Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

LUẬN văn thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở công ty xuân hoà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 32 trang )












LUẬN VĂN:

Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản
phẩm ởty xuân hoà






Lời mở đầu
Trong bối cảnh đất nước đang thực hiện công cuộc Đổi Mới, chuyển mình cho xu
thế hội nhập để hướng tới xây dựng thành công CNXH như con đường mà Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Chủ trương Công nghiệp hoá Hiện đại hoá đã mở ra nhiều cơ
hội, thời cơ cũng như không ít khó khăn và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam
nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước nói riêng-
như Nghị quyết của Đảng đã xác định: Các doanh nghiệp nhà nước phải là nòng cốt, là
thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo chủ đạo trong sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước,
tạo cơ sở vật chất cho con đường tiến lên CNXH. Tuy nhiên, hiện trạng là các doanh
nghiệp nhà nước hiện nay chưa phát huy được vai trò đó của mình. Đã có rất nhiều các


doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phải giải thể, chia, tách, sáp nhập hay chuyển sang thành
phần kinh tế khác.v.v…tạo gánh nặng rất lớn cho ngân sách Nhà nước hàng năm. Lý do
chủ yếu là ảnh hưởng vẫn còn khá nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế
quan liêu bao cấp, không thích ứng kịp với nền kinh tế thời “Mở cửa”. Nhưng bên cạnh
đó cũng có rất nhiều những tấm gương điển hình cho sự nỗ lực của các doanh nghiệp nhà
nước, biết vươn lên bằng chính nội lực, sớm thích nghi với nền kinh tế thị trường đầy thử
thách, năng động, sáng tạo và sử dụng đồng vốn của nhà nước rất có hiệu quả. Một điển
hình trong số đó là Công ty Xuân Hoà mà tiền thân là Nhà máy xe đạp Xuân Hoà. Sau
những ngày đầu nhiều khó khăn, công ty đã đứng vững và dần dần khẳng định vị thế và
uy tín của mình. Trên con đường hình thành và phát triển, công ty đã vượt qua rất nhiều
khó khăn và thách thức để đạt được những thành công đã được Đảng và Nhà Nước khen
thưởng. Tuy nhiên, giai đoạn nhiều cam go và thử thách nhất lại đang ở trước mắt. Để lại
sau lưng những thành công, toàn Công ty đang quyết tâm để bước lên một tầm cao mới,
khẳng định vai trò của mình.
Tuy đã có thâm niên và uy tín nhất định trên thị trường, nhưng trong bối cảnh nền
kinh tế hiện nay, Công ty Xuân Hoà và những sản phẩm của mình đang chịu một sức ép
rất lớn từ các đối thủ cạnh tranh, các sản phẩm cùng loại hoặc các sản phẩm thay thế và
có thể cho đó là sự đe doạ rất lớn đối với mục tiêu dài hạn mà Công ty đã đặt ra.
Với một thị trường nội địa rộng lớn và một thị trường quốc tế đầy tiềm năng
nhưng cũng không ít thách thức, Công ty Xuân Hoà đang nỗ lực hết mình để tạo dựng và
khẳng định lợi thế cạnh tranh của mình.
Trong thời gian thực tập tại Công ty Xuân Hoà em đã viết bản báo cáo thực tập
tổng hợp về quá trình hình thành và phát triển của công ty, với hy vọng sẽ có cái nhìn
tổng quát về hoạt động sản xuất và kinh doanh của Công ty cũng như những biện pháp để
nâng cao sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường nhằm dành được lợi thế cạnh tranh
và khẳng định vị thế của Công ty trên thị trường vì nếu đánh mất vị thế cạnh tranh cũng
đồng nghĩa với việc rời bỏ thị trường.
Bản khảo sát tổng hợp gồm 2 phần:
-Phần 1: Khái quát chung về Công ty Xuân Hoà
-Phần 2: Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm











Phần 1
khái quát chung về công ty xuân hoà

I. Sự hình thành và quá trình phát triển.
1.1 Sự hình thành:
Tên doanh nghiệp: Công ty Xuân Hoà
Tên giao dịch: XUANHOA COMPANY
Địa chỉ: Thị trấn Xuân Hoà, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc.
Nhà máy xe đạp Xuân Hoà được bắt đầu xây dựng từ năm 1974 theo chủ
trương của Đảng và Nhà Nước giao cho Bộ cơ khí luyện kim làm chủ đầu tư. Công trình
do nước Cộng hoà Pháp chuyển giao công nghệ và thiết bị với công suất thiết kế: Lắp ráp
hoàn chỉnh 200.000 xe đạp/năm. Tháng 6-1979, Thủ tướng chính phủ có quyết định
chuyển công trình xe đạp Xuân Hoà từ Bộ cơ khí luyện kim sang cho UBND thành phố
Hà Nội quản lý( Trực thuộc Sở công nghiệp).
Tháng 3-1980, UBND thành phố Hà Nội ra quyết định thành lập Xí nghiệp xe đạp
Xuân Hoà. Ngày 30-12-1980, Xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà chính thức khai trương và đây
chính là tiền thân của Công ty Xuân Hoà hiện nay.
Công ty Xuân Hoà là đơn vị sản xuất kinh doanh độc lập, có tư cách pháp
nhân. Bàn ghế các loại, vành mạ, ống thép, xe đạp là những sản phẩm chính do công ty
sản xuất.

