Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

skkn Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thông qua hoạt động kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.51 KB, 34 trang )

Mục lục
TT Nội dung Trang
Mục lục 1
Phần I. Phần mở đầu 3
1 Lý do chọn đề tài 3
2 Mục đích nghiên cứu 4
3
Bản chất cần được làm rõ của sự vật, đóng góp sau
nghiên cứu
4
4 Đối tượng nghiên cứu 5
5 Phương pháp nghiên cứu 5
6 Giới hạn về không gian của đối tượng nghiên cứu 6
7 Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu 6
Phần II Phần nội dung 7
I Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn 7
1 Cơ sở lý luận 7
2 Cơ sở thực tiễn 8
2.1 Đặc điểm nhà trường 8
2.2 Đặc điểm lớp 8
2.3 Đối với giáo viên 8
2.4 Đối với phụ huynh 8
II Nội dung nghiên cứu 8
1
Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển toàn diện
của trẻ
8
1.1 Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển trí tuệ 8
1.2 Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục đạo đức 9
1.3 Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục thẩm mĩ 9
1


1.4 Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển thể lực 9
2 Thuận lợi và khó khăn 10
2.1 Thuận lợi 10
2.2 Khó khăn 10
3 Thực trạng 10
3.1 Sưu tầm làm đồ dùng đồ chơi 13
3.2 Sắp xếp tạo môi trường 14
3.3 Thay đổi hình thức giới thiệu bài gây hứng thú cho trẻ 15
3.4 Trò chuyện để có giờ kể chuyện hay 16
3.5 Khai thác kiến thức của các môn học khác hỗ trợ cho
hoạt đông kể chuyện
18
3.6 Tổ chức ôn luyện ở mọi lúc mọi nơi 19
3.7 Thực hiện tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh 19
4 Kết quả nghiên cứu 20
4.1 Kết quả nghiên cứu 20
4.2 Bài học kinh nghiệm 21
Phần
III
Phần kết luận, kiến nghị 22
1 Kết luận 22
2 Kiến nghị 23
Tài liệu tham khảo 24
2
Phần I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người
có ích, thành những con người mới. Một trong ba mục tiêu của cải cách giáo dục của
nước ta là: Làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu nhằm

tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao động làm chủ
tập thể, phát triển toàn diện nhân cách. Giáo dục mầm non đã góp phần thực
hiện mục tiêu trên. Ngày nay, chúng ta không chỉ đào tạo những con người có trí
thức có khoa học có tình yêu thiên nhiên, yêu Tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo
nên những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giầu mơ ước và sáng tạo.
Những phẩm chất ấy con người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non, lứa
tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp trong tương lai.
Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới,
chương trình giáo dục trẻ mầm non, trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các
hoạt động phù hợp sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt
động một cách chủ động tích cực, hồn nhiên vui tươi. Đồng thời, tạo điều kiện
cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các
hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm
“Học mà chơi – Chơi mà học” đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách toàn
diện về mọi mặt.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ có vai trò là một
phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ
giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua
cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong
môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng của các
sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng
nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày.
3
Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm
mĩ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ
nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh
hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với
cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ
dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng
đồng mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có

thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của mình với các
thành viên trong cộng đồng điều đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người.
Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ, thông qua các câu chuyện trẻ dễ dàng tiếp nhận
những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Trẻ từ 2
đến 3 tuổi có số lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ từ 22 tháng tuổi và 30
tháng tuổi vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại khác
như tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của
trẻ. Trẻ ở lứa tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành
động cụ thể mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và
các mối quan hệ. Tuy nhiên, mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ từ 2 đến 3
tuổi còn rất hạn chế và có nét đặc trưng riêng, trẻ sử dụng các từ biểu thị thời
gian chưa chính xác trẻ nhận thức về công cụ ngữ pháp và sử dụng nó còn rất
hạn chế. Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ từ 24 tháng tuổi đến 36 tháng
tuổi nói riêng, chúng ta cần phải giúp trẻ phát triển mở rộng các từ loại trong
các từ, biết sử dụng nhiều loại câu, bằng cách thường xuyên trò chuyện với trẻ
về những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hàng ngày, nói cho trẻ
biết các từ biểu thị về các đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng. Cho trẻ
xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu chuyện đơn giản qua tranh. Đặt các câu hỏi
cho trẻ giúp trẻ biết kể chuyện theo tranh bằng ngôn ngữ của trẻ. Chính vì vậy
nên tôi xin trình bày một số kinh nghiệm “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36
tháng tuổi thông qua hoạt động kể chuyện”.
2. Mục đích nghiên cứu:
4
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn
ngữ, khả năng trình bày có lô gíc, có trình tự, chính xác và có hình ảnh nội dung.
3. Bản chất cần được làm rõ của việc nghiên cứu, đóng góp sau khi tiến
hành nghiên cứu đề tài.
Để nâng cao khả năng phát triển ngôn ngữ qua kể chuyện cho trẻ từ 24 -
36 tháng tuổi. Ngoài những phương pháp về giáo dục mầm non đã có, tôi đã
không ngừng học hỏi, tham khảo tài liệu, báo chí, tập san . Qua các chuyên đề

