tố nghề nghiệp gây tác dụng có hại,
gây hậu quả xấu trên sức khỏe và khả năng lao động của người lao động.
Sơ đồ:
Sơ đồ 1: Mối quan hệ đa chiều tạo nên trạng thái cân bằng động hoặc mất cân
bằng, suy giảm sức khoẻ và lao động cùng với các tác hại nghề nghiệp (Vệ sinh
lao động và bệnh nghề nghiệp-Đỗ Hàm)
1.1.3. Bệnh nghề nghiệp
Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp
tác động đối với người lao động. Hiện nay, có 25 bệnh nghề nghiệp và Danh mục
các loại bệnh nghề nghiệp do bộ y tế và bộ lao động thương binh và xã hội ban
hành sau khi lấy ý kiến Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của người
sử dụng lao động. (Điều 106 Bộ luật lao động)
1.2. Mục đích của vệ sinh lao động
Mục đích nghiên cứu của vệ sinh lao động là nhằm làm triệt tiêu những nguyên
nhân có ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe và khả năng lao động của người công
nhân lao động. Do đó, nhiệm vụ chính của vệ sinh lao động là dùng những biện

pháp để cải tiến lao động, quá trình thao tác, sáng tạo điều kiện sản xuất hoàn
thiện để nâng cao trạng thái sản xuất và khả năng lao động cho người lao động
1.3. Phân loại các yếu tố có hại
Yếu tố có hại trong lao động sản xuất là yếu tố tác động gây bệnh cho người lao
động. Các yếu tố có hại bao gồm:
1.3.1. Các yếu tố vật lý:
1.3.1.1. Vi khi hậu
Vi khí hậu là trạng thái vật lý học của không khí trong khoảng không gian thu hẹp
ở nơi làm việc, bao gồm các yếu tố: nhiệt độ(
0
C), độ ẩm không khí (%), bức xạ
nhiệt (cal/cm
2
/phút) và tốc độ vận chuyển của không khí ( m/s). Các yếu tố này
phải đảm bảo ở giới hạn nhất định phù hợp với sinh lý con người. Vi khí hậu nóng
là nơi có nhiệt độ bằng và lớn hơn 32
0
C (đối với lao động nhẹ 34
0
C, lao động nặng
30
0
C). Vi khí hậu lạnh là nơi có nhiệt độ bằng và nhỏ hơn 18
0
C (đối với lao động
nhẹ 20
0
C, lao động nặng 16
0
C). Điều kiện khí hậu phụ thuộc vào quá trình công

nghệ và khí hậu địa phương.
1.3.1.2. Bức xạ nhiệt, ion, sóng điện từ.
- Bức xạ không ion hóa: Gồm ánh sáng hay sự chiếu sáng, tia laser, tia hồng ngoại,
tia cực tím,…
- Bức xạ ion hóa: Các tia X (tia Roenghen), α, β, γ…
- Các sóng điện từ: rada, truyền thanh truyền hình, vô tuyến viễn thông (luyện
kim, sưởi ấm).
- Siêu âm…
1.3.1.3. Tiếng ồn và rung chuyển
- Tiếng ồn là những âm thanh gây nhiễu cảm giác khó chịu, quấy rối sự làm việc
và nghỉ ngơi của con người và tiếng ồn có khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe, gây
điếc cho người lao động khi môi trường lao động phát sinh ra tiếng ồn vượt tiêu
chuẩn cho phép là 85dBA
- Rung chuyển là những dao động của những vật dụng, máy móc, thiết bị nào đó…
Rung chuyển xảy ra rất phổ biến trong sản xuất. Ngày nay máy móc được sử dụng
nhiều nên số người tiếp xúc với rung cũng ngày một tăng. Các máy móc gây rung
với các tần số khác nhau, biên độ khác nhau, gia tốc khác nhau sẽ gây hại cho cơ
thể một cách toàn thân hay cục bộ.
1.3.1.4. Chiếu sáng không hợp lý
Chiếu sáng không hợp lý tại nơi làm việc nghĩa là ánh sáng không đạt tiêu chuẩn,
chất lượng ánh sáng kém…khi đó mắt phải điều tiết nhiều trở nên mệt mỏi, trình
trạng mắt bị mệt mỏi kéo dài sẽ gây ra căng thẳng làm chậm phản xạ thần kinh,
khả năng phân biệt của mắt đối với sự vật dần dần giảm sút, làm khả năng tập
trung giảm. Khi đó khả năng xảy ra tai nạn lao động cao.
1.3.2. Các yếu tố hóa học:
1.3.2.1. Bụi trong sản xuất.
Bụi là những hại nhỏ của vật chất rắn, kích thước thay đổi từ trên 0,001 µm đến
hàng trăm micromet, chúng tập hợp hoặc rải rác trong môi trường, là tác hại phổ
biến nhất trong các tác hại nghề nghiệp của môi trường không những bởi tính độc
hại của nó mà còn là do chúng rất phổ biến, có mặt ở mọi nơi, mọi chỗ trong môi