1.2 Chức năng và nhiệm vụ.
a). Chức năng:
Chức năng chính, ban đầu, của công ty là tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm xe đạp và các loại phụ tùng xe đạp đáp ứng chủ yếu nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Sau khi UBND thành phố Hà Nội ra Quyết định 5614-QD/UB ( 07/10/1993 ) chuyển Xí
nghiệp xe đạp Xuân Hoà thành Công ty Xuân Hoà thì ngoài sản xuất, Công ty còn được
mở rộng tối đa về lĩnh vực kinh doanh, thương mại, dịch vụ, liên kết, liên doanh trong
nước và nước ngoài, xuất nhập khẩu trực tiếp.
b). Nhiệm vụ:
Với vai trò là một đơn vị sản xuất kinh doanh nên nhiệm vụ của công ty là:
- Nắm bắt nhu cầu tiêu dùng về các mặt hàng bàn ghế, xe đạp trên thị
trường trong nước đồng thời tìm kiếm và thâm nhập thị trường mới để đẩy mạnh xuất
khẩu, mang lại hiệu quả cho vốn đầu tư của Nhà nước.
- Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trên cần tổ chức tốt nhiệm vụ mua, dự trữ bảo
quản và cung ứng vật liệu đảm bảo đúng số lượng, chất lượng, chủng loại và kịp thời
nhằm tối thiểu hoá chi phí đảm bảo mục tiêu lợi nhuận của công ty.
- Không ngừng đổi mới và cải tiến quy trình công nghệ cho phù hợp với
yêu cầu ngày càng cao và khắt khe của khách hàng nhưng cũng phải phù hợp với khả
năng của công ty tức là phải biết và xác định cho được mình nên mua công nghệ nào,
thiết bị, máy móc với nguyên, nhiên, vật liệu nào thích hợp. Đồng thời phải đào tạo cũng
như tạo điều kiện cho công nhân học tập, nâng cao trình độ kĩ thuật.
- Luôn luôn cải tổ và hoàn thiện bộ máy quản lý cho phù hợp với tình hình thực
tiễn và những đòi hỏi của nền kinh tế. Mặt khác phải quyết tâm chống tham ô lãng phí,
trung thành với đường lối của Đảng và Chính phủ.
-Việc sản xuất phải được kiểm tra, giám sát từ khâu nguyên liệu đầu vào cho đến
khi đưa sản phẩm ra thị trường để đảm bảo uy tín và tạo niềm tin cho khách hàng.
- Đảm bảo thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, đảm bảo thu nhập
cho người lao động đúng thời hạn với mức lương phù hợp để ổn định và nâng cao đời
sống nhằm làm cho cán bộ công nhân viên có động lực để hăng hái thi đua lao động sản
xuất.

1.3. Quá trình phát triển:
Quá trình phát triển của công ty Xuân Hoà là một quá trình phát triển lâu dài với
nhiều biến đổi thể hiện khá rõ nét ở 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1:Từ năm 1973 đến năm 1980.
- Giai đoạn 2:Từ năm 1981 đến năm 1990.
- Giai đoạn 3:Từ năm 1991 đến nay.
a) Giai đoạn 1: (Từ 1913- 1980) Những khởi đầu xây dựng.
Sau khi chiến tranh phá hoại miền Bắc kết thúc ( Năm 1973). Đồng thời với việc
triển khai công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, Đảng và Nhà nước cũng chủ trương
khôi phục, phát triển kinh tế, khuyến khích sản xuất các mặt hàng phục vụ dân sinh, trong
đó có việc xây dượng một nhà máy sản xuất xe đạp.
Giữa năm 1974 công trình nhà máy xe đạp Xuân Hoà được bắt đầu thi công. Đến
giữa năm1977, phần xây dựng nhà xưởng về cơ bản là xong, chỉ còn phần lắp đặt thiết bị.
Từ cuối năm 1977 đến 1979 tổng số cán bộ công nhân viên đã lến tới gần 300 người.
Khó khăn đến khi Thủ Tướng Chính Phủ ra quyết định truyển công trình từ Bộ cơ
khí luyện kim sang cho UBND thành phố Hà Nội quản lý gây ách tắc cho hợp đồng
chuyển giao công nghệ với đối tác Pháp dẫn tới cuối năm 1980, khi chuyên gia Pháp về
nước do hết hợp đồng thì vẫn còn dây chuyền vành, sơn, mạ và cân vành chưa hoạt động
ổn định.
Sau những nỗ lực tiếp nhận và đào tạo cán bộ công nhân viên mới về, đến cuối
năm 1980, về cơ bản xí nghiệp xe đạp đã hình thành về tổ chức, nhân sự và quản lý.
Sau thời gian chuẩn bị chưa đầy một năm, đầu năm 1981 xí nghiệp đã đi vào sản
xuất chính thức theo kế hoạch của nhà nước.
Ngày 30-12-1980, cắt băng khánh thành xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà.
Đây là thời kỳ vô cùng khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần đối với cán bộ công
nhân viên của xí nghiệp do thiếu những cơ sở hạ tầng tối thiểu. Trước tình hình đó, Đảng
bộ, ban giám đốc, phối hợp với Công Đoàn, Đoàn thanh niên kiên trì giáo dục, vận động
CBCNV tinh thần khắc phục vượt khó, tường bước thực hiện nhiều biện pháp tích cực
như: Gia tăng sản xuất để tăng thu nhập, chạy máy phát điện vào những giờ cao điểm
cung cấp cho các hộ, tham gia phong trào luyện tập thể thao.

