LỜI MỞ ĐẦU
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội, một chế định pháp lý đã xuất hiện từ lâu
trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con
giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi…; dựa trên ý chí chủ
quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi. Nuôi con nuôi thể hiện tính nhân
đạo, nhân văn sâu sắc, tinh thần tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa con người
với con người. Đặc biệt, đối với những trẻ em mồ côi, không ai nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục thì việc nuôi con nuôi được xem là vấn đề cấp thiết, đảm bảo cho hầu hết trẻ
em được nuôi dưỡng giáo dục tốt và được sống trong môi trường gia đình. Chế định
nuôi con nuôi được quy định trong Luật HN và GĐ của nước ta từ năm 1959 đến nay
xuất phát trước tiên vì lợi ích của người con nuôi đồng thời cũng đảm bảo lợi ích của
người nhận nuôi con nuôi (Điều 24 Luật HN và GĐ 1959; Điều 34 Luật HN và GĐ
1986 và Điều 67 Luật HN và GĐ 2000). Tuy nhiên sau bao nhiêu năm, đến Luật HN
và GĐ năm 2000 cũng vẫn còn tồn tại những hạn chế, những thiếu sót khiến cho việc
nhận nuôi con nuôi không đúng với mục đích nhân đạo mà mang những mục đích trục
lợi khác và ngày 17/6/2010 Luật nuôi con nuôi 2010 đã ra đời nhằm khắc phục, hoàn
thiện, thống nhất những hạn chế đó. Vì vậy giữa chế định nuôi con nuôi trong Luật HN
và GĐ năm 2000 và Luật nuôi con nuôi năm 2010 có rất nhiều điểm khác nhau và một
trong những điểm khác nhau mà chúng ta cùng nghiên cứu sau đây chính là về điều
kiện và hậu quả pháp lí của việc nuôi con nuôi.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1. Khái niệm nuôi con nuôi.
Khoản1 Điều 3 LCN 2010 và khoản 1 Điều 67 Luật HN và GĐ 2000 đều quy
định: Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ, con giữa người nhận con nuôi và
người được nhận làm con nuôi. Qua đó ta có thể thấy:
Như vậy là khi xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người
được nhận nuôi, các bên đối xử với nhau như cha mẹ đẻ và con đẻ nhưng các bên
không có quan hệ với nhau về mặt sinh học và huyết thống.
Ở một góc độ khác, việc nuôi con nuôi có thể tồn tại các hình thức như nuôi con
nuôi trên danh nghĩa, nuôi con nuôi trên thực tế, nuôi con nuôi theo phong tục tập
quán…. Quan hệ nuôi con nuôi không đòi hỏi các điều kiện chặt chẽ mà chủ yếu đáp
1
ứng những lợi ích về vật chất và tinh thần. Quan hệ nuôi con nuôi không phải bao giờ
cũng có sự thừa nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong các trường hợp này
vẫn xác lập quan hệ nuôi con nuôi, tuy nhiên, hầu như những quan hệ này không được
pháp luật điều chỉnh.
Mặt khác xét dưới góc độ pháp lý, chỉ khi quan hệ nuôi con nuôi được pháp luật
công nhận thì mới phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của cha mẹ và con giữa các
bên. Nuôi con nuôi là việc dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ
nuôi con nuôi và được sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật.
1.2.Khái niệm chế định nuôi con nuôi.
Chế định nuôi con nuôi là chế định pháp lý bao gồm các quy phạm pháp luật do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh những vấn đề về nuôi
con nuôi như điều kiện nuôi con nuôi, thực hiện, chấm dứt việc nuôi con nuôi, quyền
và nghĩa vụ của các bên chủ thể có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi, bao gồm cả
các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.3. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi
Về mặt xã hội, nuôi con nuôi thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, tinh thần
tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con người. Việc nhận nuôi
con nuôi phản ánh phong tục, tập quán, những giá trị nhân văn của truyền thống tốt đẹp
của dân tộc.
Đối với Nhà nứơc việc nhận nuôi con nuôi làm giảm gánh nặng của nhà nước
trước tình trạng trẻ em không nơi nương tựa, không nguồn nuôi dưỡng phải lang thang
tự đi kiếm sống, hạn chế khả năng trẻ em lao vào con đường con đường xấu dẫn đến
những hành vi vi phạm pháp luật hay mắc các tệ nạn xã hội do thiếu sự quan tâm, giáo
dục.
Về mặt pháp lí, nhận nuôi con nuôi và nhận nuôi con nuôi là một quyền tự do nhân
thân của các cá nhân được pháp luật công nhận và bảo hộ. Nuôi con nuôi không chỉ là
biện pháp tốt nhất, phù hợp và có lợi ích với trẻ em mà còn là cách thực hiện hợp pháp
quyền làm cha mẹ của cá nhân.
