Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân với công cuộc cải cách hành chính ở tuyên quang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.23 KB, 86 trang )

Mục lục
Trang
Mở đầu
1
Chơng 1: T tởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền
mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân"
6
1.1. Cơ sở hình thành 6
1.2. Sự hình thành t tởng Hồ Chí Minh về: Thực hiện chính quyền
mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân 20
1.3. Nội dung t tởng Hồ Chí Minh về thực hiện chính quyền mạnh
mẽ và sáng suốt của nhân dân 32
1.4. Thành công và những bài học từ việc tổ chức xây dựng chính quyền
mạnh mẽ sáng suốt của nhân dân trong kháng chiến, kiến quốc 54
Chơng 2: Công cuộc cải cách hành chính nhằm xây dựng
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt ở Tuyên
Quang hiện nay dới ánh sáng t tởng Hồ Chí
Minh
61
2.1. Những thành công và hạn chế của bộ máy chính quyền ở Tuyên
Quang hiện nay 61
2.2. Cải cách hành chính nhằm xây dựng chính quyền mạnh mẽ và
sáng suốt của nhân dân ở Tuyên Quang 64
2.3. Một số kiến nghị, giải pháp trong cải cách hành chính ở Tuyên Quang 87
Kết luận
96
Danh mục các công trình của tác giả
100
Danh mục tài liệu tham khảo
101
Phụ lục


104
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngời sáng lập, xây dựng và lãnh đạo nhà nớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Vì vậy, sự nghiệp và tên tuổi của Ngời gắn liền với sự ra đời và phát
triển của Nhà nớc Việt Nam mới - Nhà nớc công nông đầu tiên ở Đông Nam
á.
T tởng Hồ Chí Minh về tổ chức và xây dựng nhà nớc Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà là di sản vô cùng quý báu của Đảng và dân tộc ta, là cơ sở để
1
xây dựng nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay - một nhà nớc với hệ
thống chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân từ Trung ơng đến địa
phơng. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, dới sự lãnh đạo của Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nớc ta đã phát huy trí tuệ sáng suốt và sức mạnh
vô địch của toàn dân nhằm đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lợc.
Trên thực tế, chỉ lúc nào Đảng ta phát huy đợc trí tuệ sáng suốt, tập hợp đợc
sức mạnh của nhân dân thì mới xây dựng đợc chính quyền nhà nớc mạnh mẽ.
Trái lại, chính quyền nhà nớc trở nên yếu kém, kinh tế - xã hội lâm vào
khủng hoảng, trì trệ chính là khi đờng lối, chính sách phát triển kinh tế - xã
hội cùng phơng thức quản lý nhà nớc không đáp ứng đợc những yêu cầu, đòi
hỏi chính đáng lợi ích của đại đa số nhân dân, không khuyến khích đợc tài
năng và trí tuệ của dân tộc. Đó là bài học đắt giá trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện nhà nớc qua mỗi giai đoạn lịch sử.
Ngày nay, trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã và đáng tiếp tục quán
triệt t tởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân" nhằm xây dựng bộ máy chính quyền nhà nớc trong sạch,
vững mạnh; trong đó công cuộc cải cách hành chính là một biện pháp quan
trọng sẽ tăng cờng hiệu lực và hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp
trên thực tế.