b) Giai đoạn 2 (Từ 1981- 1990): Sản xuất theo kế hoạch
Vượt qua những khó khăn ban đầu, Xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà bắt đầu buớc vào
thực hiện sản xuất theo kế hoạch Nhà nước giao nhưng lại phải đối mặt với những khó
khăn mới. Đầu tiên phải kể tới đó là vấn đề về đội ngũ vừa yếu lại thiếu. Năm đầu tiên đi
vào sản xuất, tổng số lao động đầu năm là 350 người, trong đó kỹ sư chưa đến 20 người,
trung cấp trên 30 người, công nhân kỹ thuật chiếm khoảng 60% nhưng hầu hết mới ra
trường bậc 2 bậc 3, mà phải tiếp nhận một công trình kỹ thuật công nghệ hiện đại vào
loại nhất Việt Nam và khu vực lúc bấy giờ trong lĩnh vực xe đạp. Khó khăn thứ hai là vật
tư chính và phụ thiếu do đều phải nhập từ nước ngoài, dụng cụ khuôn cối có một số đã dơ
dão, vật tư phụ đã cạn kiệt.
Nhờ những chủ trương và biện pháp đúng đắn và sự động viên phong trào của các
cấp lãnh đạo, một phong trào thi đua sôi nổi, tự giác đã khai thác tiềm năng trí tuệ của tập
thể cán bộ công nhân viên nên đã từng bước khắc phục những khó khăn để hoàn thành
liên tiếp và vượt chỉ tiêu của Nhà nước giao và hoàn thành xuất sắc những kế hoạch 5
năm.
Khi Hội nghị Trung ương 8 ( Khoá V) ra nghị quyết nhằm xoá bỏ lề lối quản lý
hành chính bao cấp sang hạch toán kinh doanh có lãi. Chủ trương này đòi hỏi xí nghiệp
phải sản xuất theo đúng yêu cầu thị trường, mặt hàng và chất lượng phải đáp ứng những
đòi hỏi của khách hàng. Những thách thức của gai đoạn chuyển đổi này khiến Xí nghiệp
lâm vào tình thế cực kỳ khó khăn, hàng hoá tồn đọng không tiêu thụ được, riêng xe đạp
hoàn chỉnh tồn 12.000 chiếc, vốn cạn, công nhân viên thay nhau nghỉ việc.
Đứng trước tình hình khó khăn này, lãnh đạo xí nghiệp, đứng đầu là đồng chí
GĐ.Nguyễn Văn Tịnh tập trung suy nghĩ tìm giải pháp, một mặt huy động sáng kiến của
tập thể dựa trên những cơ sở vật chất máy móc sẵn có đi vào hướng mặt hàng nội thất.
Chỉ trong một thời gian ngắn đã có rất nhều mẫu mã bàn ghế ra đời, đặc biệt chú ý là loại
ghế gấp kiểu Liên Xô và ghế gấp kiểu Thái Lan. Kết quả sản xuất kinh doanh năm 1989
chỉ đạt bằng 60% năm 1988 song không chỉ đánh giá bằng con số, giá trị mà được khẳng
định bằng đường lối chiến lược mở ra phương án sản phẩm và cung cách làm ăn mới.
Việc chế tạo thành công các loại sản phẩm mới năm 1989 là một sự kiện lịch sử quan
trọng, tạo ra bước ngoặt trên con đường phát triển của xí nghiệp.

c) Giai đoạn 3: (Từ 1991- đến nay)
Sau những năm thực hiện đường lối đổi mới, nhất là trong hai năm 1989 và 1990.
Xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà đã giành được những thắng lợi to lớn. Với bước đi thử
nghiệm, mạnh dạn chuyển hướng sản xuất sang mặt hàng nội thất, đã tạo đà cho xí
nghiệp nhanh chóng tiếp cận với cơ chế thị trường, ổn định đời sống, phát triển sản xuất.
Trong xu thế phát triển chung của đất nước, để tạo cho các doanh nghiệp phát triển
sản xuất kinh doanh, ngày 7/10/1993 UBND thành phố Hà Nội ra Quyết định số 5614-
QD/UB, chuyển xí nghiệp xe đạp xuân hoà thành Công ty Xuân Hoà. Tên giao dịch quốc
tế là XUANHOACOMPANY.
Từ năm 1993, nhu cầu thị trường tăng lên nhan chóng, đặc biệt vào dịp cuối năm
tình trạng thiếu hàng đến mức căng thẳng. Trong khi đó do cơ chế mở cửa bắt đầu xuất
hiện yếu tố cạnh tranh mà công gnhệ của ông ty hầu hết tận dụng từ dây chuyền sản xuất
xe đạp đã bị lạc hậu.
Công ty buộc phải đứng trước một sự lựa chọn: Một là cứ duy trì như vậy thì sớm
muộn cũng bị đối thủ cạnh tranh đánh bại, hoặc phải nhanh chóng đầu tư công nghệ mới
hiện đại hoá dây chuyền để đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng tăng, có như vậy mới
đảm bảo sự tồn tại và phát triển. Thực tế đã chứng minh tăng cường đầu tư, mở rộng thị
trường không những không giảm lao động mà còn giảm cường độ lao động, tăng thu
nhập và tuyển thêm lao động ở những năm sau.
Từ năm 1996, cùng với toàn Đảng toàn dân, CBCNV Công ty bước vào thực hiện
kế hoạch 5 năm cuối cùng của thế kỷ XX được Đảng ta xác định là giai đọan bản lề của
công cuộc công nghệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong giai đoạn này xuất hiện những thách thức và nguy cơ mới với tính chất và
mức độ ác liệt hơn. Trên thị trường cả nước xuất hiện nhiều đối thủ mới trong đó có cả
những liên doanh với nước ngoài cũng có cùng trình độ sản xuất và công nghệ hiện đại.
giá vật tư đầu vào tăng, cạnh tranh quyết liệt về xuất khẩu với các doanh nghiệp Trung
Quốc và Thái Lan.
Từ sự phát hiện và nhận thức kịp thời những vấn đề trên, lãnh đạo công ty luôn
khẳng định cần phải tiếp tục đẩy mạnh hơn bao giờ hết sự nghiệp đổi mới toàn diện trên
các mặt. Trước hết mạnh dạn đầu tư công nghệ hiện đại nhưng có hiệu quả ngay, xúc tiến