đặc biệt là tâm sinh lí của trẻ để từ đó thu hút trẻ vào hoạt động giúp cho cô có
những phương pháp, biện pháp chăm sóc cho phù hợp.
- Giáo dục chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt.
- Hình thành và phát triển vốn từ cho trẻ.
- Dạy trẻ nói đúng ngữ pháp và nói các kiểu câu theo mục đích phát ngôn.
- Phát triển ngôn ngữ mạch lạc.
- Giáo dục văn hoá giao tiếp ngôn ngữ
3.1. Bản chất cần được làm rõ của việc nghiên cứu.
*Lựa chọn từ: Sau khi đã lựa chọn nội dung trẻ cần lựa chọn từ để diễn tả
chính xác nội dung mình cần thông báo, chọn từ giúp cho lời nói của trẻ rõ
ràng, chính xác và mang sắc thái biểu cảm.
* Sắp xếp cấu trúc lời nói:
- Sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả
trọn vẹn một ý, một nội dùng nào đó để giúp người nghe hiểu được. Đây là sự
sản xuất toàn bộ nội dung thông báo một cách có lôgic.
- Để diễn tả một ý, một nội dung ngắn gọn nào đó thì việc sắp xếp cấu trúc
lời nói là đơn giản đối với trẻ nhưng nếu yêu cầu trẻ kể lại truyện hay tự sáng tác
5
miêu tả những hiện tượng sự kiện xảy ra trong đời sống thì trẻ gặp khó khăn cần
phải luyện tập dần dần.
* Diễn đạt nội dung nói:
- Khi trẻ diễn đạt phải ngừng nghỉ ngắt giọng đúng, để giọng nói của trẻ
không ê a ậm ừ. Luyện cho trẻ tác phong khi nói thoải mái, tự nhiên, khi nói
nhìn vào mặt người nói. Trong trường mầm non tôi muốn đề cập tới việc luyện
cho trẻ ngôn ngữ mạch lạc thể hiện qua việc thực hiện hai nhiệm vụ dạy trẻ đối
thoại giữa trò chơi và độc thoại qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể.
3.2. Đóng góp sau khi nghiên cứu đề tài.
- Đóng góp một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học.
- Giúp trẻ nhà trẻ phát triển ngôn ngữ qua môn làm quen văn học hoạt động
kể chuyện.

- Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh tạo điều kiện cho trẻ học tập làm
quen với văn học đặc biệt về thể loại kể chuyện.
4. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi thông qua
hoạt động kể chuyện.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc các giáo trình, tài liệu có liên quan
đến phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ.
- Đọc sách báo, tạp chí, Internet và các phương tiện thông tin đại chúng về
các hình thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ.
- Phương pháp thực nghiệm: thực nghiệm các biện pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi thông qua môn văn học hoạt động kể chuyện.
6
- Phương pháp quan sát: Quan sát việc sử dụng ngôn ngữ của trẻ ở trường,
gia đình, ngoài xã hội để có cơ sở đánh giá thực trạng một cách toàn diện và có
những biện pháp thực nghiệm một cách tích cực và hiệu quả.
- Phương pháp trao đổi, trò chuyện: được thực hiện trao đổi thông qua phụ
huynh, các đồng nghiệp và thông qua trẻ để thu thập thêm thông tin cũng như có
những biện pháp đề xuất khả thi hơn.
6. Giới hạn về không gian của đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu đối tượng lớp nhà trẻ B 24-36 tháng trong trường MN Cao
Minh.
7. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu.
- Đề tài được tiến hành khảo sát trên: 20 trẻ lớp nhà trẻ B trường MN Cao
Minh.
- Thời gian nghiên cứu một năm học 2012-2013: từ tháng 9/2012 đến
tháng 5/2013.
7
Phần II. NỘI DUNG
I.Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn.