2. Sự khác nhau về điều kiện và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi giữa
luật nuôi con nuôi và chế định nuôi con nuôi trong luật Hôn nhân và gia
đình 2000
2.1. Điều kiện của việc nuôi con nuôi
2
2.1.1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi.
Trước hết, Luật NCN đã thống nhất các điều kiện của người được nhận làm con
nuôi trong nước và nước và nước ngoài, vì vậy điều kiện của người được nhận làm con
nuôi trong nước và ngoài nước như nhau. Theo quy định thì ngoài việc đáp ứng những
điều kiện nuôi con nuôi trong nước, Điều 1 Nghị định 69/2006/ NĐ- CP còn quy định
thêm các điều kiện cho trẻ em được nhận làm con nuôi nước ngoài. Luật NCN đã quy
định chung điều kiện của người được nhận làm con nuôi tại điều 8, không phân biệt
nuôi trong nước hay nuôi con nuôi có yếu tố nứơc ngoài. Vì vậy sự khác nhau cơ bản
giữa Luật NCN và Luật HN&GĐ về vấn đề này ở một số điểm sau:
Thứ nhất, theo Khoản 1 Điều 68 Luật HN và GĐ năm 2000 quy định “ người được
nhận làm con nuôi phải là người từ 15 tuổi trở xuống” còn Luật NCN lại quy định tại
Khoản 1 Điều 8 về độ tuổi của ngươì được nhận làm con nuôi là “ Trẻ em dưới 16
tuổi”.
Tại sao lại có sự khác biệt này? Đó là bởi vấn đề về độ tuổi của người được nhận
làm con nuôi, với mục đích chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em được nhận làm
con nuôi trong môi trường gia đình nên độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi
trong Luật NCN có quan hệ và gắn bó mật thiết với độ tuổi được coi là trẻ em trong
Luật chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Vì vậy, Luật NCN tăng độ tuổi của người
được làm con nuôi thành “dưới 16 tuổi”( Điều 8 Khoản 1), nhằm phù hợp với độ tuổi
của trẻ em được quy định trong Luật Chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em năm 2005
(theo điều 1, trẻ em theo quy định của luật này là công dân Việt Nam từ 16 tuổi trở
xuống). Như vậy, trừ các trường hợp ngoại lệ được quy định tại khoản 2 điều 8, đối
tượng điều chỉnh chủ yếu của Luật này chính là trẻ em, quy định này phù hợp với mục
đích nuôi con nuôi. Quy định này nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp
luật trong nước đồng thời vẫn đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh cam kết quốc tế với
trường hợp người nước ngoài nhận nuôi.
Thứ hai, theo Khoản 1 Điều 68 Luật HN và GĐ năm 2000 quy định: Người trên 15
tuổi có thể đựơc nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng
lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi người già yếu cô đơn. Còn tại Khoản 2 Điều 8
Luật NCN lại quy định trường hợp ngoại lệ về độ tuổi người được nhận làm con nuôi
là người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu được cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú,
bác ruột nhận làm con nuôi.
Ở đây có 2 sự khác nhau, đó là:
3
+ Luật NCN không quy định vấn đề “được nhận làm con nuôi nếu là thương binh,
người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi người già yếu cô
đơn”. Vì những trường hợp này chỉ là quan hệ vì mục đích chăm sóc, phụng dưỡng.
Việc loại bỏ các trường hợp này phù hợp với mục đích và nguyên tắc nuôi con nuôi là
để tìm mái ấm gia đình cho trẻ em, bảo đảm cho trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục trong môi trường gia đình; còn công tác đảm bảo cuộc sống cho thương binh,
người tàn tật, người già yếu cô đơn sẽ do pháp luật về an sinh xã hội điều chỉnh.
+ Phần lớn những người ở độ tuổi từ 16 đến 18 chưa thể tự nuôi sống bản thân, tâm
sinh lí cũng chưa phát triển hoàn thiện. Vì vậy pháp luật quy định người ở độ tuổi này
có thể được cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi để
đảm bảo tính nhân đạo của việc nuôi con nuôi. Hiện nay có tương đối nhiều hồ sơ xin
nhận trẻ em là con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi. Việc giải quyết cho trẻ em
làm con nuôi của người cha dượng hoặc mẹ kế nhằm đảm bảo cho trẻ em được hưởng
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái khi trẻ em có cha mẹ kết hôn với
người nước ngoài và người cha, người mẹ kế của trẻ em muốn nhận trẻ em đó làm con
nuôi.