mạnh mẽ nhằm hoàn thiện công tác quản lý, đào tạo, mở rộng thị trường. Đặc biệt thị
trường xuất khẩu tuy có nhiều gian nan vất vả, song từ đây lại mở ra phương hướng giải
quyết có tính chiến lược lâu dài.
Tính đến năm 2000, sau gần 10 năm với sự cố găng nỗ lực đầu tư, công ty đã trang
bị gần như hoàn toàn hệ thống máy móc thiết bị, mỗi công đoạn, dây chuyền sản xuất hầu
hết đều được cơ giới hoá, tự động hoá, tạo ra sự thay đổi căn bản về chất trình độ kỹ thuật
sản xuất, do đó đưa Công ty trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu về sản
xuất hàng nội thất tại Việt Nam.
*Những thành tích thi đua đã đạt được:
- Từ 1986-2003: Đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh.
- 1990 được Liên đoàn lao động Việt Nam trao cờ thưởng đơn vị thi đua xuất
sắc
- Năm 1995 được Chủ tịch nước tặng thưởg Huân chương Lao động hạng
Nhất.
- Năm 1996 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến
công hạng Ba cho tập thể CBCNV về thành tích bảo vệ an ninh tổ quốc.
- Tháng 9 năm 1999 tập thể CBCNV đã vinh dự và tự hào được Chủ tịch
nước tặng thưởng Huân Chương Độc lập hạng Ba do những nỗ lực vượt bậc và thành
tích to lớn.
Công ty luôn đặt ra những nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn trên cơ sở đó thực
hiện các hợp đồng kinh tế, các đối tác kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ nhằm khai thác
tối đa khả năng hiện có của công ty để tiếp tục đầu tư chiều sâu, ổn định và tăng trưởng
các sản phẩm truyền thống. Ngoài việc đầu tư công nghệ hợp lý ra công ty còn chú trọng
đào tạo cán bộ công nhân viên, nâng cao kiến thức quản lý kĩ thuật cho cán bộ công nhân
lao động để sản phẩm sản xuất ra có chi phí hợp lý nhất, hạ giá thành sản phẩm, số lượng
sản phẩm của công ty năm sau cao hơn năm trước, chất lượng sản phẩm năm sau ổn định
hơn năm trước. Đó là sợi dây vô hình nối liền giữa người sản xuất và người tiêu dùng,
giữa người sản xuất với khách hàng trong và ngoài nước.
Trong hơn 10 năm thực hện đổi công ty đặt ra nhiệm vụ cụ thể và từng bước hoàn
thành, 5 năm HĐH công ty chuẩn bị hội nhập vừa cải tạo nhà xưởng vừa đầu tư đổi mới

công nghệ, Công ty Xuân Hoà vẫn không ngừng tăng doanh số tiêu thụ mỗi năm điều đó
thể hiện:
1.4. Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của Công ty Xuân Hoà từ năm 1999 - 2003
Bảng 1.


Chỉ tiêu
Đ
ơn vị

m 1999

m 2000

m 2001

m 2002

m 2003
Giá
trị TSL
T
r.đ
101
.000

107
.000

115

.340

124.
895

145.
320

Doan
h thu
T
r.đ
104
.286

111
.650

119
.300

129.
460

151.
164

Sản
phẩm:







- Bàn
ghế các loại
C
ái
828
.327

920
.000

956
.240

1.32
4.980

1.58
7.300

-
Vành mạ
Đ
ôi
16.
158


-

-

-

-

- ống
thép
1
.000 m
2.1
23

5.2
00

6.3
25

10.2
50

11.5
00

- Xe
đạp

C
ái
10.
749

15.
000

11.
650

15.3
05

12.7
56

Lao
động bq
N
gười
800

850

890

1.00
5


1.02
5

Thu
nhập bq
1
000 đ
1.1
72

1.2
09

1.3
70

1.30
0

1.20
0














(Nguồn: Phòng kế toán thống kê)

Như vậy, căn cứ vào kết quả trên ta thấy doanh số tiêu thụ của năm 2003
tăng lên so với năm 2002 về số tuyệt đối là 21.704 trđ tức là tăng lên 16.76%.
Nguyên nhân là do có sự đầu tư trang thiết bị máy móc tạo ra sản phẩm có chất
lượng cao và ổn định hơn nữa giá cả lại không cao so với đối thủ cạnh tranh. Công ty đã
thực hiện chính sách đa dạng hoá sản phẩm trong việc sản xuất các sản phẩm có kiểu
dáng kích cỡ khác nhau. Một nguyên nhân khác là uy tín từ khi khách hàng biết đến chất
lượng xe đạp Xuân Hoà nay là bàn ghế Xuân Hoà.
Các sản phẩm khác như: tủ tường, bàn văn phòng, tủ tôn tài liệu, giá, kệ
là những mặt hàng mới được bổ sung vào cơ cấu sản phẩm trong những năm gần đây. Cụ
thể, các loại tủ bằng chất liệu gỗ ván ép mới đi vào sản xuất năm 2000,tủ tôn đi vào sản
xuất năm 1999 nhưng tỷ lệ tăng rất cao có loại tăng 205,25%. Đây là một dấu hiệu khả
quan và có thể khẳng định công ty đã có hướng đi đúng, khai thác tốt nguồn lực hiện có
đồng thời mặt hàng mới này đang có chỗ đứng và thị phần trên thị trường, hứa hẹn những
tiềm năng phát triển to lớn trong tương lai có tác dụng khuyến khích cán bộ công nhân
viên trong công ty không ngừng phấn đấu lao động sáng tạo, năng động trong cơ chế thị
trường.
Năm 2002, trong bối cảnh giá đầu vào tăng, phải cạnh tranh khốc liệt với
nhiều công ty sản xuất đồ nội tại Việt Nam và nhiều hãng lớn trên thế giơí đưa sản phẩm
vào chiếm lĩnh thị trường trong nước, Công ty Xuân Hoà vẫn giữ được tốc độ tăng
trưởng 10,9%, lợi nhuận thực hiện vẫn cao hơn cùng kỳ năm trước.
II. Mục tiêu định hướng phấn đấu năm 2004.
Xác định mục tiêu là một công việc bắt buộc đối với bất kì một công ty nào, mục
tiêu có thể là dài hạn, ngắn hạn, hay mục tiêu cho một năm, nhằm vạch ra hướng đi chính
xác để đạt được kết quả tối ưu và tận dụng triệt để lợi thế của công ty , Công ty Xuân