1. Cơ sở lý luận:
Theo điều 23 luật GDMN 2005 ban hành số 38/2005 QH11 ngày
14/6/2005 yêu cầu về nội dung và phương pháp GDMN đã ghi: Phương pháp
8
giáo dục mầm non chủ yếu là thông qua việc tổ chức các hoạt động vui chơi để
giúp trẻ em phát triển toàn diện,.
Theo chương trình Giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo Thông tư số :
17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo) cũng đã nêu rõ: Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát
triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên
của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ
emnhững chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng,
những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa
những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và
cho việc học tập suốt đời.
- Dùa vµo ®Æc ®iÓm ph¸t triÓn t©m sinh lý cña trÎ.
* Sinh lý:
Trong sự phát triển về ngôn ngữ của trẻ thì đây là giai đoạn bắt đầu của
ngôn ngữ chủ động. Do vậy, trong quá trình phát triển ngôn ngữ trẻ còn mắc
một số hạn chế sau:
+ Phát âm chưa chính xác hay ngọng chữ n – l; x – s; dấu ngã - dấu sắc;
dấu hỏi – dấu nặng.
+ Đồng thời do vài kinh nghiệm còn ít ỏi nên trẻ còn nhầm lẫn, khi tri giác
chủ yếu dựa vào những đặc điểm bên ngoài để nói.
+ Một số đặc điểm nữa là giai đoạn này tư duy trực quan cụ thể là chủ yếu,
nghĩa là lời nói luôn luôn gắn liền với mọi hành động đồ vật cụ thể thì trẻ mới
hiểu được.
* Tâm lý:
+ Trẻ thích giao tiếp với người xung quanh và có nhu cầu bằng trực quan,
cần giải đáp thắc mắc mà trẻ gặp phải, trẻ thích được người lớn khen, động viên

9
kịp thời, thích đồ chơi sặc sỡ về màu sắc và có âm thanh và một đặc điểm nữa là
trẻ rất hay bắt chước người lớn.
Trên đây là những cơ sở lý luận của đề tài và đã giúp tôi căn cứ vào đó để
tìm ra những biện pháp dạy trẻ sao cho thật phù hợp đối với bộ môn này.
2. Cơ sở thực tiễn:
2.1. Đặc điểm nhà trường:
Trường mầm non Cao Minh đã được công nhận trường chuẩn quốc gia.
Trường có gồm 10 nhóm lớp với 28 cán bộ giáo viên, nhân viên, trường nhiều
năm đạt tập thể lao động tiên tiến cấp Thị , chất lượng giảng dạy ngày một cao ,
được phụ huynh học sinh tin tưởng số lượng học sinh ra lớp ngày một đông.
2.2. Đặc điểm của lớp :
Năm học 2012 -2013 tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp nhà trẻ 24-
36 tháng tuổi B. Là lớp nhà trẻ 24-36 tháng tuổi với số cháu 20, trong đó 8 cháu
nữ, 12 cháu nam, với độ tuổi đồng đều , 100% trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn
nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn
ngữ, và tình cảm xã hội, cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc sống xung quanh
trẻ. Đó là một thuận lợi lớn để tôi rèn luyện phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ
thông qua hoạt động kể chuyện.
2.3. Đối với giáo viên :
Là một giáo viên có tinh thần trách nhiệm và đầy lòng nhiệt tình, yêu nghề
mến trẻ bản thân tôi xác định được mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ qua hoạt động kể chuyện về nghệ thuật sư
phạm và tìm ra các giải pháp hữu ích nhất .
2.4. Đối phụ huynh:
10
Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều, 100% phụ
huynh là nông thôn . Kiến thức dạy trẻ phát triển ngôn ngữ trong độ tuổi nhà trẻ
của các bậc phụ huynh còn nhiều hạn chế.
Chính vì vậy trong trường mầm non tôi muốn đề cập tới việc luyện cho trẻ

ngôn ngữ thể hiện qua việc thực hiện hai nhiệm vụ dạy trẻ đối thoại giữa trò
chơi, và độc thoại qua hoạt động kể chuyện. Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ được
thể hiện ở mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt hằng ngày của bé.
II. Nội dung vấn đề nghiên cứu
1. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển toàn diện của trẻ
1.1 Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển trí tuệ
- Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc phát triển trí tuệ cho trẻ.
- Ngôn ngữ là phương tiện nhận thức thế giới xung quanh, là cơ sở của mọi
sự suy nghĩ, là công cụ của tư duy.
+ Trẻ có nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh. Thông qua ngôn ngữ, lời
nói của người lớn, trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng và hiểu những đặc
điểm, tính chất, cấu tạo, công dụng của chúng và trẻ học được từ tương ứng
(từ và hình ảnh trực quan đi vào nhận thức của trẻ cùng một lúc). Ngôn ngữ giúp
trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh, từ ngữ giúp cho việc củng cố
những biểu tượng đã được hình thành.
+ Sự phát triển của ngôn ngữ giúp cho hoạt động trí tuệ, các thao tác tư
duy ngày càng được hoàn thiện, kích thích trẻ tích cực, sáng tạo hoạt động trí
tuệ.
- Có nhiều phương tiện để nhận thức thế giới xung quanh nhưng ngôn ngữ
là phương tiện nhận thức hữu hiệu. Thông qua ngôn ngữ trẻ nhận thức thế giới
xung quanh chính xác, rõ ràng, sâu và rộng. Ngôn ngữ giúp trẻ tích cực, sáng tạo
trong hoạt động trí tuệ do vậy việc phát triển trí tuệ không thể tách dời với việc
phát triển ngôn ngữ.
11
1.2. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục đạo đức.
- Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc hình thành và điều chỉnh những
hành vi của trẻ.
- Thông qua ngôn ngữ trẻ biết những gì nên, không nên…, qua đó rèn
luyện những phẩm chất đạo đức tốt ở trẻ, dần dần hình thành ở trẻ những khái
niệm ban đầu về đạo đức ( ngoan - hư, tốt - xấu ).