Thứ ba, theo khoản 2 điều 68 Luật HN và GĐ năm 2000: “ Một người chỉ có thể
làm con nuôi một người hoặc của cả hai vợ chồng” còn tại khoản 3 Điều 8, Luật NCN
năm 2010 lại quy định: “ một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân
hoặc của cả hai người là vợ chồng”. Quy định của luật HN và GĐ chưa làm rõ vấn đề
một người đã có vợ hoặc chồng có được phép nhận con nuôi riêng hay không. Luật
NCN đã có sự thay đổi, hiểu theo quy định của khoản 3 điều 8, luật chỉ cho phép một
người độc thân hoặc cả hai vợ chồng nhận con nuôi. Như vậy, Luật NCN không cho
phép người đã có vợ hoặc chồng nhận con nuôi riêng, việc nhận con nuôi cần có sự
thống nhất của cả hai vợ chồng. Đây cũng là một điều luật nhằm đảm bảo cho trẻ được
cho làm con nuôi có một môi trường gia đình trọn vẹn, có sự yêu thương của tất cả các
thành viên trong gia đình.
2.1.2. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi.
* Trường hợp nuôi con nuôi trong nước:
Cũng giống như quy định theo Luật HN và GĐ năm 2000, Luật NCN tiếp tục kế
thừa một số điều kiện của người nhận con nuôi như: có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ, hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên, có tư cách đạo đức tốt…
4
Thứ nhất, “ điều kiện thực tế” để nuôi con nuôi trong Luật HN và GĐ được bổ
sung trong quy định tại điểm c khoản 1 điều 14 Luật NCN năm 2010 là điều kiện về
sức khoẻ, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Như
vậy, so với Luật HN và GĐ năm 2000 thì Luật NCN năm 2010 đã có quy định cụ thể
rõ ràng hơn về vấn đề này. Quy định này tạo sự thuận lợi cho những người có thẩm
quyền trong việc xem xét điều kiện của người nhận nuôi, từ đó đưa ra các quyết định
hợp lí để công nhận hay không công nhận việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi.
Theo khoản 3 điều 14 Luật NCN 2010, đối với trường hợp cha dượng nhận con
riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng hoặc cô, cậu, dì, chú, bác nhận cháu làm
con nuôi thì không áp dụng theo quy định điều kiện hơn con nuôi 20 tuổi trở lên và
điều kiện về sức khoẻ, kinh tế, chỗ ở đảm bảo cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con nuôi. Sự điều chỉnh này của pháp luật là hợp lí, bởi nếu cha dượng, mẹ kế muốn
nhận con riêng của vợ hoặc chồng mà không đáp ứng đủ điều kiện trên thì sẽ ngăn cản
việc trẻ em có một gia đình trọn vẹn. Như vậy, quy định này nhằm đảm bảo cho con
nuôi được sống trong môi trường gia đình với những người thân thuộc dù người nhận
nuôi là cha dượng, mẹ kế, cô, dì, chú, bác ruột không có đủ điều kiện kinh tế, chỗ ở,
sức khoẻ hoặc điều kiện về khoảng cách độ tuổi.
Thứ hai, Luật NCN năm 2010 quy định rõ cấm ông bà nhận cháu làm con nuôi,
hoặc anh chị em nhận nhau làm con nuôi, tránh sự đảo lộn các thứ bậc trong gia đình
(Điều 13). Ở đây cần phân biệt rõ việc nuôi con nuôi với việc nuôi dưỡng. Việc nuôi
con nuôi phải làm phát sinh mối quan hệ cha mẹ và con; còn việc nuôi dưỡng chỉ là
nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình. Trường hợp cha mẹ bị chết thì ông bà
(nội, ngoại) có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cháu hoặc anh chị em có nghĩa vụ,
chăm sóc em, đó là trách nhiệm nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, không
cần phải xác lập quan hệ nuôi con nuôi thì mới ràng buộc được trách nhiệm của các
bên. Những trường hợp nuôi con nuôi như vậy đã làm đảo lộn các thứ bậc trong gia
đình như việc ông bà nhận cháu làm con nuôi thì người cháu lại trở thành con của ông
bà, ông bà lại thành “cha mẹ” của cháu hoặc anh chị lại trở thành “cha mẹ” và con,
điều này ảnh hưởng đến thuần phong mĩ tục, không phù hợp với truyền thống dân tộc
ta. Mặt khác, Luật NCN có quy định này để ngăn chặn việc thực hiện quan hệ nuôi con
nuôi vì các mục đích khác không dựa trên chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em.
*Trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
Trước hết, chế định nuôi con nuôi trong Luật HN và GĐ 2000 đã có sự mâu
thuẫn khi quy định về vấn đề này. Khoản 1 Điều 105 Luật HN và GĐ năm 2000 xác
5
định điều kiện của người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi dựa trên
quy định của pháp luật nơi người đó mang quốc tịch. Tuy nhiên, theo Khoản 1 điều 37
NĐ 68/2002/NĐ-CP thì việc xác định điều kiện của người xin nhận con nuôi lại dựa
trên pháp luật Việt Nam và pháp luật nơi đó thường trú. Sở dĩ lại có quy định như vậy
nhằm bảo đảm sự phù hợp giữa pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế. Theo Khoản
1 Điều 29 Luật NCN 2010: “ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài
thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật nơi người đó thường trú và quy định tại điều 14 của Luật này”.
Với điều kiện luật nói trên, một mặt luật NCN đã giải quyết tình trạng mẫu thuận
giữa các quy định trước đây, mặt khác Luật NCN đã thể hiện sự kế thừa hợp lí trong
NĐ 68/2002/NĐ- CP và NĐ 69/2006/ NĐ- CP, từ đó tạo ra khuôn khổ pháp lí thống
nhất tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập công ước quốc tế.
Vấn đề điều kiện của người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài còn được quy
định tại điều 28 Luật NCN 2010. Điều Luật này đưa ra 4 trường hợp nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài. Theo khoản 1 Điều 28: “ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
người nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi
con nuôi với Việt Nam làm con nuôi”
Khoản 2 Điều 28 quy định về các trường hợp người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh. Vấn
đề đặt ra từ các quy định này là:
Thứ nhất, những người nhận nuôi con nuôi đích danh theo quy định khoản 2 Đều
28 Luật NCN năm 2010 có nhất thiết phải là người Việt Nam định cư ở nước ngoài
hoặc người nước ngoài thường trú tại quốc gia có kí kết điều ước quốc tế về nuôi con
nuôi với Việt Nam hay không. Đối với vấn đề này, có thể nhận thấy người nhận nuôi
con nuôi không nhất thiết phải đáp ứng điều kiện định cư hoặc thường trú tại quốc gia
kí kết hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam. Chỉ cần việc nuôi con nuôi thuộc một
trong các trường hợp tại Khoản 2 Điều 28 thì người nhận nuôi con nuôi có thể nhận
nuôi đích danh.
Thứ hai, có phải tất cả các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 28 đều không
được nhận con nuôi không đích danh không ? Khoản 2 Điều 28 nêu ra các trường hợp
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài
đựơc nhận nuôi con nuôi đích danh nhưng không quy định rõ là những người này có
được nhận nuôi con nuôi không đích danh hay không. Ví dụ tại điểm đ) người nước
ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất 1 năm có thể được
6
nhận con nuôi không đích danh hay không. Các quy định tại Khoản 2 Điều 28 là chưa
thực sự rõ ràng, có trường hợp quy định về người được nhận làm con nuôi tại điểm d)
có trường hơpj quy định về người nhận nuôi con nuôi như điểm đ). Từ đó có thể gây ra
những cách hiểu khác nhau đối với các trườnh hợp nhận nuôi con nuôi được quy định
tại điều khoản này.
Qua các vấn đề trên, có thể thấy về cơ bản điều kiện của người xin nhận con nuôi
có yếu tố nước ngoài chủ yếu vẫn kế thừa các quy định trước đây. Về nguyên tắc,
người nhận nuôi con nuôi phải thườnh trú ở những nước là thành viên của điều ước
quốc tế hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam và phải đáp ứng đủ điều kiện nuôi con
nuôi theo Luật NCN cũng như pháp luật của nước hữu quan. Ngoài ra Luật NCN có sự
điều chỉnh trong một số trường hợp nuôi con nuôi đích danh .
+ Điểm d Điều 28 Luật NCN: “ Người nước ngoài đang học tập , làm việc tại Việt
Nam trong thời gian ít nhất là một năm”. So với quy định trước đây thì thời gian này
được tăng thêm , theo mục 8 Nghị định 69/2006/NĐ- CP thì khoảng thời gian này chỉ
là 6 tháng. Sự thay đổi này theo hướng chặt chẽ thêm các điều kiện đối với người nước
ngoài nhận nuôi con nuôi là công dân Việt Nam.
+ Mục 8 Điều 1 Nghị định 69/2006/ NĐ- CP có quy định về người nhận con nuôi có
“ quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em được nhận làm con nuôi”; Luật NCN quy định
rõ ràng hơn về mối quan hệ này trong 2 trường hợp tại điểm a và điểm b khoản 2 điều
28: người nước ngoài nhận nuôi con nuôi là cha dượng, mẹ kế của người được nhận
làm con nuôi; hoặc cô, dì, chú, bác của người được nhận làm con nuôi. Quy định này
nhằm đáp ứng tình hình hực tế, tạo điều kiện cho người con được sống với cha, mẹ đẻ
ở nước ngoài và tạo cơ hội để người đó được hưởng trọn vẹn quyền lợi của người con
trong quan hệ với cha dượng mẹ kế theo pháp luật nước ngoài. Quy định này cũng phù
hợp với nguyên tắc tôn trọng quyền trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc,
được sự chăm sóc, yêu thương của cha mẹ đẻ hoặc những người thân thích khác. Sự
điều chỉng này cũng phù hợp với điều 5 khi lựa chọn gia đình thay thế cho trẻ thì sẽ có
sự ưu tiên đối với người nhận nuôi là cha dượng, mẹ kế. cô, cậu. chú.dì, bác ruột của
người được nhận làm con nuôi.