Hoà cũng không nằm ngoài quy luật đó. Công ty đã đặt ra mục tiêu cụ thể cho năm 2004
như sau:
2.1. Mục tiêu sản xuất - kinh doanh.
Bảng 2
Ch
ỉ tiêu

Đ

M
So
Giá trị tổng
sản lượng.
T

145
.320

17
2.000

26
.680

1
8,00

Doanh số tiêu
thụ
T


151
.164

17
6.862

25
.698

1
7,00

Sản xuất:





-Bàn ghế các
loại
C
ái
1.5
87.300

1.9
04.760

31

7.490

2
0,00

-ống thép
1
000 m
11.
500

12.
650

1.
150

1
0,00

-Xe đạp
C
ái
12.
756

13.
394

63

8

5
,00

(Phòng kế toán thống kê)
Nhận xét: Năm 2003 Công ty đạt kết quả thắng lợi trong sản xuất kinh doanh rất
to lớn và tương đối toàn diện. Nối tiếp truyền thống phát triển ổn định, liên tục, vững
chắc, có chất lượng nên những chỉ tiêu mà công ty đề ra rất phù hợp với thực tế và hoàn
toàn tin tưởng có thể đạt được.
2.2. Mục tiêu đầu tư phát triển.
-Nâng cao tối đa sản lượng, cải tiến kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng
suất lao động.
-Thực hiện triệt để chương trình tiết kiệm nhiên liệu, động lực trên một đơn
vị sản phẩm.
-Tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu
- Tiếp tục đa dạng hoá sản phẩm, đẩy mạnh việc nghiên cứu và sản xuất các
loại mới có tính năng sử dụng tiện lợi, có giá trị thẩm mĩ để thiết lập mặt bằng giá
mới.
- Tăng tỉ lệ hợp cách, tạo những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn bù đắp
phần tăng do giá trị vật tư đầu vào.
III. Các đặc điểm kinh tế - kĩ thuật có ảnh hưởng đến hoạt động sxkd của
Công ty.
3.1. Đặc điểm về sản phẩm.
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện thị trường rất đa dạng và
luôn có sự biến động do các tiến bộ khoa học, kĩ thuật phát triển rất nhanh chóng, sự cạnh
tranh giữa các loại hàng hoá, đặc biệt là các loại hàng hoá đồng dạng rất gay gắt và yêu
cầu nâng cao không ngừng hiệu quả hoạt động nên Công ty Xuân Hoà đã rất năng động
trong việc lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm
cho phù hợp với nhu cầu thị trường và xã hội, phù hợp với điều kiện của môi trường kinh

doanh. Sản phẩm của công ty sản xuất gồm: Một là các sản phẩm về nội thất, hai là sản
phẩm xe đạp và phụ tùng xe đạp, thứ ba là sản xuất ống thép.
Trong những năm gần đây, do nhu cầu thị trường nên cơ cấu sản phẩm sản xuất
chuyển dịch dần sang những sản phẩm nội thất và ống thép. Cụ thể, Công ty xác định cơ
cấu sản xuất là: 70% sản phẩm nội thất, 20% ống thép, 10% xe đạp và phụ tùng xe đạp.
Công ty xác định rõ thị trường chính của công ty là các tỉnh phía Bắc và thị trường
phía Nam là thị trường công ty đang tìm cách thâm nhập và phát triển, thị trường xuất
khẩu mặc dù có các yếu tố cạnh tranh gay gắt khiến tỷ trọng xuất khẩu những năm gần
đây giảm đáng kể nhưng công ty vẫn xác định đây là thị trường chiến lược trong kế
hoạch phát triển thị trường của Công ty.
Khách hàng chủ yếu của Công ty chủ yếu là những khách hàng tiêu dùng cuối
cùng tức là khách hàng của những mặt hàng nội thất, ngoài ra còn có khách hàng trung
gian, khách hàng tiêu thụ mặt hàng ống thép.
Với những sản phẩm nội thất của Công ty, tỷ lệ khung và ống thép chiếm tỷ lệ lớn.
Với dây chuyền kéo ống thép của Đài Loan với công suất lớn hơn dây chuyền cũ của
Trung Quốc, với sản phẩm có chỉ số chịu lực cao hơn.
Nước mạ của các sản phẩm sắt, thép mạ, sơn của Công ty cũng có độ bền rất cao,
được khách hàng tin tưởng nhất. Những sản phẩm nội thất của Công ty thường có tính
năng sử dụng rất cao, thường có thể mang vác vận chuyển dễ dàng do qua rất nhiều công
đoạn lắp ráp.
Với tiêu chí chất lượng là trên hết nên hầu hết các sản phẩm đều có độ bền cao. Công ty đã
thành lập một phòng riêng về quản lý chất lượng sản phẩm.
Tháng 6 năm 1999, Công ty xúc tiến chương trình hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9000. Sau một năm tổ chức thực hiện tích cực theo lịch trình kế
hoạch khoa học chặt chẽ, tháng 6 năm 2000 đã được cấp giấy chứng nhận do QMS của
AUSTRALIA và trung tâm chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn QUACERT cấp.
3.2. Đặc điểm về nguyên- vật liệu.
Mặt hàng sản xuất của Công ty rất đa dạng về chủng loại và mẫu mã . Vì thế cùng
với các yếu tố cấu thành khác, để sản xuất ra 1 loại sản phẩm cần rất nhiều chủng loại vật
tư. Có thể kể đến:

- Nguyên, nhiên, vật liệu chính là vật liệu quan trọng không thể thiếu để cấu thành
nên sản phẩm: Kền, sắt, thép, tôn, gỗ
- Nguyên vật liệu phụ: Nhựa, Phooc-mi-ka, cao su
- Nhiên liệu: Điện
- Bao bì ngoài là những vật liệu để đóng gói sản phẩm
Hiện nay nguồn nguyên liệu mà công ty đang sử dụng chủ yếu lấy từ trong nước và các
nguồn này rất rộng lớn với trên 30 công ty nhà máy, xí nghiệp lớn nhỏ khu vực miền Bắc và
một số công ty nước ngoài.
Nguyên vật liệu chính có đặc điểm:
Chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm
Khối lượng lớn, phong phú và đa dạng
3.4. Đặc điểm về nhân lực.
Khoa học - công nghệ là rất quan trọng, nhưng yếu tố quan trọng nhất là con người, con người
là vốn quý nhất. Bởi mỗi vị trí trong dây chuyền quản lý, sản xuất đều có sự tham gia của người lao
động. Để có thể vận hành và làm chủ được máy móc thiết bị, quy trình sản xuất sao cho đạt được hiệu
quả cao nhất , đòi hỏi mỗi người lao động phải có trình độ hiểu biết nhất định, tuỳ từng vị trí công việc.
Bảng 7. Cơ cấu nhân sự trong bộ máy quản lý của Công ty
Đơn vị: người

S

lượn
g
%
N
ữ rên
ĐH
H Đ,
TH
C

hưa qua
đào tạo
Ban giám đốc
4
1
,6
2
0
Phòng Tổ chức-
bảo vệ
8
3
,0
3
1
Phòng thị
trường
4
4
1
7,4
2
5 1 3
0
Phòng kế
toán
1
0
3
,9

1
0
0
Phòng KT-
CN
6
8
2
6,9
1
6 2 6
0
Phòng đảm bảo
CLSP
1
8
7
,1
6
0
0
Phòng quản
lý kho
2
4
9
,5
4
2
5

Phòng kế hoạch-
vật tư
1
7
6
,7
7
2
0
Phòng hành chính
2
7
1
0,7
1
8 8
7
Trung tâm thương
mại
3
2
1
2,6
1
0 7 5
1
7
Tổng cộng
2
52


1
01 13 35
1
3
Hiện nay, công ty đang sử dụng một số lượng lớn 1358 lao động, trong đó: Lao
động gián tiếp = 252/ 1358 =18,2%
và 1106 lao động sản xuất bố trí làm việc tại các phân xưởng- chiếm 81,8%.
Với thực trạng hiện nay thì số lượng lao động của công ty như vậy là tốt, công
nhân viên đều có việc làm ổn định, không để xảy ra tình trạng thất nghiệp trong sản xuất.
3.5. Đặc điểm về công nghệ sản xuất .
Tính đến nay, với sự cố gắng nỗ lực đầu tư, Công ty đã trang bị lại gần như hoàn
toàn hệ thống máy móc thiết bị, mỗi công đoạn, dây chuyền sản xuất hầu hết được cơ
giới hoá, tự động hoá, tạo ra sự thay đổi căn bản về trình độ kỹ thuật sản xuất. Do đó
Công ty đã trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu về sản xuất hàng nội thất
tại Việt Nam.
Tuy nhiên để sử dụng hết năng lực và công suất máy móc, đặc biệt là trong
điều kiện khoa học kĩ thuật và công nghệ phát triển không ngừng công ty đã mạnh dạn
đầu tư nhiều dây chuyền công nghệ hiện đại để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của
khách hàng và vững bước trong tiến trình hội nhập AFTA. Cụ thể công ty đã đầu tư
những dây chuyền công nghệ tiên tiến hàng đầu của khu vực và thế giới:
- Dây chuyền kéo ống thép của Đài Loan
- Dây chuyền mạ tự động, mạ thuỷ lực tự động 3 lớp
- Dây chuyền sơn bột tĩnh điện của Thụy Sĩ
- Dây chuyền hàn sau mạ
Do vậy, sản phẩm của công ty ngày càng khẳng định được vị trí của mình trên thị
trường và được người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao. Như vậy, có
thể nhận thấy tổ chức sản xuất trong mỗi doanh nghiệp nếu được ứng dụng nhanh chóng
các tiến bộ khoa học, kĩ thuật thì nó cho phép sử dụng đầy đủ, hợp lý và tiết kiệm
nguyên, nhiên, vật liệu, sử dụng hợp lý công suất của thiết bị, máy móc và sức lao động

góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.6. Đặc điểm của bộ máy tổ chức quản lý.
Bộ máy quản lý là đầu tầu lãnh đạo toàn công ty. Bộ máy quản lý gọn nhẹ thể hiện hiệu
quả trong quản lý và là mục tiêu hướng tới của công ty. Nó có ưu điểm là vừa giảm bớt chi phí
quản lý, vừa giảm bớt gánh nặng cho ban giám đốc. Hơn nữa bộ máy quản lý gọn nhẹ không kồng
kềnh, không chồng chéo tạo ra một cơ chế quản lý thông thoáng cho việc thực hiện và giải quyết
công việc. Nó là đường đi của các luồng thông tin vừa nhanh vừa chính xác và là một nhân tố quan
trọng trong điều hành sản xuất kinh doanh. Nhận thức được tầm quan trọng đó công ty đã chia cơ
cấu tổ chức bộ máy quản lý thành 9 phòng ban được phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quyền hạn,
mối quan hệ công tác giữa các bộ phận và các cá nhân với nhau đảm bảo cho quá trình sản xuất
được tiến hành cân đối, nhịp nhàng và liên tục. Cụ thể:
Hình 1: Bộ máy tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh.