trường lao động, môi trường sống.
1.3.2.2. Các chất độc, hơi khí độc.
Chất độc, hơi khí độc là khả năng gây độc của một số chất khi xâm nhập vào cơ
thể được xác định bằng tính độc.
Ngày nay, do sản xuất phát triển nên các chất độc hại được đưa vào quy trình sản
xuất càng tăng về số lượng và chủng loại, người tiếp xúc và bị nhiễu độc ngày
càng nhiều và càng phức tạp về lâm sàng, khó phòng bị.
Theo Volcova Z.A (1977), nguyên nhân của các nhiễm độc trong sản xuất
thường gặp là: 40% do vi phạm luật an toàn vệ sinh lao động, 22% do các biết
pháp kỹ thuật chưa đảm bảo và vi phạm quy trình công nghệ, 15% do thiếu hoặc
hiệu lực kém của hệ thống thông gió thải độc, 12% do bảo hộ lao động kém, 11%
là các nguyên nhân khác.
1.3.3. Các yếu tố sinh học:
Đó là virút, vi khuẩn, kí sinh trùng, nấm mốc gây bệnh do điều kiện ăn ở quá
chật chội, thiếu nước sạch trong sản xuất và sinh hoạt, thiếu sự chăm sóc y tế.
Ngoài ra, còn có các bệnh từ gia súc truyền sang cho người, bệnh do súc vật hoang
dại truyền sang, bị cắn , bị đốt…
1.3.4. Yếu tố tâm, sinh lý lao động:
1.3.4.1. Biến đổi sinh lý các hệ thống cơ quan của cơ thể trong quá trình. Đó là sự
biến đổi nhịp tim khi cường độ lao động làm việc nhanh, căng thẳng thì các tế bào
trong cơ thể hoạt động mạnh khi đó nhu cầu lấy oxi của phổi cao và tim đập nhanh
để lấy oxi đủ cung cấp cho cơ thể hoạt động. Làm tăng mức tiêu hao năng lượng
của cơ thể. Có thể khi làm việc quá căng thẳng thì sẽ ảnh hưởng đến hệ thần kinh
gây strees nghề nghiệp.
1.3.4.2. Tư thế bắt buộc trong lao động
Tư thế bắt buộc trong lao động là tư thế lao động mà người lao động phải cố gắng
duy trì, giữ mãi một tư thế mới đảm bảo đươc quy trình sản xuất. Có thể là những
tư thế làm việc gò bó không thoải mái là tư thế đứng, ngồi quá lâu, khom lưng,
vặn mình hay công việc làm cho cơ thể chịu đựng quá tải và các dụng cụ sản xuất
không phù hợp với cơ thể với hình dạng, trọng lượng, kích thước… có thể sẽ đè

lên bộ phận của cơ thể khi làm việc thường xuyên và lâu dài.
1.3.4.3. Mệt mỏi trong lao động
Mệt mỏi là trạng thái phức tạp của cơ thể xảy ra sau một quả trình lao động biểu
thị bằng sự giảm khả năng lao động và có cảm giác khó chịu. Hay mệt mỏi là do
rối loạn các chức năng điều hòa phối hợp của hệ thần kinh trung ương dẫn đến làm
giảm hoặc ngừng hoạt động của tất cả các hệ thống.
Trước đây người ta chỉ biết đến mệt mỏi cơ bắp, ngày nay chia mệt mỏi ra làm
nhiều loại:
- Mệt mỏi thể lực chung gây ra bởi sự căng thẳng của toàn bộ cơ thể, mức chịu tải
của cơ bắp.
- Mệt mỏi thần kinh gây ra bởi sự căng thẳng của chức năng thần kinh vận động.
- Mệt mỏi tâm lý gây ra bởi lao động trí óc.
- Mệt mỏi mắt gây ra bởi sự căng thẳng của cơ quan thị giác.
- Mệt mỏi gây ra bởi công việc đơn điệu hoặc ảnh hưởng của môi trường.
- Mệt mỏi mãn tính gây ra bởi nguyên nhân khác nhau và kéo dài.
1.3.5. Yếu tố tâm lý xã hội:
- Tâm lý, tình cảm của người lao động trong mối quan hệ gia đình, xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng đến đời sống người lao động.
- Sự cố bất ngờ xảy ra đối với người lao động.
- Thời tiết, khí hậu chung.
- Tài chính bản thân, gia đình người lao động.
1.4. Đánh giá điều kiện lao động:
Để đánh giá điều kiện lao động chúng ta dựa vào bản Hệ thống chỉ tiêu về điều
kiện lao động (gồm 22 yếu tố)
- Đánh giá mức độ khắc nghiệt tác động đồng thời của nhiều yếu tố điều kiện lao
động bằng 3 công thức sau:
• Công thức của Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội của Việt Nam:
21.172.1
2
++−= XXy

Phân loại lao
động theo
mức độ
tác động tổng
hợp các yếu tố
điều kiện lao
động
I II III IV V VI
Giá trị theo y <18 ≥18 - 34 >34 - 46 >46 - 55 >55 - 59 >59
• Công thức của Viện khoa học Liên Xô
2
6.17.19 XXy −=
Phân loại lao
động theo
mức độ
tác động tổng
hợp các yếu tố
điều kiện lao
động
I II III IV V VI
Giá trị theo y <18 18.1 - 33 33.1 - 45 45.1 - 53 53.1 -58.5 58.6 - 60
Hai công thức trên tính mức độ khắc nghiệt tác động đồng thời của nhiều yếu tố
điều kiện lao động bằng giá trị trung bình.
• Công thức Pukhov
10
6)1(
6
1
1
0

0








+=


=
n
i
i
n
x
xxy
Phân loại lao
động theo
mức độ
tác động tổng
hợp các yếu tố
điều kiện lao
động
I II III IV V VI
Giá trị theo y <18 19 - 33 34 - 45 46 – 53 54 - 58 59 - 60
Công thức Pukhov tính mức độ khắc nghiệt tổng hợp của các yếu tố điều kiện lao
động theo yếu tố điều kiện khắc nghiệt trội, lớn nhất.