2.1.3. Điều kiện về ý chí của các bên chủ thể:
Theo Luật NCN, việc cho trẻ em làm con nuôi vẫn cần phải có dự đồng ý của cha
mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ em từ 09 tuổi trở lên. Luật còn quy định rõ sự đồng ý này
là phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực không bị ép buộc, không bị đe doạ hay mua
chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác (Điều
7
21). Luật NCN còn quy định: Cha, mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau
khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày, đây là quy định nhằm tránh các trường hợp cha
mẹ đẻ và các cá nhân tổ chức khác có sự thoả thuận cho trẻ làm con nuôi trước khi
sinh, hoặc cha mẹ đẻ trong hoàn cảnh đặc biệt đã chấp nhận con vừa sinh ra làm con
nuôi mà không có sự suy nghĩ kĩ lưỡng.
Luật NCN đề cập vai trò của UBND trong việc tư vấn đối với cha mẹ đẻ hoặc
người giám hộ của trẻ theo quy định của Khoản 2 Điều 21, nội dung tư vấn về các vấn
đề như mục đích nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa các bên liên quan sau khi quan
hệ nuôi con nuôi được xác lập. Trong Nghị định 19/2011/NĐ- CP hướng dẫn thi hành
Luật NCN, trước hết “ công chức tư pháp- hộ tịch phải tư vấn để trẻ em tiếp tục được
chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của gia
đình, trường hợp cho trẻ cho trẻ em làm con nuôi là giải pháp cuối cùng vì lợi ích tốt
nhất của trẻ em thì công chức tư pháp – hộ tịch phải tư vấn đầy đủ cho những người
liên quan về mục đích nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa các bên sau khi quan hệ
nuôi con nuôi được xác lập. Quy định này là cần thiết bởi sự tư vấn của UBND sẽ giúp
chho cha mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ hiểu rõ các vấn đề về nuôi con nuôi , đặc biệt là
những hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi, từ đó cha mẹ đẻ có suy nghĩ kĩ lưỡng về
việc có cho trẻ làm con nuôi hay không . Sau khi tư vấn, cán bộ tư pháp – hộ tịch sẽ
tiến hành thủ tục lấy ý kiến của những người trên theo quy định tại điều 20. Đối với
trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài , việc lấy ý kiến của các chủ thể được
quy định tại điều 21 Luật NCN sẽ thuộc trách nhiệm của Sở Tư pháp, việc lấy ý kiến
phải lập thành văn bản và có chữ kí hoặc điểm chỉ của người được lấy ý kiến . Đây là
một quy định mới của Luật NCN 2010 so với Luật HN&GĐ 2000 đồng thời cũng
tương thích với công ước quốc tế về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con
nuôi giữa các nước.
Như vậy về điều kiện nuôi con nuôi, Luật NCN có sự bổ sung trong các khía cạnh
: Điều kiện của người được nhận làm con nuôi, điều kiện của người nhận nuôi con nuôi
và điều kiện về ý chí của các bên chủ thể. Đối với vấn đề này, Luật NCN có sự kế thừa
các quy định hợp lí của Luật HN&GĐ năm 2000, đồng thời có sự sửa đổi, bổ sung để
các quy định cụ thểm rõ ràng hơn.