Giám
đ
ốc

PGĐ
k
ỹthuật

PGĐ điều
hành

PGĐ
kinh

Kế
toán



Chức năng của các bộ phận quản lý.
- Ban giám đốc gồm: Giám đốc và ba phó giám đốc điều hành hoạt động
sản xuất kinh doanh của toàn công ty theo chế độ, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Kế toán trưởng tổ chức việc thực hiện công tác kế toán thống kê trong
công ty, cung cấp thông tin để phân tích kinh tế giúp ban giám đốc xây dựng chiến lược
phát triển của công ty trước mắt cũng như lâu dài, đồng thời ra các quyết định phù hợp
của các nhà đầu tư, các chủ nợ
Giúp việc cho ban giám đốc có các phòng ban:
-Phòng tổ chức điều hành sản xuất : Tổ chức quản lý, bố trí về lao động
nhân sự trong toàn công ty, các chế độ đối với người lao động, xây dựng và điều hành kế
hoạch sản xuất đảm bảo cung cấp vật tư đầu vào kịp thời, quản lý về an toàn sản xuất,
thiết bị cho công ty.
-Phòng thị trường: Xác lập và thực thi kế hoạch bán hàng, đề ra các chiến
lược kinh doanh và phát triển thị trường với các công cụ, các chính sách bán hàng khác
nhau như: quảng bá sản phẩm, xúc tiến bán, phát triển thương hiệu, trang trí sản phẩm.
Phòng này chịu sự điều khiển trực tiếp của giám đốc và phó giám đốc kinh doanh.
-Phòng đầu tư phát triển: Nghiên cứu, xây dựng chiến lược đầu tư ngắn hạn
và dài hạn, đề xuất chuẩn bị dự án và đôn đốc thực hiện quá trình đầu tư mới, triển khai
các kế hoạch về sản phẩm mới.
-Phòng kế toán tài chính và thống kê: chịu sự điều hành và giám sát của kế
toán trưởng. Nhiệm vụ chính là tổ chức hạch toán kế toán theo chế độ nhà nước quy định
và tổng hợp số liệu, cung cấp thông tin cho nhu cầu quản lý. Hàng năm xây dựng kế
hoạch tài chính, cân đối nguồn vốn để đảm bảo cho mọi hoạt động trong công ty, tính
toán và phân tích hiệu quả kinh tế trong mỗi kì kinh doanh.
-Phòng quản lý kĩ thuật và công nghệ: phụ trách về công nghệ cho các dây
chuyền sản xuất, sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị đảm bảo cho hoạt động sản xuất
diễn ra liên tục.
-Phòng bảo đảm chất lượng sản phẩm: Xây dựng các tiêu chuẩn về lỹ thuật

cho sản phẩm, vật tư, kiểm tra chất lượng vật tư đầu vào, giám sát quá trình sản xuất ra
sản phẩm đến khâu cuối cùng của sản phẩm nhập kho.
-Phòng dịch vụ đời sống: Đảm nhiệm việc ăn uống, vệ sinh, y tế cho cán bộ
công nhân viên đồng thời chăm sóc cảnh quan môi trường trong toàn công ty.
-Phòng quản lý kho: Quản lý việc nhập, xuất, bảo quản vật tư, thành phẩm
trong kho thông báo tình hình dự trữ vật tư, thành phẩm cho phòng kế toán và phòng tổ
chức điều hành sản xuất.
-Phòng bảo vệ: Có chức năng bảo vệ nội bộ về trật tự an ninh trong và
ngoài khu vực sản xuất, phụ trách việc phòng cháy chữa cháy và dân quân tự vệ.
Ngoài ra còn có:
-Văn phòng giám đốc: có nhiệm vụ chăm lo, điều hành công việc hành
chính như đón khách, tổ chức hội họp, hội nghị, sắp xếp bố trí lịch làm việc cho giám
đốc, công tác văn thư lưu trữ
- Nhóm xuất khẩu: chịu trách nhiệm hoàn thiện các văn bản, giấy tờ cũng
như các thủ tục pháp lý để nhập, xuất sản phẩm hàng hoá, vật tư và tìm kiếm thị trường
để xuất khẩu.

Chức năng của các phân xưởng sản xuất chính.
- Phân xưởng lắp ráp: Đây là phân xưởng thục hiện một trong những công đoạn
cuối cùng của quy trình tạo nên sản phẩm. Phân xưởng lắp ráp có nhiệm vụ lắp ráp các
yếu tố của sản phẩm thành một sản phẩm hoàn chỉnh theo đúng kết cấu và thiết kế của
sản phẩm.
- Phân xưởng khung: Phân xưởng khung có chức năng uốn khung, chế tạo khung
bàn ghế theo thiết kế, tạo hình dáng, kích cỡ cơ bản ban đầu của sản phẩm.
- Phân xưởng mộc: Phân xưởng mộc có chức năng chế tác các sản phẩm mộc, các
thành phần gỗ của sản phẩm như mặt bàn, mặt giá đỡ
- Phân xưởng mạ: Phân xưởng mạ có chức năng mạ khung bàn, ghế, các yếu tố
bằng sắt, thép khác sau khi đã qua giai đoạn uốn khung.
- Phân xưởng xe: Sản xuất mặt hàng truyền thống của công ty là xe đạp Xuân Hoà.
- Phân xưởng phụ tùng: Sản xuất những phụ kiện của những mặt hàng nội thất.