- Loại I: Giá trị của y < 18 là loại lao động nhẹ nhàng, thoải mái.
- Loại II: 18 ≤ y ≤ 34, loại lao động không căng thẳng, không độc hại, song phải
cố gắng hơn loại I. Trạng thái chức năng cơ thể ở mức bình thường.
- Loại III: 34 ≤ y ≤ 46 là loại lao động có yếu tố điều kiện lao động trên tiêu chuẩn
cho phép và trạng thái cơ thể ở mức thấp nhất của ngưỡng giới hạn. Các biến đổi
tâm sinh lý sau lao động, phục hồi nhanh, sức khỏe không bị ảnh hưởng đáng kể.
- Loại IV: 46 < y ≤ 55 là loại lao động có yếu tố điều kiện lao động vượt tiêu
chuẩn vệ sinh cho phép nhiều lần, và trạng thái chức năng cơ thể ở mức cao của
ngưỡng giới hạn. Khả năng làm việc của người lao động bị hạn chế vào nửa sau
của ca, tuần làm việc. Sức khỏe có thể bị giảm sút sau nhiều năm làm việc trong
nghề.
- Loại V: 55 < y ≤ 59 là loại lao động có yếu tố điều kiện lao động vượt tiêu chuẩn
vệ sinh cho phép rất nhiều lần. Trạng thái chức năng cơ thể ở ngưỡng thấp của
bệnh lý. Làm việc liên tục, kéo dài sẽ dẫn tới tiền bệnh lý. Công việc đòi hỏi người
lao động có sức khỏe tốt, song cũng cần có chế độ bảo hộ lao động tốt, và thời
gian làm việc, nghỉ ngơi hợp lý trong ca.
- Loại VI: y > 59 là loại lao động rất nặng nhọc, độc hại và rất căng thẳng thần
kinh tâm lý, xúc cảm. Khả năng làm việc của người lao động giảm sút ngay từ nửa
đầu của ca, tuần làm việc. Trạng thái chức năng của cơ thể ở mức cao của ngưỡng
bệnh lý. Lao động đòi hỏi phải có sức khỏe thật tốt, thực hiện chế độ bảo hộ lao
động nghiêm ngặt, đồng thời phải giảm giờ làm việc và có chế độ nghỉ ngơi hợp lý
mới tránh được các tai biến về bệnh tật và giảm tỉ lệ tai nạn lao động.
Trên cơ sở này có thể xác định được loại lao động nào là lao động độc hại ở các
ngành sản xuất khác nhau.
Không dừng lại ở phương pháp đánh giá về lượng mức độ khắc nghiệt của điều
kiện lao động, Viện khoa học lao động Liên Xô còn tiến hành xây dựng biện pháp
đánh giá khả năng lao động và năng xuất lao động phụ thuộc vào độ khắc nghiệt
của điều kiện lao động .
Khả năng lao động được tính bằng công thức sau:
KNLĐ = 100 – (

64,0
6,15−y
)
Trong đó:
- y: mức độ khắc nghiệt lao động tổng hợp của các yếu tố điều kiện lao động.
- 15,6 và 0,64 là hệ số hiệu chỉnh.
Năng suất lao động được tính theo công thức:
NSLĐ = (
1
1
2

KNLĐ
KNLĐ
)
×
0,2
×
100%
Trong đó:
- KNLĐ
2
là khả năng lao động sau khi đã thực hiện biện pháp cải thiện điều
kiện lao động.
- KNLĐ
1
là khả năng lao động trước khi thực hiện biện pháp cải thiện điều
kiện lao động.
- 0,2 là hệ số hiệu chỉnh.
Chương 2

THỰC TRẠNG VỀ ĐIỀU KIỆN LAO ĐỘNG NGÀNH XÂY DỰNG
2.1. Đặc thù của ngành xây dựng
Lao động trong ngành xây dựng có đặc thù: Công việc thường được tiến hành
ngoài trời, trên cao, dưới sâu, sản phẩm đa dạng, phức tạp, các sản phẩm làm ra
không giống nhau hoàn toàn từ quy trình công nghệ đến hình dáng, địa bàn lao
động luôn thay đổi, do đó điều kiện lao động của công nhân hết sức đa dạng, phức
tạp và có những đặc điểm sau:
- Chỗ làm việc của công nhân luôn thay đổi ngay trong phạm vi một công trình,
phụ thuộc vào tiến độ xây dựng, do đó điều kiện lao động cũng thay đổi theo.
- Trong ngành xây dựng có nhiều nghề, nhiều công việc nặng nhọc (như thi công
đất, bê tông, vận chuyển vật liệu ), mức độ cơ giới hóa thi công còn thấp nên
phần lớn công việc và công nhân phải làm thủ công, tốn nhiều công sức và năng
suất lao động thấp, yếu tố rủi ro còn nhiều.
- Có nhiều công việc buộc người công nhân phải làm việc ở tư thế gò bó như
khom lưng, ngửa mặt, quỳ gối, nằm ngửa, nhiều công việc phải làm ở trên cao,
những vị trí cheo leo chỗ chênh vênh nguy hiểm, lại có những việc làm ở dưới
nước hoặc ở sâu trong lòng đất (thăm dò địa chất, thi công giếng chìm, công trình
ngầm, nạo vét bùn cống ngầm) nên có nhiều nguy cơ tai nạn.
- Nhiều công việc tiến hành trong môi trường độc hại, ô nhiễm (bụi, hơi, khí độc,
tiếng ồn ) nhiều công việc thực hiện ở ngoài trời, chịu ảnh hưởng xấu của khí
hậu, thời tiết như nắng gắt, mưa gió làm ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người lao
động, năng suất lao động giảm.
- Do địa bàn luôn thay đổi nên điều kiện ăn ở, sinh hoạt khó khăn, thường là tạm
bợ, công tác vệ sinh lao động chưa được quan tâm đúng mức. Chính những yếu tố
đó cũng là những nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp gây ốm đau, bệnh tật và tai
nạn cho người lao động.
- Người lao động chưa được đào tạo một cách có hệ thống nên trong xử lý công
việc, xử lý tình huống còn lúng túng, thậm chí thao tác sai dẫn đến tai nạn lao
động.
Qua phân tích như trên ta thấy rằng điều kiện lao động trong ngành xây dựng có