2.2. Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi:
Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi là những vấn đề pháp lí phát sinh khi quan
hệ nuôi con nuôi được pháp luật công nhận. Về vấn đề này Luật NCN có những điểm
mới sau:
8
2.2.1. Về mối quan hệ ba bên giữa cha mẹ nuôi, con nuôi, cha mẹ đẻ
Luật HN&GĐ năm 2000 khi quy định về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi
chỉ chú trọng điều chỉnh quan hệ giữa cha nuôi và con nuôi, có rất ít quy định về mối
quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con nuôi, quan hệ giữa cha mẹ nuôi với cha mẹ đẻ. Luật
NCN đã quy định cụ thể hơn về mối quan hệ 3 bên này, từ đó tạo ra cơ sở pháp lí để
đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mỗi bên chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi:
- Đối với quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi, Khoản 1 Điều 24 Luật NCN quy định: “
kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền,
nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác trong gia đình cha
mẹ nuôi cũng có quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Trước hết, Điều luật này điều chỉnh mối quan hệ giữa chacon nuôi theo điều luật này
có sự kế thừa Điều 74 của Luật HN & GĐ năm 2000. Theo đó kể từ thời điểm đăng kí
nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi sẽ có quyền và nghĩa vụ đối với con như chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con , là người đại diện pháp luật cho con chưa thành niên, mất năng
lực hành vi, con nuôi cũng có bổn phận phải yêu quý, kính trọng, chăm sóc; cha mẹ
nuôi và con nuôi có quyền hưởng di sản thừa kế của nhau theo quy định của pháp luật
thừa kế…Bên cạnh đó,Luật NCN quy định thêm về mối quan hệ pháp lí giữa con nuôi
và các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi. Khi trở thành thành viên trong gia
đình cha mẹ nuôi, con nuôi sẽ có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó, có quyền và nghĩa vụ
với các thành viên khác trong gia đình như con đẻ. Có như vậy, con nuôi mới có thể
hoà nhập một cách tốt nhất vào gia đình của cha mẹ nuôi, không có sự phân biệt đối xử
giữa con nuôii và con đẻ. Như vậy mối quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi trong Luật
NCN đã sửa đổi bổ sung theo chiều hướng con nuôi có sự gắn bó chặt chẽ hơn về
quyền và nghĩa vụ với cha mẹ nuôi
- Đối với mối quan hệ giữa con nuôi và cha mẹ đẻ, Luật HN&GĐ 2000 quy định rất
ít về vấn đề này. Đối với vấn đề nhân thân, Luật HN&GĐ năm 2000 chỉ quy định về
quyền của con liệt sĩ, thương binh, con của người có công với Cách mạng. Về vấn đề
tài sản, cha mẹ đẻ và con đã được cho làm con nuôi vẫn có quyền thừa kế di sản của
nhau. Đối với quyền và nghĩa vụ khác, Luật không có quy định cụ thể, điều này gây ra
khó khăn trong việc xác định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con nuôi trên thực
tế. Ví dụ như xác định cha mẹ đẻ có quyền và nghĩa vụ chăm sóc hoặc đại diện theo
pháp luật cho con hay không. Để giải quyết vấn đề này , Luật NCN đã quy định “ Trừ
trường hợp cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thoả thụân khác, kể từ ngày giao nhận con
9
nuôi, cha mẹ đẻ không có qui quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dữơng, cấp dưỡng, đại
diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lí tài sản riêng đối với con cho làm con
nuôi”(Khoản 2 Điều 4). Theo điều khoản trên, khi quan hệ nuôi con nuôi đựơc xác lập,
trong quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con nuôi có thể xảy ra các trường hợp:
Thứ nhất, giữa cha mẹ đẻ và con nuôi sẽ không còn quyền và nghĩa vụ được nêu
trong khoản 4 điều 24, trường hợp này xảy ra khi cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không có
thoả thuận gì hoặc thoả thuận chấm dứt toàn bộ quyền và nghĩa vụ trên. Thứ hai, cha
mẹ đẻ vẫn còn các nghĩa vụ nói trên đối với con đã cho làm con nuôi, điều này phải
dựa trên thoả thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Trường hợp này tuỳ theo sự thoả
thuận với cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ vẫn còn toàn bộ quyền và nghĩa vụ nói trên với con
nuôi hoặc chỉ một số quyền và nghĩa vụ nhất định. Ví dụ cha mẹ đẻ có thể không có
quyền chăm sóc, nuôi dưõng con nuôi nhưng vẫn có quyền đại diện cho con theo pháp
luật. Đây là một quy định mới của Luật NCN nhằm phù hợp với công ước Lahay 1993.
- Khoản 4 Điều 24 cũng thể hiện mối quan hệ cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Sau khi quan
hệ nuôi con nuôi được xác lập, giữa cha mẹ đẻ với cha mẹ nuôi có thể hoặc không có
mối liên hệ nào với nhau về quyền và nghĩa vụ. Ví dụ. nếu cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi
cùng thoả thuận có trách nhiệm chu cấp cho con hoặc cùng có nghĩa vụ quản lí tài sản
của con thì thoả thuận này sẽ là cơ sở để tạo nên mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ giữa
cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Ngược lại, nếu hai bên cha mẹ không có thoả thuận gì thì
mối liên hệ trên cũng không tồn tại. Luật NCN không có quy định cụ thể về hình thức
của sự thoả thuận. Theo quan điểm cá nhân người viết thì sự thoả thuận này cần thiết
phải được lập thành văn bản, và phải được nêu rõ khi việc giao nhận nuôi con nuôi
được tiến hành tại Sở Tư pháp. Đồng thời Luật cũng cần quy định rõ nội dung những
thoả thuận này đều phải vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em được cho làm con nuôi.