- Ngôn ngữ có tác dụng to lớn trong việc hình thành những phẩm chất đạo
đức tốt đẹp ở trẻ. Ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào việc trang bị cho trẻ
những hiểu biết về những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ
những tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống.
1.3. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục thẩm mĩ
- Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong quá trình tác động có mục đích, có
hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu đúng đắn cái
đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật, giáo dục cho trẻ
lòng yêu cái đẹp và năng lực tạo ra cái đẹp.
- Thông qua ngôn ngữ, trẻ nhận thức được cái đẹp ở thế giới xung quanh,
qua đó làm cho tâm hồn trẻ càng thêm bay bổng, trí tưởng tượng càng phong
phú; đồng thời trẻ càng yêu quý cái đẹp, trân trọng cái đẹp và có ý thức sáng tạo
ra cái đẹp.
- Thông qua ngôn ngữ văn học, trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong
ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành vi, cái đẹp trong cuộc sống. Có thể
khẳng định rằng ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào quá trình giáo dục cho
trẻ những tình cảm thẩm mĩ cao đẹp.
1.4 .Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển thể lực
Để phát triển thể lực cho trẻ cần kết hợp nhiều phương pháp khác nhau,
trong đó, ngôn ngữ đóng góp một vai trò quan trọng đáng kể. Trong các hoạt
12
động góp phần phát triển thể lực như các trò chơi vận động, các giờ thể dục,
trong chế độ ăn giáo viên đều cần dùng đến ngôn ngữ để hướng dẫn trẻ thực
hiện tốt những yêu cầu cần đạt.
Hoạt động nói năng liên quan đến các cơ quan hô hấp, thính giác, bộ máy
phát âm Quá trình phát âm là quá trình rèn luyện bộ máy cấu âm, rèn luyện
phổi, khí quản và các bộ phận khác của cơ thể.
Để có thể lực tốt cần có một chế độ vệ sinh hợp lí, ngôn ngữ cũng tham gia
vào quá trình chăm sóc vệ sinh để trẻ phát triển thể lực.
2. Thuận lợi và khó khăn.

2.1. Thuận lợi :
Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu về chuyên môn, xây dựng
phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi
điều kiện giúp tôi những nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học và đồ chơi của
các cháu.
2.2. Khó khăn
Do trình độ nhận thức không đồng đều, có một số cháu lúc đầu đến lớp vẫn
chưa phát triển được nhiều ngôn ngữ cần thiết mà độ tuổi cần đạt được, một số
cháu mới ê, a được 1 số từ ngữ đơn giản.
Kinh nghiệm sống của trẻ chưa có nhiều, nhận thức hạn chế dẫn đến tình
trạng trẻ dùng từ không chính xác, câu lủng củng. Trẻ nói, phát âm do ảnh
hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh trẻ nói tiếng địa phương.
Đa số phụ huynh làm nông nghiệp ít giao tiếp, ảnh hưởng của tiếng địa
phương và ít trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói, thường chiều theo ý của trẻ đây
cũng là một trong những nguyên nhân của việc chậm phát triển ngôn ngữ.
13
Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và hướng
dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và tập cho trẻ
làm quen văn học thể loại chuyện kể.
3. Thực trạng.
Thời gian đầu năm học trẻ mới bắt đầu đến trường chưa quen với môi
trường mới và phải xa bố mẹ, người thân trong gia đình nên trẻ đang còn hay
khóc và chưa chịu học, chịu chơi. Vì thế, việc cho trẻ phát triển vốn từ đang còn hạn
chế.
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2012 - 2013 tại lớp nhà trẻ B
trường mầm non Cao Minh như sau:
Xếp loại Tốt Khá Trung bình Yếu
Số
lượng
%