nhiều khó khăn phức tạp, nguy hiểm và độc hại, cho nên phải hết sức quan tâm
đến cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động trong quá
trình lao động.
2.2. Thực trạng về điều kiện lao động của ngành xây dựng
2.2.1. Thực trạng về điều kiện lao động của ngành xây dựng
Ngành Xây dựng là ngành sử dụng nhiều lao động, chiếm từ 9
÷
12%, có khi tới
20% lực lượng lao động của mỗi quốc gia. Hiện nay, lực lượng lao động trong
ngành khoảng 1,3 triệu người. Người công nhân lao động phải làm việc trong điều
kiện lao động phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố có hại và nguy cơ mất an toàn dẫn
đến tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Năm 2008, Bệnh viện Xây dựng đã tiến hành đo kiểm 13.828 mẫu về môi trường
lao động, nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió, ánh sáng, bụi, tiếng ồn, độ rung, hơi, khí
độc, phóng xạ và từ trường tại 41 cơ sở. Kết quả kiểm tra cho thấy tuy môi trường
lao động được chuyên môn và Công đoàn các cấp quan tâm đầu tư khắc phục
nhằm từng bước cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động, nhưng vẫn còn
9,84% số mẫu không đạt tiêu chuẩn cho phép (năm 2007 là 13,1%).
Một số điều kiện làm việc như nhiệt độ, bụi, tiếng ồn số mẫu không đạt tiêu chuẩn
vẫn chiếm tỉ lệ cao. Bệnh viện cũng đã khám, phát hiện bệnh nghề nghiệp cho
1.690 lượt người, trong đó 11 trường hợp mắc bệnh điếc do tiếng ồn.
Ngoài điều kiện làm việc và môi trường lao động chưa đạt chuẩn theo quy định,
thì thiết bị, máy móc, công cụ lao động không đảm bảo an toàn vẫn đưa vào sử
dụng và người lao động không được trang bị đầy đủ các phương tiện bảo vệ cá
nhân trong lao động sản xuất. Đây đều là những nguyên nhân dẫn đến tai nạn lao
động và bệnh tật, bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
Theo báo cáo của các đơn vị trực thuộc Bộ xây dựng, năm 2008 đã xảy ra 167 vụ
tai nạn lao động, trong đó 15 vụ tai nạn lao động chết người làm 21 người chết. Vụ
tai nạn lao động chết người nghiêm trọng nhất xảy ra ngày 15.7.2008 tại cảng Cái
Lân-Quảng Ninh, làm 7 công nhân lao động của công ty CP Lilama bị chết và 1

người bị thương nặng.
2.2.2. Thực trạng về điều kiện lao động của công ty
Tổng công ty Xây Dựng Số I là một công ty xây dựng lớn, chuyên thầu những
công trình mang tính kinh tế và xã hội cao. Do đó họ sử dụng nhiều lực lượng lao
động, tại mỗi công trình xây dựng lực lượng có thể lên đến 200- 500 người. Do
tính chất của công việc là xây dựng các công trình, địa bàn thi công trải rộng trên
toàn quốc nên người công nhân lao động phải làm việc trong một môi trường khá
khắc nghiệt và phức tạp hơn. Với tính đa dạng của ngành nghề, nhiều công việc có
mức cơ giới hoá thấp (làm đất, đổ bê tông, vận chuyển ), tốn nhiều công sức mà
năng suất lao động thấp. Nhiều công việc công nhân phải thao tác trong tư thế gò
bó như khom lưng, ngửa mặt, quỳ gối, nằm ngửa, làm việc ở trên cao, làm việc ở
những vị trí cheo leo, hầm hố hoặc ở sâu trong lòng đất (thăm dò địa chất, thi
công giếng chìm, công trình ngầm, nạo vét bùn cống ngầm ). Tác động của các
vùng khí hậu khác nhau cũng ảnh hưởng lớn đến tâm lý và sức khoẻ của người lao
động nhiều người phải làm việc ở ngoài trời, trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt
(trời nắng gắt, mưa dầm, gió bấc, lốc bão ), môi trường làm việc độc hại, nhiều
bụi khoáng sản (bụi đá, bụi xi măng, bụi than, cát, mạt sắt…), tiếng ồn, rung được
phát sinh ra từ những máy chạy động cơ, máy cắt kim loại, máy xay, nghiền nát
vật liệu, giao thông chuyên chở… đã vượt quá tiêu chuẩn nhiều lần. Điều thấy
nhiều nhất ở các công trường xây dựng là sử dụng tấm chắn để đề phòng vật rơi từ
trên cao xuống, cách ly các yếu tố có hại phát tán ra môi trường xung quanh nhưng
đa số chỉ mang tính hình thức không bảo đảm an toàn. Tuy nhiên, là một công ty
xây dựng lớn nên trong những khâu lắp ráp, công ty đã áp dụng các công nghệ
mới với thiết bị hiện đại có tính năng tự động hoá và năng suất lao động rất cao.
Việc sử dụng các loại cần cẩu tháp, cần trục, máy nâng hạ trong thi công nhà cao
tầng, giàn giáo thép… đã góp phần đáng kể giảm nhẹ sức lao động và đảm bảo an
toàn cho người lao động, bên cạnh đó do tính chất đặt biệt của ngành nên một số
công việc vẫn làm thủ công (công tác làm đất, xây tô, đổ dầm bê tông) phần lớn
các công việc làm thủ công tốn nhiều sức lực và yếu tố gây chấn thương cao.
Ngoài ra, đa số những người công nhân lao động trong công trường xây dựng là