Vì vậy, nghiên cứu sự ra đời, nội dung của t tởng Hồ Chí Minh về
"thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" và mối quan hệ
của nó với công cuộc cải cách hành chính nhằm xây dựng chính quyền nhà n-
ớc trong sạch vững mạnh hiện nay là một công việc có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc. Đó là nhiệm vụ đặt ra cấp bách cho những ngời nghiên cứu và
những ngời quản lý xã hội trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc.
2. Tình hình nghiên cứu
Hồ Chí Minh là ngời đầu tiên sáng lập ra Nhà nớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà - Nhà nớc Dân chủ đầu tiên ở Đông Nam á. Vì vậy, t tởng và hoạt
động lãnh đạo của Hồ Chí Minh về nhà nớc đã có nhiều tác giả nghiên cứu.
Trớc hết phải kể đến các tác giả: Nguyễn Ngọc Minh với: Nghiên cứu t tởng
Hồ Chí Minh về nhà nớc và pháp luật, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1998. Đây là
công trình nghiên cứu khá toàn diện về những t tởng và những đóng góp thực
tiễn của Hồ Chí Minh đối với nhà nớc và pháp luật của Nhà nớc ta trong cả hai
2
giai đoạn cách mạng Dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tiếp đó
là PGS.TS Hoàng Văn Hảo với: T tởng Hồ Chí Minh về nhà nớc kiểu mới - Sự
hình thành và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Tác giả cũng
đã nghiên cứu từ sự lựa chọn kiểu nhà nớc của Hồ Chí Minh đến những t tởng
của Hồ Chí Minh về Nhà nớc Việt Nam trong thời kỳ Cách mạng Dân tộc Dân
chủ và trong t hời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phần kết luận của tác giả
chiếm gần nửa số trang của tập sách có nhiều nghiên cứu mới về sự "kết hợp
đạo đức và pháp luật trong t tởng Hồ Chí Minh"; từ đó nêu ra sự vận dụng t t-
ởng Hồ Chí Minh về nhà nớc pháp quyền và từng bớc hoàn thiện nó trong quá
trình đổi mới ở nớc ta. Tiếp theo phải kể đến công trình chuyên khảo của PTS.
Nguyễn Đình Lộc, T tởng Hồ Chí Minh về nhà nớc của dân, do dân, vì dân,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 (sản phẩm của đề tài cấp Nhà nớc
KX.02.13). Đây là công trình nghiên cứu khá cơ bản t tởng Hồ Chí Minh về
nhà nớc của dân, do dân, vì dân và sự vận dụng của Đảng ta trong việc xây

dựng nhà nớc pháp quyền ở Việt Nam; Vũ Đình Hoè với: Pháp quyền nhân
nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2001.
Tiếp sau đó, có nhiều tác giả nghiên cứu về chủ đề này nh Phạm Ngọc
Anh - Bùi Đình Phong với: T tởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nớc pháp
quyền kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Lao động, 2003; Nguyễn Anh Tuấn (chủ
biên) với T tởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nớc kiểu mới ở Việt Nam,
Thành phố Hồ Chí Minh, 2003; Bùi Ngọc Sơn với T tởng lập hiến Hồ Chí
Minh, Nxb Lý luận chính trị, 2004. Một số giáo trình t tởng Hồ Chí Minh của
Hội đồng lý luận Trung ơng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng
có bài về t tởng Hồ Chí Minh về nhà nớc của dân, do dân, vì dân; các tác giả:
Dơng Xuân Ngọc có bài "Quá trình xây dựng thể chế nhà nớc của dân, do
dân, vì dân theo t tởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, 2-2004; Lê
Mậu Hãn với Hồ Chí Minh kién lập nhà nớc pháp quyền Việt Nam, Tạp chí
Lịch sử Đảng, 5-2005, GS. Trần Xuân Trờng với: Đảng cầm quyền và nhà nớc
của dân, do dân, vì dân; PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc với: 60 năm xây dựng
nhà nớc cách mạng của dân, do dân, vì dân, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9
năm 2005; PGS.TS Lê Văn Tích (chủ biên) với: Đa t tởng Hồ Chí Minh vào
cuộc sống, Nxb Chính trị quốc gia, 5-2006; GS.VS Nguyễn Duy Quý với bài:
Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thành tựu và những vấn đề
cần giải quyết, Tạp chí Thông tin công tác t tởng lý luận, 7-2006; GS.TS
Hoàng Chí Bảo với: Dân chủ xã hội chủ nghĩa - mục tiêu và động lực của đổi
3
mới; GS. TSKH Đào Trí úc với bài: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Báo Nhân dân số ra ngày 8-8-2006; Nguyên
Thủ tớng Phan Văn Khải với: Sự điều hành năng động của Chính phủ là một
nhân tố đa tới những thành tựu đổi mới và phát triển đất nớc, Báo Nhân dân
số ra ngày 17-6-2006.
Các công trình trên đây đã nghiên cứu ngày một rõ t tởng Hồ Chí
Minh và những đóng góp thực tế của Ngời trong việc xây dựng và lãnh đạo nhà
nớc kiểu mới ở Việt Nam, trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ và cách