Phần 2
Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm

I. Những nhân tố tác động đến hoạt động Sxkd
1.1. Thuận lợi.
- Công ty đã chuyển đổi cơ chế quản lý gọn nhẹ, có hiệu quả
- Dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại đủ sức cạnh tranh với sản phẩm
trong và ngoài nước.
- Sản phẩm của công ty là hàng hoá tiêu dùng, gắn liền với đời sống hàng
ngày và ngày càng cần thiết với nhu cầu của nhân dân đã mở ra cho công ty một thị
trường lớn đầy tiềm năng.
- Nội bộ công ty ổn định đạt được độ thống nhất ý chí và hành động cao,
kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường tích luỹ được nhiều bài
học quý.
1.2. Khó khăn:
- Tình hình cung lớn hơn cầu của sản phẩm nội thất dẫn đến cạnh tranh

quyết liệt.
- Ngay từ quý VI năm 2002, mở đầu là giá điện, các tháng đầu năm 2003
tiếp tục tăng cao, chưa kể lương tối thiểu từ 01/ 01/ 2003 tăng lên 290.000đ (tăng
38%so với cũ). Nếu tính áp giá mới với lượng vật tư sử dụng năm 2004 thì chi phí
sản xuất tăng gần 8% so với năm 2003.
Mặt khác, năm 2003 Việt nam chính thức thực hiện lịch trình AFTA với việc Nhà
nước cắt giảm hàng rào thuế nhập khẩu bảo hộ tất cả các sản phẩm của công ty từ 40-
50% xuống còn 20% và Chính phủ công bố đẩy nhanh tiến trình với thoả thuận từ 01/ 01/
2005 thuế nhập khẩu chỉ còn 0-5%. Cùng với APEC, tiến trình đàm phán tham gia tổ
chức thương mại thế giới WTO, Trung quốc- ASEAN, Trung quốc- Nhật bản - Hàn quốc
- ASEAN đang tới gần, sức ép thời gian đang đè nặng lên các doanh nghiệp Việt nam
nói chung và Công ty Xuân Hoà nói riêng.
II. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty.
Đối với mỗi doanh nghiệp công nghiệp nói chung và đối với công ty Xuân Hoà
nói riêng trong cơ chế quản lý mới, sản xuất tốt chưa đủ để khẳng định khả năng tồn tại
và phát triển của mình, mà còn phải biết tổ chức tốt công tác bàn hàng, tức là thiết lập các
kênh đưa sản phẩm hàng hoá từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng. Nhận thức được tầm
quan trọng ấy công ty đã thành lập các chi nhánh và các dại lý ở khắp các tỉnh, thành phố
trong cả nước nhằm phát triển và mở rộng thị trường trên cơ sở đánh giá tiềm năng to lớn
của thị trường trong nước. Công ty cũng xác định rõ thị trường chính của công ty là các
tỉnh phía Bắc và thị trường phía Nam là thị trường công ty đang tìm cách thâm nhập và
phát triển, ở mỗi thị trường công ty có những chính sách giá khác nhau. Đối với thị
trường chính công ty có mức giá tương đối ổn định và ít thay đổi, với thị trường thâm
nhập mức giá của công ty có thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh.
III. Các chính sách marketing của công ty.
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp phải quán triệt quan
điểm Marketing:"Chỉ sản xuất, kinh doanh những cái thị trường cần chứ không phải sản
xuất kinh doanh những cái mà mình sẵn có".Do vậy, công ty đã không ngừng đầu tư đổi
mới trang thiết bị hiện đại, cải tiến mẫu mã phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng
trong nước nói riêng và còn tham gia các hội chợ quốc tế hàng năm tổ chức ở Hàn Quốc,

Trung Quốc, Singapo, Hồng Kông nhằm quảng bá sản phẩm của công ty ra thị trường
thế giới.
3.1. Chính sách sản phẩm.
Mở rộng thị trường tức là đáp ứng và làm thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu đa
dạng và thường xuyên biến đổi của khách hàng. Do vậy, công ty luôn chăm lo và thực
hiện việc cải tiến, hoàn thiện cả về nội dung và hình thức của sản phẩm theo hướng ngày
càng đa dạng về kiểu cách, mẫu mã, kích thước.
Công ty Xuân Hoà cũng áp dụng chính sách chất lượng "mềm dẻo", một số sản
phẩm được sản xuất với 2-3 mức chất lượng với các mức giá tương ứng nhằm phù hợp
với sức mua của các phân đoạn thị trường theo chủ trương của Bộ công nghiệp.
3.2. Chính sách giá bán.
Có thể nói giá cả có vai trò cực kì quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm nhất là
trong khi thu nhập bình quân đầu người của nhân dân ta còn thấp. Định giá tiêu thụ có
liên quan trực tiếp đến lợi nhuận của công ty, do vậy việc nghiên cứu định giá sản phẩm
đã được công ty tính toán hết sức thận trọng trên cơ sở giá thành sản phẩm và sức mua
của thị trường. Đồng thời công ty cũng tính đến các yếu tố: Sức hấp dẫn của sản phẩm
đối với khách hàng, các chi phí về dịch vụ bán hàng, quảng cáo và các chi phí về chiêu
hàng, phân phối. Việc định ra giá bán linh hoạt, phù hợp với sự biến đổi của thị trường sẽ
giúp doanh nghiệp đạt được các mục tiêu kinh doanh của mình: tối đa hoá lợi nhuận,
thâm nhập và mở rộng thị trường Đối với thị trường chính công ty có mức giá tương
đối ổn định và ít thay đổi, với thị trường thâm nhập mức giá của công ty có thấp hơn so
với đối thủ cạnh tranh. Công ty đã thực hiện một số biện pháp nhằm giảm chi phí như:
-Phát động các phong trào thi đua sản xuất tiết kiệm nguyên vật liệu.
-Đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm phù hợp với điều kiện thiết bị công nghệ sẵn
có để tận dụng hết công suất của máy móc.
-Thực hiện phương thức "mua tận gốc, bán tận ngọn" để giảm đến mức tối
đa các kênh phân phối trung gian .
- Quản lý chặt chẽ từ khâu mua nguyên liệu đầu vào đúng số lượng, chủng
loại, chất lượng, đúng thời điểm để tránh lãng phí và giảm bớt chi phí bảo quản.
3.3. Chính sách phân phối.

×