những người lao động nông nhàn, công nhân chưa được đào tạo một cách có hệ
thống nên không có trình độ chuyên môn, trình độ nghiệp vụ để thực hiện công
việc còn thấp, kiến thức về xây dựng chủ yếu được thu gom trong thực tế công
việc, chủ yếu học hỏi qua người khác để nâng cao trình độ tay nghề và khi trình độ
tay nghề lên thì đồng nghĩa với việc được tăng lương. Do đó, khi tiếp xúc với các
thiết bị công nghệ hiện đại, các công trình phức tạp thường lúng túng khi thao tác,
năng suất lao động không cao, chất lượng lao động bị hạn chế và dễ gây tai nạn
lao động. Ngoài ra việc người công nhân lao động khi sử dụng các phương tiện
bảo vệ cá nhân chỉ mang hình thức, sử dụng đai an toàn không đúng cách, móc đai
không đúng điểm cố định, đai không chất lượng khi làm việc trên cao, không đội
nón bảo hộ, găng tay…Như vậy từ việc đào tạo không có hệ thống và cách làm
cẩu thả cùng với cách nhìn nhận về vấn đề an toàn cho mình và cho người khác
không cao nên nguy cơ xảy ra tai nạn là có thể tại công trường.
2.2.3. Quy trình làm việc tại công trường (các công đoạn thi công)
San ủi mặt bằng
Copfa, cốt thép
Lắp dựng cốt thép, đổ sàn
Đổ bê tông sàn, cột
Làm móng, tầng hầm
Sơ đồ2: Các công đoạn thi công tại công trường
Xây tô
Hoàn thiện công trình
Lắp đặt cửa, điện nước
Chương 3
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ KHẮC NGHIỆT CỦA ĐIỀU KIỆN LAO ĐỘNG
ĐẾN SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
3.1. Đánh giá vệ sinh lao động tại công trường xây dựng của công ty
Để có thể đánh giá điều kiện vệ sinh lao động tại một công trường xây dựng nhất
định, thì trước hết phải giám sát môi trường lao động tại đó. Vì giám sát môi
trường lao động là phải xác định cho được mức độ các yếu tố lý hóa của môi

trường lao động và các điều kiện tiếp xúc nghề nghiệp của người lao động. Dùng
dụng cụ kỹ thuật để đo đạc môi trường và kết quả đo được:
3.1.1. Kết quả đo đạc tại một vị trí làm việc (trên giàn giáo) trong công đoạn
xây tô
Yếu tố Tiêu chuẩn cho phép Kết quả đo
Nhiệt độ (
0
C) ≤ 32
0
C 37
0
C
Độ ẩm (%) 75-85% 47%
Bức xạ nhiệt (cal/cm
2
/phút) ≤ 1 cal/cm
2
/phút 2 cal/cm
2
/phút
Tốc độ gió (m/s) ≤ 2 m/s 2 m/s
Tiếng ồn (dBA) ≤ 85 dBA 90 dBA
Bụi toàn phần (mg/m
3
)

6 mg/m
3
60 mg/m
3

Nhịp điệu cử động, số lượng thao
tác trong 1 giờ
Lớp chuyển động của
cánh tay

500 lần/h
600 lần/h
Vị trí, tư thế lao động khi làm
việc trên cao

5m
20m, treo người
trên dây
3.1.2. Đánh giá nhận xét kết quả đo đạc
Từ bảng kết quả đo đạc môi trường ta nhận thấy
- Nhiệt độ: Kết quả đo được tại một vị trí lao động (giàn giáo) trên công trường là
37
0
C, cao hơn tiêu chuẩn cho phép của bộ y tế quy định là 5
0
C. Vì do tính chất làm
việc ngoài trời nên người công nhân lao động chịu ảnh hưởng trực tiếp của ánh
nắng mặt trời, chủ yếu là trong quá trình lao động sản xuất và từ thân nhiệt của
người lao động. Hơn thế nữa do sự biến đổi khí hậu toàn cầu, sự nóng lên của trái
đất góp phần làm cho môi trường lao động của người công nhân luôn nóng bức
với nhiệt độ luôn lớn hơn 35
0
C vào mùa khô. Nhiệt độ cao ảnh hưởng đến sức
khỏe của người công nhân làm cho người công nhân luôn mệt mỏi, mất nhiều mồ
hôi, mất nước, muối gây nên các bệnh về tim mạch, hô hấp, thay đổi chức năng