mạng xã hội chủ nghĩa; phân tích sáng tạo của Hồ Chí Minh và tính cách mạng
của nhà nớc do Hồ Chí Minh sáng lập. Tuy nhiên do mục đích và yêu cầu đặt ra
cho mỗi công trình mà cha có tác giả nào nghiên cứu t tởng Hồ Chí Minh về
"thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" một cách độc lập
và trong mối liên hệ với công cuộc cải cách hành chính hiện nay. Vì vậy, trên cơ
sở tiếp thu những thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trớc, tôi lựa chọn vấn
đề: "Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân với công
cuộc cải cách hành chính ở Tuyên Quang", làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Hồ Chí Minh học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Nghiên cứu làm rõ quá trình hình thành, nội dung cơ bản t tởng Hồ
Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của dân" để từ đó
thấy rõ hơn công cuộc cải cách hành chính hiện nay là sự tiếp nối t tởng của
Hồ Chí Minh nhằm phát huy sức mạnh và trí tuệ của nhân dân để xây dựng
nhà nớc trong sạch, vững mạnh, đáp ứng đòi hỏi của công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu quá trình hình thành t tởng Hồ Chí Minh về "thực hiện
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân".
- Xác định nội dung chủ yếu của t tởng trên.
- Nghiên cứu mối liên hệ t tởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" với công cuộc cải cách hành
chính nhằm xây dựng nhà nớc của dân, do dân và vì dân trong sạch,
vững mạnh.
- Liên hệ với thực tiễn chơng trình cải cách hành chính nhằm xây dựng
chính quyền vững mạnh vì dân ở Tuyên Quang hiện nay.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4
Đề tài đi sâu nghiên cứu nguồn gốc, cơ sở và quá trình hình thành nội

dung t tởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân" và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta hiện nay vào trong công
cuộc cải cách hành chính nhằm xây dựng thành công nhà nớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa - một chính quyền trong sạch, vững mạnh thực sự của dân, do dân, vì
dân trên phạm vi quốc gia cũng nh ở địa bàn tỉnh Tuyên Quang hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phơng pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin và các
phơng pháp cụ thể: phơng pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử - lôgíc, điều tra
xã hội học.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn hoàn thành sẽ góp phần làm sáng tỏ t tởng Hồ Chí Minh về
"thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" và từ đó thấy rõ
mối liên hệ và những kinh nghiệm, bài học quý báu của t tởng ấy với công
cuộc cải cách hành chính hiện nay.
Luận văn là tài liệu quý giúp những ngời nghiên cứu và quản lý hiểu rõ
thêm một t tởng quan trọng của Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh và trí tuệ
toàn dân để xây dựng chính quyền trong sạch và vững mạnh - một đòi hỏi th-
ờng xuyên và cấp bách đối với Việt Nam trong tiến trình củng cố, xây dựng
đất nớc và hội nhập quốc tế. Luận văn là tài liệu tham khảo để giảng dạy trong
các trờng hành chính, trờng chính trị tỉnh và giúp chính quyền tỉnh Tuyên
Quang trong quá trình thực hiện Chơng trình cải cách hành chính ở địa bàn
tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 nhằm xây dựng hệ thống chính quyền Tuyên
Quang trong sạch, vững mạnh
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đợc kết cấu làm 2 chơng,7 tiết.
Chơng 1
t tởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh
mẽ và sáng suốt của nhân dân"
1.1. cơ sở hình thành

1.1.1. Cơ sở lý luận
Học thuyết Mác - Lênin về nhà nớc là di sản khoa học và cách mạng
cho những ngời cộng sản và các dân tộc thuộc địa đứng lên giải phóng khỏi
ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc; thực hiện chính quyền chuyên chính vô
5
sản có sức mạnh tập trung chống lại sự phản kháng của các thế lực thù địch,
đồng thời phát huy dân chủ thực sự để tổ chức tốt nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa, phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng nền giáo dục và văn hóa mới
cho nhân dân.
Trong tác phẩm "Nhà nớc và cách mạng - Học thuyết của chủ nghĩa
Mác về nhà nớc và những nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cách mạng"
V.I.Lênin viết:
Học thuyết đấu tranh giai cấp mà Mác vận dụng vào vấn đề nhà
nớc và vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa, tất nhiên phải đa tới chỗ
thừa nhận sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản, chuyên chính
của giai cấp đó, tức là một chính quyền không bị chia sẻ với ai hết, và
trực tiếp dựa vào lực lợng vũ trang của quần chúng. Giai cấp t sản chỉ
có thể bị lật đổ, khi nào giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị đủ
sức trấn áp sự phản kháng không thể tránh khỏi, tuyệt vọng của giai
cấp t sản, và đủ sức tổ chức hết thảy quần chúng lao động và bị bóc
lột để xây dựng một chế độ kinh tế mới.
Giai cấp vô sản cần có chính quyền nhà nớc, cần có sức mạnh
tập trung, cần có tổ chức bạo lực để trấn áp sự phản kháng của bọn
bóc lột và lãnh đạo quảng đại quần chúng nhân dân - nông dân, tiểu
t sản, nửa vô sản - trong công cuộc "tổ chức" nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa [22, tr.32].
Sự tổng kết và phát triển t tởng của Mác - ăngghen về nhà nớc và cách
mạng, hết sức kỳ tài của Lênin, đã cho chúng ta thấy đợc "vấn đề nhà nớc" đã
đợc trình bày ngày càng sáng tỏ theo tiến trình lịch sử, từ "Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản" 1848 tới Công xã Pari 1871 và đến "đêm trớc của cách mạng