Số
lượng
%
Số
lượn
g
%
Số
lượng
%
20 4 20 6 30 4 20 6 30
* Trẻ xếp loại tốt là trẻ đã biết :
- Nghe hiểu
+ Trả lời câu hỏi : Ai đây? Cái gì đây ? Làm gì ? Làm thế nào?
Ví dụ: Con gà gáy thế nào?
+ Hiểu nội dung truyện ngắn đơn giản: trả lời các câu hỏi về tên truyện, tên
và hành động của các nhân vật trong truyện.
- Nghe nhắc lại các âm và các tiếng, các câu.
+ Phát âm rõ tiếng.
14
- Sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp.
+ Trẻ phát âm rõ ràng: Trẻ nói được câu đơn , câu có 5-7 tiếng, có các từ
thông dụng chỉ hoạt đông đặc điểm quen thuộc. Sử dụng lời nói và các mục đích
khác nhau.
Ví dụ: Con gì đây? Cái gì đây?
+ Trẻ nói to đủ nghe, lễ phép.
+ Kể lại đoạn truyện được nghe nhiều lần có gợi ý.
+ Thể hiện nhu cầu mong muốn và hiểu biết bằng 1, 2 câu đơn giản và câu
dài.
* Trẻ xếp loại khá là những trẻ biết:

- Nghe hiểu
+ Trả lời câu hỏi : Ai đây? Cái gì đây? Làm gì? Làm thế nào?
Ví dụ: Con gà gáy thế nào?
+ Hiểu nội dung truyện ngắn đơn giản: trả lời các câu hỏi về tên truyện, tên
và hành động của các nhân vật trong truyện.
- Nghe nhắc lại các âm và các tiếng, các câu.
+ Phát âm rõ tiếng.
- Sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp.
+ Trẻ phát âm rõ ràng: Trẻ nói được câu đơn , câu có 3 - 4 tiếng, có các từ
thông dụng chỉ hoạt đông đặc điểm quen thuộc. Sử dụng lời nói và các mục đích
khác nhau.
Ví dụ: Con gì đây? Cái gì đây?
15
+ Trẻ nói to đủ nghe, lễ phép.
+ Kể lại đoạn truyện được nghe nhiều lần có gợi ý.
* Trẻ xếp loại trung bình là những trẻ biết:
- Ở những trẻ này trẻ chỉ biết trả lời câu hỏi : Ai đây? Cái gì đây? Thế nào?
+ Hiểu nội dung truyện ngắn đơn giản.
+ Biết sử dụng lời nói vào mục đích khác nhau.
+ Trả lời các câu hỏi về tên truyện,tên và hành động của các nhân vật trong
truyện.
+ Trẻ phát âm còn chưa rõ
+ Trẻ chỉ nói được câu đơn, câu có 2-3 tiếng
* Trẻ xếp loại yếu là những trẻ biết:
- Ở trẻ này trẻ chỉ biết nghe hiểu.
- Chưa biết nghe nhắc lại các âm các tiếng trong câu.
- Trẻ phát âm chưa rõ tiếng.
- Chưa biết kể lại câu chuyện cùng cô.
Từ thực tế trên nên tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi thông qua giờ kể chuyện”.

* Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên.
- Vì chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ cho nên trong quá trình chăm sóc giáo dục hầu như giáo viên chưa chú ý đến
việc thay đổi nội dung và cách thức trò chuyện, tạo các tình huống cho trẻ thể
hiện những tình cảm và yêu cầu của mình bằng các âm các từ. Khi nói chuyện
16
với trẻ cô hay nói nhanh và không chú ý tới việc sửa sai lỗi về từ, âm, câu cho
trẻ.
- Giáo viên chưa chú ý luyện câu, từ cho trẻ, nhiều trẻ nói thiếu, nói lặp cô
không kịp thời điều chỉnh và sửa sai.
- Quá trình tổ chức giờ học cô chưa chú ý đến hệ thống câu hỏi để giúp trẻ
được tư duy và phát triển ngôn ngữ.
- Đối với trẻ thì hệ thống ngôn ngữ không được mở rộng do cô đưa hệ
thống câu hỏi đóng, trẻ hay nói câu thiếu các thành phần.
- Khả năng lĩnh hội thông tin của trẻ rất hạn chế nếu cô truyền đạt một câu
dài hoặc một sự việc có nội dung truyền tải nhiều.
Qua kết quả đó tôi miệt mài nghiên cứu tài liệu, các phương tiện thông tin
đại chúng đồng nghiệp và đưa một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ
24 đến 36 tháng tuổi thông qua giờ kể chuyện.
Với trẻ 24 đến 36 tháng tuổi rất thích nghe kể chuyện và rất hứng thú với
hoạt động này. Chính vì vậy mà tôi muốn thông qua giờ kể chuyện để phát triển
ngôn ngữ cho trẻ. Cụ thể các biện pháp thực hiện như sau:
3.1. Sưu tầm, làm thêm một số đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho giờ kể
chuyện.
- Mục đích: Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi thì việc sưu
tầm, làm thêm một số đồ dùng đồ chơi phục vụ cho giờ kể chuyện là không thể
thiếu. Chính vì vậy, tôi đã không ngừng sưu tầm, sáng tạo làm một số đồ dùng
đồ chơi phục vụ cho hoạt động kể chuyện.
- Nội dung và cách thức thực hiện:
17