thận, tiêu hóa, ức chế hoạt động thần kinh, nếu nắng nóng gay gắt, người công
nhân sẽ say nắng, nóng…Do đó thao tác dễ bị lỗi, động tác không chính xác nên
rất nguy hiểm ví chúng là nguyên nhân gây ra tai nạn lao động.
- Độ ẩm: độ ẩm không khí là lượng hơi nước có trong không khí. Kết quả đo độ
ẩm tại nơi làm việc của công nhân là thấp, chỉ 45-47%, dưới mức tiêu chuẩn cho
phép. Khi nhiệt độ cao thì hơi nước trong môi trường làm việc cũng sẽ bị bố hơi
hay khô, gây cảm giác khó chịu cho người lao động.
- Bức xạ nhiệt mặt trời: Ánh sáng mặt trời mang theo các tia bức xạ nhiệt, tia hồng
ngoại, tia cực tím… chiếu thẳng trực tiếp đến người công nhân lao động và các vật
thể trên công trường. Các vật thể này nóng lên và chiếu vào người công nhân góp
phần làm tăng nhiệt độ của cơ thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe người công nhân
lao động. Bức xạ nhiệt đo tại một vị trí của môi trường lao động là 2 cal/cm
2
/ phút
cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn cho phép.
- Tốc độ gió: Tuy phải làm việc trong một môi trường nắng nóng nhưng là làm
việc ngoài trời nên người công nhân lao động chịu ảnh hưởng của sự vận chuyển
tốc độ gió trong không khí. Do đó người công nhân thỉnh thoảng cảm thấy mát vì
gió có tác dụng làm tăng quá trình trao đổi nhiệt giữa cơ thể và môi trường xung
quanh làm thay đổi nhanh lớp không khí bao quanh da cơ thể tạo ra cảm giác mát.
Gió làm tăng khả năng bốc hơi của mồ hôi, lấy đi nhiệt của cơ thể, làm mát cơ thể
công nhân. Mặt khác nếu gió thổi mạnh sẽ gây khô da, ảnh hưởng đến sức khỏe và
hệ thần kinh…Bởi vì hiện nay môi trường không khí bị ô nhiễm nên gió có thể
mang theo bụi, khí độc bám vào da, làm ảnh hưởng đến da, tiếp xúc các bộ phận
khác của cơ thể có thể gây bệnh. Với tốc độ gió đo được tại nơi làm việc là 2m/s
thì không ảnh hưởng đến điều kiện và vệ sinh lao động tại công trường vì đạt tiêu
chuẩn vệ sinh cho phép.
- Bụi tổng hợp: Luôn phát sinh trong quá trình lao động sản xuất, sự vận chuyển
nguyên vật liệu, sự vận chuyển bằng động cơ , xe tải, sự đào xới, ủi, sự nghiền nát
vật liệu, cắt kim loại, pha trộn hồ, giũ bao xi măng, cát, chàm nhám bề mặt

tường… Đặt biệt trong ngành xây dựng bụi luôn là một yếu tố độc hại cao vì là bụi
khoáng (bụi đá, bụi xi măng, bụi amiăng. bụi than, cát, đất, bụi kim loại và độc
nhất là %SO
2
có trong bụi phát sinh trong quá trình thi công…). Tại công trường
bụi phát sinh và phát tán trong quá trình làm việc như sàn cát, trút xi măng, bởi
máy cắt đá, gạch men, di chuyển vật liệu, làm sạch bề mặt sắt còn gọi là bụi sơ
cấp. Nhưng khi nó có trạng thái khô và dưới tác dụng của gió, của việc chà nhám
và quét dọn vệ sinh, từ đó hình thành bụi thứ cấp nên khi người công nhân lao
động làm việc trong môi trường bụi sau một thời gian thì sẽ ảnh hưởng đến hệ hô
hấp và nặng thì có thể gây bệnh nghề nghiệp bệnh bụi phối silic, amiang… Ngoài
ra cũng gây ra một số bệnh khác như viêm mũi, viêm họng, viêm phế quản và bụi
có thể gây cháy nổ, mài mòn thiết bị sản xuất với số lượng bụi phát sinh ra nhiều,
và kết quả đo được tại nơi làm việc của công nhân là 60 mg/m
3
vượt tiêu chuẩn
cho phép rất nhiều lần.
- Tiếng ồn: Công trường xây dựng là nơi tập trung các loại máy móc thiết bị phục
vụ cho công tác thi công. Do đó nguyên nhân gây ồn là từ các thiết bị máy móc
hay là sự pha trộn từ những máy khoang, chất gây nổ để phá dỡ công trình cũ,
tiếng làm việc của những máy cẩu, động cơ, xe chuyên chở, tiếng đập vào nhau
của kim loại, máy hàn, máy trộn bê tông… gây ồn cục bộ và phát tán ra môi
trường xung quanh. Gây ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động có thể gây ra tổn
thương thính giác, điếc nghề nghiệp, gây cảm giác khó chịu cho sự sinh hoạt và
nghỉ ngơi của dân cư vùng lân cận. Kết quả đo được 90dBA cao hơn tiêu chuẩn
cho phép 5dBA
- Vị trí, tư thế lao động: đa dạng, có thể đi lại nhiều, đứng lâu, khom cúi để mang
vác đá gạc, vật liệu xây dựng… nhiều lần trong ca làm việc, làm việc trên cao
bằng dây đai, đứng trên máy nâng giàn, đứng trên giàn giáo, ở những vị trí cheo
leo không có tay vịnh, lang cang bảo vệ…Nói chung nếu không có đầy đủ các