Như vậy so với Luật HN&GĐ năm 2000 có thể thấy Luật NCN quy định cụ thể hơn
về mối quan hệ pháp lí 3 bên sau khi việc nuôi con nuôi được xác lập. Theo điều 24
Luật NCN mối quan hệ này có chiều hướng mở tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa cha
mẹ đẻ với cha mẹ nuôi . Việc quy định vậy nhằm tạo ra cơ sở pháp lí để bảo vệ quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi.
2.2.2. Vấn đề về báo cáo tình hình phát triển của con nuôi:
Một điểm mới nữa là cha mẹ nuôi phải có nghĩa vụ báo cáo tình hình phát triển
của con nuôi với các cơ quan có thẩm quyền. Nghĩa vụ này được đặt ra đối với cả
trường hợp nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Về vấn đề
này, theo quy định trước đây cha mẹ nuôi phải báo cáo tình hình phát triển của con
10
nuôi 6 tháng một lần trong 3 năm đầu tiên, sau đó mỗi năm báo cáo một lần cho đến
khi 18 tuổi( Điều 1 khoản 13 Nghị định 69/2006/NĐ- CP) . Theo đánh giá của những
người thực hiện công tác tiếp nhận báo cáo hàng năm, việc báo cáo định kì phải được
thưc hiện đến khi trẻ 18 tuổi là quá dài, điều này dẫn tới sự khó khăn, bất cập khi xử lí
các báo cáo. Để giải quyết tình trạng này Luật NCN quy đinh cha mẹ nuôi phải co
trách nhiệm báo cáo tình hình phát triển của con nuôi trong 3 năm đầu tiên, nôi dung
báo cáo là về tình trạng sức khoẻ, thể chất, tinh thần, sự hoà nhập của con nuôi với cha
mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng( Điều 39 Luật NCN). Quy định này vừa mang tính khả
thi, tương đồng với pháp luật các nước láng giềng.
Như vậy có thể thấy rõ hai điểm tiến bộ về hệ quả pháp lí của Luật NCN. Thứ
nhất Luật đã quy định rất cụ thể về mối quan hệ 3 bên giưã cha mẹ nuôi – con nuôi –
cha mẹ đẻ để từ đó tạo ra cơ sở pháp lí để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên trong quan hệ nuôi con nuôi. Đồng thời luật NCN đã quy định hợp lí hơn về việc
báo cáo tình hình phát triển của con nuôi, làm cho các quy định về vấn đề này trở nên
khả thi hơn. Tuy nhiên cũng có một điểm hạn chế của Luật NCN chỉ quy định về hệ
quả pháp lí của nuôi con nuôi trong nước mà không quy định rõ về hệ quả nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài.
3. Những hạn chế cần sửa đổi bổ sung và một số ý kiến hoàn thiện về điều kiện
và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi.
3.1 . Vấn đề về điều kiện của việc nuôi con nuôi
* Điều kiện của người được nhận làm con nuôi
Điều 4 Luật NCN quy định nguyên tắc: tôn trọng quyền trẻ em được sống trong
môi trường gia đình gốc. Theo nguyên tắc này, chỉ khi cha mẹ đẻ không còn khả năng
nuôi dưỡng giáo dục thì mới có thể cho trẻ làm con nuôi. Tuy nhiên, nguyên tắc này lại
không được cụ thể hoá trong các quy định về điều kiên của người được nhận nuôi. Sự
thiếu sót này có thể tạo ra kẽ hở dẫn đến tình trạng mặc dù cha mẹ đẻ vẫn có đủ điều
kiện nuôi dưõng nhưng vẫn cho trẻ lam con nuôi. Như vậy việc nuôi con nuôi được
tiến hành không vì lợi ích của trẻ em, không đảm bảo cho trẻ em được chăm sóc, nuôi
dưỡng trong môi trường gia đình gốc. vì vậy, trong điều kiện của người được nhận làm
con nuôi cần bổ sung thêm quy định về khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc của cha mẹ đẻ,
cha mẹ đẻ chỉ được cho con đẻ của mình làm con nuôi người khác trong trường hợp
không có khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Vấn đề này cũng được quy
định trong pháp luật về nuôi con nuôi của một số nước. Ví dụ, Luật NCN của Trung
11
Quốc quy định điều kiện của người được nhận làm con nuôi tại Điều 4 “ cha mẹ đẻ của
trẻ em đó không có khả năng nuôi chúng vì những khó khăn đặc biệt”. Luật NCN cần
tham khảo và bổ sung vấn đề này.
3.2.Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi
Luật NCN không có quy định nào về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài. Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi chỉ được quy định tại điều 24
thuộc chương 2- Nuôi con nuôi trong nước. Vấn đề đặt ra là điều 24 có thể được áp
dụng cho các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài không?