+ Tôi tận dụng các nguyên liệu vật liệu có sẵn ở địa phương như: sách báo,
lịch cũ, ống lon, chai nhựa, xốp, vải vụn, cành cây khô, quần áo cũ nhằm phát
triẻn ngôn ngữ cho trẻ.
+ Dựa vào từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một
cách cụ thể mỗi chủ đề có một bộ đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và
vui chơi tôi cho các cháu vào hoạt đông chơi góc để trẻ tạo ra những đồ chơi
làm bằng lá cây, giấy vụn, hột hạt vẽ và tô màu những bức tranh, những hình
ảnh trẻ sưu tầm gợi mở cho trẻ tưởng tượng kể chuyện.
+ Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy, tôi hướng dẫn trẻ làm ra những con
rối thật xinh xắn từ câu truyện cổ tích trẻ học được, sáng tạo ra những nhân
vật trẻ thích.
Ví dụ: Tôi đã làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo từ những quả bóng và những
mảnh vải vụn để thành những con rối rất đẹp phục vụ cho các câu chuyện mà tôi
kể cho trẻ như: Truyện “ Đôi bạn nhỏ” dùng (Rối gà, rối vịt); Truyện “ Thỏ con
không vâng lời” dùng ( Rối gấu, rối thỏ mẹ, thỏ con); Truyện “ Cá và chim”
dùng ( Rối cá, rối chim)
+ Khi kể chuyện tôi dùng những tranh ảnh sáng tác màu sắc đẹp để gây
hứng thu cho trẻ nghe, xem để trẻ biết cách sử dụng và giữ gìn đồ chơi .
+ Tôi sử dụng các nguyên liệu mở như: thanh tre, bìa cứng, gỗ, hộp xốp,
đất để làm thành những con vật xinh xắn, trẻ cũng có thể sử dụng được để kể
chuyện theo ý thích.
Ví dụ: Từ bìa cứng, xốp làm những con vật ngộ nghĩnh, đa dạng màu sắc
để thu hút trẻ. Như khi kể truyện “Gà và vịt” để gây hứng thú cho trẻ tôi chuẩn
bị một sân khấu rối, các con rối được làm bằng vải vụn được cải biên màu sắc
rực rỡ.
3.2. Sắp xếp môi trường.
18
- Mục đích: Việc sắp xếp môi trường lớp học hợp lý sẽ làm tăng thêm hiệu
quả của hoạt động kể chuyện. Nhờ việc sắp xếp đồ dùng, đồ chơi hợp lý tạo cho
trẻ không gian hoạt động tích cực vì vậy sẽ giúp trẻ khắc sâu hơn về tác phẩm

mà trẻ sẽ được học.
- Nội dung và cách thức thực hiện.
+ Tôi luôn chú ý bố trí sắp xếp đồ dùng, đồ chơi hợp lý để tạo môi trường
học tốt và thoải mái cho trẻ .
+ Khi thực hiện các hoạt động làm quen văn học thể loại truyện kể mà
trọng tâm là dạy kể chuyện sáng tạo thì tôi luôn trưng bày các đồ dùng kể
chuyện, như khung sân khấu, sắp đặt tranh và các con rối sao cho trẻ dễ sử dụng,
kích thích trẻ hoạt động tích cực hơn.
Ví dụ: Giờ kể truyện “Đôi bạn nhỏ” tôi sắp xếp các đồ dùng trong lớp như:
● Treo tranh gà, vịt ở các góc.
● Sắp xếp mô hình gà, vịt sao cho trẻ dễ nhìn, dễ thấy.
● Tôi dã sử dụng môi trường hoạt đông một cách linh hoạt và khoa học.
● Trước giờ hoạt đông kể chuyện: Tôi cho trẻ xem đồ vật thật.
Ví dụ: Trước khi tôi kể câu chuyện “Cây táo” tôi cho trẻ quan sát quả táo
thật và giới thiệu với trẻ về quả táo nhờ vậy trẻ sẽ khắc sâu hơn, lâu hơn hình
ảnh quả táo.
● Trong giờ hoạt động kể chuyện: Tôi cho trẻ quan sát mô hình câu chuyện
tôi đang kể.
Ví dụ: Tôi cho trẻ quan sát mô hình câu chuyện “Cháu chào ông ạ”
Từ mô hình này sẽ giúp trẻ nhận ra các nhân vật trong truyện các tình tiết
diễn ra trong câu chuyện. Trẻ sẽ nhớ tên truyện, tên các nhân vật trong truyện.
19
Cũng từ mô hình này sẽ gúp trẻ nhớ lâu hơn nội dung câu chuyện. Do vậy, trẻ
biết tập kể lại câu chuyện cùng cô một cách rõ ràng lưu loát.
● Sau hoạt đông kể chuyện: Tôi treo tranh, hình ảnh các nhân vật có trong
câu chuyện trẻ vừa học ở xung quanh lớp.
Ví dụ: Trẻ vừa được nghe và tập kể lại câu truyện “ Con cáo” cùng cô.
Khi treo tranh, ảnh các con vật cáo gà, cún con, mèo con . Trẻ dễ dàng
nhận ra tên các các con vật mà trẻ vừa học. Trẻ biết gọi tên các con con vật có
trong câu chuyện đó nhờ vậy mà trẻ sẽ nhớ lâu hơn khắc sâu hơn câu chuyện trẻ