phương tiện an toàn hay phương tiện chỉ là hình thức, người công nhân cảm thấy
bị vướng khi làm việc và làm việc với tư thế bắt buộc quá lâu thì sẽ ảnh hưởng đến
sức khỏe người công nhân, có thể gây nguy hiểm dẫn đến tai nạn lao động. Khi
làm việc trên giàn giáo, nghĩa là diện tích làm việc hạn chế, phải đứng trên giàn
giáo là vị trí làm việc cao, cheo leo, tư thế lao động bị gò bó, sự đi lại trên giàn
giáo ít an toàn, đứng nhiều gây căng cơ và gây ra mệt mỏi hơn là ngồi vì máu cung
cấp cho não kém; thao tác bị vướng khi hàn hồ quang điện, xây tô, sơn… mà
không có dây đai an toàn , chất lượng hay vị trí móc dây không cố định làm chân
tay làm việc không đúng tư thế, xây tường cao phải bắt thang, ghế trên cao nên rất
nguy hiểm, dễ bị té ngã từ trên cao xuống. Đặt biệt có khả năng sập giàn giáo và
vật rơi đổ xuống dưới gây nguy hiểm cho người lao động và người đứng làm việc
phía dưới.
- Nhịp điệu cử động, số lượng động tác trong 1 giờ của cánh tay, thân người công
nhân lao động là 600 lần/h, vượt tiêu chuẩn cho phép là 100 lần/h. Trong công
đoạn xây tô thì cử động cánh tay nhiều vì phục vụ cho quá trình xây trát, tô sơn
tường. Do đó gây nên mỏi cánh tay, mệt mỏi thân người, cầm dụng cụ xây dựng
không chắc chắn rơi rớt dụng cụ xuống phía dưới gây nguy hiểm.
3.2. Công tác quản lý và chăm sóc sức khỏe người lao động
Công tác quản lý và chăm sóc sức khỏe người lao động là vấn đề hết sức quan
trọng của công ty vì lao động sản xuất luôn luôn xuất hiện các yếu tố nguy hiểm
và có hại cho người lao động. Đặc biệt đối với ngành xây dựng đòi hỏi người lao
động phải có sức khỏe thật tốt, để có thể làm những công việc mang tính đặc thù
riêng củ ngành. Do đó, khám và chữa bệnh định kỳ (1 năm/lần) cho người lao
động để có thể phát hiện sớm và chữa trị kịp thời bệnh và bệnh nghề nghiệp cho
người lao động. Từ đó có thể đảm bảo sức khỏe cho người công nhân lao động.
3.2.1. Bảng kết quả khám sức khỏe định kỳ
Phân loại sức khỏe
Năm 2007
( số công nhân)
Năm 2008

( số công nhân)
Năm 2009
( số công nhân)
Loại I 22% 14% 15%
Loại II 39% 25% 30%
Loại III 24% 35% 29%
Loại IV 15% 22% 21%
Loại V 0 4% 5%
Loại I: rất khỏe Loại II: khỏe Loại III: trung bình
Loại IV: yếu Loại V: rất yếu
3.2.2. Nhận xét kết quả khám sức khỏe
Qua bảng khám sức khỏe định kỳ (1 lần/ năm) trong vòng 3 năm trước
(2007-2009) của công ty ta thấy tình hình sức khỏe của người công nhân lao động
ngày một giảm, suy yếu đi. Tỉ lệ đạt sức khỏe loại I, II ngày càng giảm trong khi
đó tỉ lệ sức khỏe loại IV, V ngày càng tăng. Cho thấy người lao động phải làm
trong điều kiện lao động không mấy thuận lợi, có thể khắc nghiệt. Tuy nhiên có
giảm có tăng (loại I II,III) là bởi vì công ty có thể tuyển dụng thêm một số công
nhân mới thay thế một vài vị trí công việc, hay cho những công nhân có sức khỏe
quá yếu (số công nhân mới này có thể có sức khỏe tốt loại I, II và có thể loại III),
đồng thời công ty có thể thực hiện một vài giải pháp cải thiện điều kiện lao động
nhằm tăng năng suất và cải thiện sức khỏe cho công nhân.
Những người mới tuyển dụng thì sức khỏe tốt nhưng thiếu kinh nghiệm. Ngược lại
công nhân làm việc lâu năm, có nhiều kinh nghiệm thì sức khỏe ngày càng giảm
sút, năng suất lao động cũng giảm theo. Để tăng năng suất, công ty cần quan tâm
nhiều hơn đến vấn đề đầu tư cho công tác vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện làm
việc và huấn luyện công nhân lao động về công việc cần làm, an toàn lao động và
vệ sinh lao động.
3.3. Đánh giá điều kiện lao động tại công trường xây dựng
3.3.1. Tính toán mức độ khắc nghiệt của điều kiện lao động tại công trường.
Bảng kết quả đã đo được điều kiện lao động tại một vị trí trên công trường