Không thể áp dụng Điều 24 cho mọi trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài. Vì một quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài sẽ chịu sự điều chỉnh của nhiều
hệ thống pháp luật khác nhau, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài những quy
định khác nhau để điều chỉnh về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi. Ví dụ, khoản 2
Điều 137 Bộ luật gia đình của Liên Bang Nga quy định: “trẻ em được cho làm con
nuôi chấm dứt quyền và nghĩa vụ về nhân thân phi tài sản và tài sản đối với cha mẹ
đẻ”. Trong khi đó, theo khoản 4 điều 24 Luật NCN thì quyền và nghĩa vụ giữa con
nuôi và cha mẹ đẻ sẽ tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Như
vậy, pháp luật của Nga và của Việt Nam có quy định khác nhau về hệ quả pháp lí của
việc nuôi con nuôi. Nếu người Việt Nam nhận con nuôi là công dân Nga thì không thể
đương nhiên áp dụng quy định tại khoản 4 điều 24.
Vì vậy, cần phải xây dựng và ban hành các quy phạm xung đột trong các văn bản
hướng dẫn luật NCN để điều chỉnh về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài. Quy phạm xung đột này có thể quy định theo hướng điều 105 Luật
HN&GĐ năm 2000: “ Trong truờng hợp việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đươc
thực hiện tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi vầ con nuôi, việc chám
dứt nuôi con nuôi đựoc xac định theo quy đinj của Luật này. Trong trường hợp việc
nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được thực hiện tại nước
ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, viêc chấm dứt nuôi con
nuôi được xác định theo pháp luật nơi thường trú của con nuôi”. Điều khoản trên là
một quy phạm xung đột để xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh hệ quả pháp lí của
việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Nếu việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại VIệt Nam thhì
hệ quả pháp lí của quan hệ này sẽ dựa trên sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Nếu
việc nuôi con nuôi được thực hiện ở nước ngoài thì hệ quả pháp lí của quan hệ này sẽ
dưa trên sự điều chỉnh của pháp luật của nước nơi người con nuôi thường trú.
12
KẾT BÀI
Bằng việc phân tích một số điểm khác nhau cơ bản giữa Luật HN&GĐ năm 2000
và Luật NCN 2010 mà cụ thể là sự khác nhau giữa điều kiện và hậu quả pháp lý của
việc nuôi con nuôi ta nhận thấy những hạn chế của Luật HN&GĐ năm 2000 về chế
định nuôi con nuôi đồng thời thấy được sự điều chỉnh hợp lí, đúng mục đích và phù
hợp hơn trong thực tiễn việc nuôi con nuôi được sửa đổi, bổ sung trong Luật NCN.
Luật NCN quy định như vậy sẽ tạo ra sự thống nhất thể hiện sự pháp điển hoá đồng
bộ giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, đồng thời
cũng đảm bảo được sự bình đẳng giữa những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Nguyễn Ngoc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
tập 1, Nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, tp Hồ Chí Minh 2002
3. Trần Đức Nam, Những điểm mới của Luật Nuôi con nuôi so với chế định nuôi
con nuôi trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 : Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội,
2011.
4. Luật Nuôi con nuôi năm 2010
5. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
6. />7.
14
KẾT CẤU BÀI LÀM
Trang
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………… 1
NỘI DUNG………………………………………………………………………… 1
1. Lý luận chung về việc nuôi con nuôi………………………………………………1
1.1.Khái niệm nuôi con nuôi………………………………………………………….1
1.2.Khái niệm chế định nuôi con nuôi……………………………………………… 1
1.3.Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi………………………………………………… 2
2. Sự khác nhau về điều kiện và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
giữa Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật NCN ……………………………………… 2
2.1.Điều kiện của việc nuôi con nuôi…………………………………………………2
2.1.1.Điều kiện với người được nhận làm con nuôi………………………………… 2
2.1.2.Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi………………………………… 4
a) Trường hợp nuôi con nuôi trong nước…………………………………………….4
b) Trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài………………………………….5
2.1.3.Điều kiện về ý chí của các chủ thể…………………………………………… 6
2.2. Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi………………………………………… 7
2.2.1.Về mối quan hệ ba bên giữa cha mẹ nuôi, con nuôi và cha mẹ đẻ…………….7
2.2.2.Vấn đề về báo cáo tình hình phát triển của con nuôi………………………… 9
3. Những hạn chế cần sửa đổi bổ sung và một số ý kiến hoàn thiện về điều kiện và hệ
quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
3.1. Vấn đề về điều kiện của việc nuôi con nuôi …………………………………….9
3.2. hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi……………………………………………………10
C. KẾT BÀI…………………………………………………………………………10
15