vừa học.
3.3. Thay đổi hình thức giới thiệu bài gây hứng thú cho trẻ.
- Mục đích: Để tránh sự nhàm chán cho trẻ, tôi luôn thay đổi hình thức giới
thiệu bài để gây được hứng thú nhiều hơn cho trẻ.
- Nội dung và cách thức thực hiện:
+ Tùy thuộc và nội dung bài dạy mà tôi lựa chọn các cách gây hứng thú
cho trẻ một cách linh hoạt nhẹ nhàng. Tôi có thể dùng rối, tranh, ảnh, bài hát,
câu đố, mô hình
● Sử dụng mô hình:
Ví dụ: Trong chủ đề “Cây và những bông hoa đẹp” tên bài dạy là kể
chuyện “ Cây táo” Tôi sẽ sử dụng mô hình vườn cây ăn quả để gây hứng thú và
dẫn dắt trẻ vào bài .
Hình ảnh minh họa:
20
● Sử dụng bài hát:
Còn khi ở chủ đề “Các con vật đáng yêu”, tên bài dạy kể chuyện “ Cá và
chim” Tôi sẽ cho trẻ hát bài “ Cá vàng bơi” để gây hứng thú cho trẻ.
● Sử dụng câu đố :
Sử dụng câu đố để gây hứng thú cho trẻ dẫn dắt trẻ vào câu truyện cũng là
cách tôi thường làm, để kích thích sự tò mò, suy nghĩ của trẻ.
Ví dụ: Ở chủ đề “ Các con vật đáng yêu”, tên bài dạy là “Vịt con lông
vàng” tôi đọc câu đố để cho trẻ đoán tên con vật.
(Con gì kêu vít, vít
Theo mẹ ra bờ ao
21
Chẳng khác mẹ tí nào
Cũng lạch bà lạch bạch)
Tổ chức hoạt động đa dạng dựa vào hoạt động trọng tâm .
Ví dụ: Khi trọng tâm là kể chuyện sáng tạo, tôi cho trẻ lựa chọn cho trẻ
trang phục, đồ dùng phù hợp với nội dung câu chuyện trẻ sẽ tập kể dựa theo

hình thức khác nhau.
● Sử dụng búp bê, rối:
Tôi đã sử dụng búp bê, rối để gây hứng thú cho trẻ và trẻ lớp tôi đã rất
thích.
Ví dụ: Ở chủ đề “ Bé và những người thân yêu của bé”, tên bài dạy kể
truyện “ Cả nhà ăn dưa hấu” tôi đã sử dụng búp bê sách làn hoa quả đến thăm
lớp.
● Sử dụng các hình ảnh động trên máy chiếu:
Ví dụ: Trong chủ đề “ Những con vật đáng yêu”, tên bài dạy kể truyện “ Cá
và chim” tôi gây hứng thú cho trẻ bằng cách cho trẻ đi thăm quan vườn bách thú
với những hình ảnh động của các con vật trên máy chiếu.
3.4.Trò chuyện để có giờ kể chuyện hay.
* Mục đích: Để có giờ kể chuyện hay tôi luôn giành thời gian tìm hiểu
nghiên cứu kỹ nội dung câu chuyện để tìm ra giọng kể phù hợp và đặt ra được
hệ thống câu hỏi kích thích sự hứng thú hoạt động của trẻ.
* Nội dung và cách thức thực hiện:
3.4.1. Chuẩn bị.
+ Nghiên cứu kỹ nội dung , tính cách nhân vật.
+ Tìm ngữ diệu phù hợp để kể chuyện diễn cảm .
+ Tập luyện và kể thử.
● Nghiên cứu kỹ nội dung , tính cách nhân vật.
22
- Trước khi kể cho trẻ nghe câu chuyện gì. Giáo viên phải nghiên cứu kỹ
nội dung câu chuyện và tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện mà cô sẽ
kể cho trẻ nghe. Khi cô đã hiểu được tính cách của từng nhân vật trong từng câu
chuyện thì khi cô kể chuyện sẽ làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn.
Ví dụ: Trong câu chuyện “ Thỏ con không vâng lời”, tính cách của thỏ con:
Ham chơi không vâng lời mẹ.
*Tìm ngữ diệu phù hợp để kể chuyện diễn cảm .
Khi đã tìm hiểu kỹ nội dung, tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện

thì giáo viên cần phải tìm ngữ điệu cho từng nhân vật trong câu chuyện đó phù
hợp để khi kể câu chuyện đó được diễn cảm hơn.
Ví dụ: Trong câu chuyện “ Chú vịt xám”
+ Giọng người dẫn chuyện: Đầm ấm, nhẹ nhàng
+ Giọng của vịt mẹ: Nhẹ nhàng, dịu dàng
+ Giọng của vịt con: Sợ hãi
23
+ Giọng con cáo: Gian ác
● Tập luyện và kể thử.
Khi đã tìm hiểu kỹ nội dung, tính cách, ngữ điệu của các nhân vật trong câu
chuyện mà cô sẽ kể thì cô cần tập luyện và kể thử nhiều lần trước khi kể chuyện
cho trẻ nghe. Thông qua việc kể thử, kể lại nhiều lần cô sẽ diễn đạt và thể hiện
tính cách của các nhân vật một cách rõ nét hơn.
3.4.2. Khi kể.
- Khi kể, kể lưu loát bằng giọng cao thấp quấn hút trẻ vào bài.
Ví dụ: Khi kể câu chuyện “ Dê con thích húc” giọng người dẫn chuyện
thấp hơn so với giọng các nhân vật trong truyện.
+ Giọng của dê con : Thách thức
+ Giọng của bác gà trống tây: Nghiêm túc, trịnh trọng
+ Giọng của lợn con: Khó chịu
+ Giọng của bác cừu: Mệt mỏi
+ Giọng của chó con: Tinh nghịch, lém lỉnh
- Cô kể kết hợp giảng giải nội dung câu chuyện: Khi cô kể xong câu
chuyện lần 1 để trẻ khắc sâu nội dung câu chuyện cô đặt câu hỏi đàm thoại kết
hợp giảng giải nội dung câu chuyện.
Ví dụ: Trong câu chuyện “Em bé dũng cảm” cô cần có hệ thống câu hỏi
như sau:
+ Ai đến trường tiêm phòng dịch cho các bé?
+ Bạn Huy đã nấp vào đâu?
+ Các bạn nhỏ hỏi cô giáo như thế nào?

24
+ Cô giáo nói gì với các bạn?
+ Ai là người xung phong vào tiêm đầu tiên?
+ Bạn Minh đã nói gì?
+ Bạn nào vào tiêm thứ hai?
+ Bạn An thấy thế nào?
+ Bạn Lan Chi tiêm có thấy sợ không?
+ Lúc này bạn Huy đã làm gi?
- Động viên trẻ làm động tác theo cô, tập kể lại câu chuyện cùng cô.
Khi trẻ đã hiểu được nội dung câu chuyện. Cô khuyến khích trẻ làm động
tác và tập kể lại câu chuyện cùng cô.
Ví dụ: Trong câu chuyện “ Dê con thích húc”.
+ Bắt chước động tác của dê: Trẻ đưa hai ngón tay trỏ lên đầu, người hơi
cúi( Động tác húc)
+ Bắt chước giọng điệu: Khi kể đến bác gà trống tây. Cô nói giọng trịnh
trọng để trẻ bắt chước theo.
3.5. Khai thác kiến thức của các môn học khác hỗ trợ cho hoạt động kể
chuyện.
- Mục đích: Để giờ kể chuyện được hấp dẫn và góp phần phát triển ngôn
ngữ cho trẻ thì việc kết hợp các lĩnh vực phát triển cũng được xác định là một
yếu tố không thể thiếu trong hoạt động học.
- Nội dung và cách thức thực hiện:
+ Lĩnh vực phát triển thẩm mỹ: Âm nhạc hoạt động bổ trợ đề tài: Câu
chuyện : “Đôi bạn nhỏ” cho trẻ hát bài hát “Đàn vịt con”.
25

×