Các yếu
tố
Nhiệt
độ(
o
C)
Nhịp điệu
cử động, số
lượng thao
tác /1h
Tiếng
ồn
(dBA)
Vị trí, Tư thế lao
động và đi lại
trong khi làm
việc trên giá cao
Bụi toàn
phần
(mg/m
3
)
Bức xạ
nhiệt
(cal/cm
2
/
phút)
TCCP ≤ 32
0

C

500 lần/h
≤85
dBA
<5m ≤ 6mg/m
3
1cal/cm
2
/
phút
Trên
giàn
giáo
37 600 90
20m, đứng lâu,
tay chân có khi
không đúng vị
trí thuận lợi.
60 2
Số
điểm
4 3 3 5 4 4
Qua bảng đo kết quả điều kiện lao động ta thấy có một điều kiện khắc nghiệt nhất
là yếu tố bụi tại công trường xây dựng. Do đó ta sử dụng công thức Pokhov để
tính toán mức độ khắc nghiệt tổng hợp của các yếu tố điều kiện lao động theo yếu
tố điều kiện khắc nghiệt trội, lớn nhất.
y= [ x
max
+



=
1
1
n
i
i
x
.
)1(6
6
max


n
x
] 10
Trong đó:
y: là mức độ khắc nghiệt tổng hợp các yếu tố điều kiện lao động
x
max
: là yếu tố điều kiện lao động có mức độ khắc nghiệt cao nhất
x
i
: là điểm khắc nghiệt của điều kiện lao động thứ i
n : là số yếu tố điều kiện lao động
Gọi y
1
, y

2
lần lượt là mức độ khắc nghiệt tổng hợp các yếu tố điều kiện lao động
trước khi cải thiện và sau khi cải thiện điều kiện lao động
Thay số điểm vào công thức trên ta có:
y
1
= [ 5+ ( 4+3+3+4+4).
)16(6
56


].10 = 56
3.3.2. Phân loại điều kiện lao động
Ta thấy y
1
=56 và 55 < y
1
≤ 59. Đây là điều kiện lao động loại V, là loại lao động
có yếu tố điều kiện lao động vượt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép rất nhiều lần, làm
việc trong điều kiện khí hậu nóng xấu với nhiệt độ luôn cao hơn tiêu chuẩn cho
phép từ 4 – 5
0
C và lượng bức xạ nhiệt của mặt trời lớn, tiếng ồn, nồng độ bụi cao,
nhịp cử động, số lượng thao tác nhiều,…nhưng khắc nghiệt nhất là vị trí làm việc
trên cao, tư thế lao động không thoải mái, đứng nhiều, đi lại khó khăn. Khi đó
trạng thái chức năng cơ thể ở ngưỡng thấp của bệnh lý. Làm việc liên tục, kéo dài
sẽ dẫn tới tiền bệnh lý. Công việc đòi hỏi người lao động có sức khỏe tốt, song
cũng cần có chế độ bảo hộ lao động tốt, và thời gian làm việc, nghỉ ngơi hợp lý
trong ca.
3.3.3. Cải thiện điều kiện lao động và tính toán mức khắc nghiệt sau khi cải

thiện.
3.3.3.1. Cải thiện điều kiện lao động
- Vị trí, tư thế lao động và đi lại trong khi làm việc trên giàn giáo cao: Do tính chất
của công việc xây tô với công trình nhiều tầng thì phải làm việc tại vị trí trên cao,
đứng trên giàn giáo nhiều là điều bắt buộc. Nhưng để cải thiện vị trí tư thế làm
việc trên cao (giàn giáo) tốt thì trước hết phải thiết kế giàn giáo chuẩn, mức chịu
tải tốt, giàn giáo có tay vịnh, lang cang bảo vệ thiết kế độ cao giàn giáo phù hợp
với chiều cao tường cần xây, để công nhân không với, nên dùng thang chữ A để
đứng xây khi có thể, hay có thể dùng máy nâng người; với những khu vực vị trí
cheo leo thì nên bảo hộ người lao động bằng phương tiện cá nhân phù hợp chất
lượng, dùng dây đai đúng quy định. Tuy tư thế không thoải mái lắm khi làm việc
trên cao nhưng nếu trang bị đầy đủ các phương tiện bảo vệ thì điều kiện lao động
cũng được cải thiện và tuy hơi khó nhưng nên áp dụng ecgonomi để thiết kế nơi
làm việc thoải mái, hợp lý. Cần phải có sự giám sát của kỹ sư kỹ thuật và kỹ sư an
toàn vệ sinh lao động. Và sau đây là một số biện pháp phòng ngừa ngã cao trong
công đoạn xây tô:
+ Trước khi xây tường, phải xem xét tình hình của móng hoặc phần tường đã xây
trước cũng như tình trạng của giàn giáo, đồng thời kiểm tra lại việc sắp xếp bố trí
vật liệu và vị trí công nhân đứng làm việc trên sàn thao tác theo sự hướng dẫn của
cán bộ kỹ thuật giám sát.
+ Khi xây tới độ cao cách sàn 1,5m trở lên thì phải lắp giàn giáo để xây.
+ Vật liệu gạch, vữa chuyển lên sàn thao tác ở độ cao từ 2m trở lên phải dùng các
thiết bị cẩu chuyển, cấm chuyển gạch bằng cách tung lên cao quá 2m.
+ Những lỗ tường ở tầng hai trở lên, nếu người có thể lọt qua được thì phải che
chắn lại.

×