vô sản xã hội chủ nghĩa" tháng 10 Nga năm 1917. Các đặc điểm về mô hình,
vai trò, chức năng chủ yếu của nhà nớc vô sản cùng những nhiệm vụ của giai
cấp công nhân trong cách mạng luôn đợc bổ sung bằng tổng kết thực tiễn phát
triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh
chính trị để giành lấy chính quyền.
Công xã Pari 1871 là hình thức chính quyền nhà nớc đầu tiên của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Tuy tồn tại không lâu, song nó đã để lại
cho phong trào cộng sản và công nhân thế giới một mô hình nhà nớc rất đặc
sắc về tính dân chủ trên nhiều phơng diện tổ chức và hoạt động của nó. Lênin
nhận xét:
6
Chính quyền mới, với tính cách là chuyên chính của tuyệt đại
đa số, đã có thể duy trì và đã đợc duy trì chỉ là nhờ vào sự tín nhiệm
của quần chúng đông đảo, chỉ bằng lôi cuốn một cách tự do nhất,
rộng rãi nhất và mạnh mẽ nhất toàn thể quần chúng tham gia chính
quyền Đó là chính quyền công khai đối với mọi ngời, làm việc tr-
ớc mặt quần chúng, quần chúng dễ dàng gần gũi nó, nó trực tiếp
sinh ra từ quần chúng, là cơ quan trực tiếp đại biểu cho quần chúng
nhân dân và ý chí của họ [21, tr.378].
V.I.Lênin còn chỉ rõ, trong điều kiện mới giai cấp vô sản càng phải kiên
quyết sử dụng bạo lực cách mạng, đập tan bộ máy của nhà nớc t sản; khả năng
giành chính quyền bằng phơng pháp hòa bình là rất quý nhng ít khi xảy ra.
Cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở những mắt khâu yếu nhất
của chủ nghĩa đế quốc. Nhiệm vụ lúc này là phải đập tan bộ máy hành chính,
quân sự quan liêu, những công cụ áp bức, bóc lột, đàn áp nhân dân; còn các cơ
quan khác nh cơ quan thống kê, ngân hàng, bu điện là những yếu tố cần
thiết cho quản lý nhà nớc mới thì "không thể và cũng không nên phá hủy bộ
máy đó đi. Phải giải thoát cho bộ máy đó khỏi phải phục tùng bọn t bản, phải
bắt bộ máy đó phục tùng các Xô viết vô sản, phải mở rộng bộ máy đó ra, làm
cho nó bao trùm mọi lĩnh vực và trong cả nớc" [23, tr.404].

Muốn cách mạng vô sản thắng lợi, giành chính quyền về tay nhân dân,
theo Lênin, còn phải xây dựng đợc đảng mác xít chân chính; đoàn kết và tập
hợp mọi lực lợng cách mạng mà nòng cốt là liên minh công - nông
Chủ nghĩa Mác giáo dục công nhân, là giáo dục đội tiên phong
của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và
dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ
chức một xã hội mới, đủ sức làm thầy, làm ngời dẫn đờng, lãnh tụ
của tất cả những ngời lao động và những ngời bị bóc lột để giúp họ
tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp t sản và
chống lại giai cấp t sản [22, tr.33].
Nhà nớc xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả đấu tranh cách mạng của
giai cấp vô sản và nhân dân lao động dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Cách mạng ở mỗi nớc, mỗi thời kỳ có những điều kiện và hoàn cảnh khác
nhau cho nên sự ra đời của các nhà nớc xã hội chủ nghĩa cũng nh việc tổ chức
7
nhà nớc kiểu mới có những đặc điểm khác nhau. Vì thế, mỗi nớc cần phải
chọn cho mình những phơng pháp và hình thức thích hợp.
Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh trên con đờng đi tìm con đờng cứu nớc
cứu đồng bào, Ngời đã gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin. Dới ánh sáng
Luận cơng về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin và tấm gơng
cách mạng tháng Mời Nga, Ngời đã tìm ra con đờng giải phóng cho dân tộc
mình và cho các dân tộc thuộc địa. Năm 1920, bằng nhiệt tình cách mạng
hiếm thấy và sự mẫn cảm chính trị đặc biệt, tại Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã
hội Pháp Nguyễn ái Quốc tán thành và ủng hộ Đảng mình đi theo con đờng
Quốc tế thứ ba - Quốc tế Cộng sản. Sự kiện đó đánh dấu bớc chuyển biến về
chất trong t tởng Nguyễn ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nớc đến chủ nghĩa Lênin,
từ ngời yêu nớc thành ngời cộng sản. Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng để
Nguyễn ái Quốc trở thành ngời sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và tiếp đó
là sáng lập ra nhà nớc cách mạng công nông đầu tiên ở Đông Nam á.
Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.

Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mời Nga và mô hình chính
quyền công nông binh đã đợc lãnh tụ Nguyễn ái Quốc vận dụng ngay từ đầu
năm 1930. Trong Chính cơng vắn tắt đợc thông qua tại Hội nghị thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, Ngời sớm vạch rõ "Chủ trơng làm t sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" [29, tr.1]. Để thực
hiện thành công cuộc cách mạng này, Nguyễn ái Quốc chỉ rõ những yêu cầu
về phơng diện xã hội, kinh tế, chính trị , trong đó:
Về phơng diện chính trị:
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến
b) Làm cho nớc Nam hoàn toàn độc lập
c) Dựng ra chính phủ công nông binh (TG nhấn mạnh)
d) Tổ chức ra quân đội công nông [29, tr.1].
Đây là ý tởng đầu tiên của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về một mô hình nhà
nớc mới ở Việt Nam, thay thế cho nhà nớc thực dân phong kiến đang thống trị
ở Việt Nam lúc bấy giờ.
Trớc khí thế đấu tranh sôi nổi của phong trào cách mạng trong nớc sau
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, điển hình là cao trào Xô Viết Nghệ -
Tĩnh (1930-1931) với việc áp dụng trực tiếp mô hình chính quyền Xô viết
Nguyễn ái Quốc sớm nhận định:
8
Đó là đầu tiên nhân dân ta nắm chính quyền ở địa phơng và bắt
đầu thi hành những chính sách dân chủ, tuy mới làm đợc trong một
phạm vi nhỏ hẹp. Xô viết Nghệ An bị thất bại, nhng đã có ảnh hởng lớn.
Tinh thần anh dũng của nó luôn luôn nồng nàn trong tâm hồn quần
chúng, và nó đã mở đờng cho thắng lợi về sau [32, tr.154-155].
Đầu năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nớc ngoài, lãnh tụ Nguyễn ái
Quốc về nớc trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Tháng 5 năm
1941, Nguyễn ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ơng 8. Sau khi phân tích tình
hình trong nớc và quốc tế, Ngời đã nhận định: "Vấn đề chính là nhận định
cuộc cách mạng trớc mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng

dân tộc; lập Mặt trận Việt Minh, khẩu hiệu chính là: đoàn kết toàn dân, chống
Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất" [32, tr.158].
Hội nghị đã có chủ trơng mới "không nên nói công nông liên hiệp và lập
chính quyền xô viết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ
dân chủ cộng hòa" [11, tr.127]. Chơng trình Việt Minh cũng nêu rõ: "sau khi
đánh đuổi đế quốc phát xít Nhật, sẽ lập nên chính phủ nhân dân của nớc Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy cờ đỏ, sao vàng năm cánh làm quốc cờ. Chính phủ
nhân dân của nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Quốc dân đại hội cử lên "
[29, tr.583].
Cuối năm 1944, khi thời cơ giải phóng dân tộc đến gần, Hồ Chí Minh
nói rõ hơn về mô hình một nhà nớc mới của cách mạng Việt Nam trong Th
gửi đồng bào toàn quốc, đó là một chính phủ đại biểu cho sự chân thành đoàn
kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. "Một cơ cấu nh thế mới đủ
lực lợng và uy tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì
giao thiệp với các hữu bang" [29, tr.505].
Nh vậy, từ mô hình Nhà nớc công nông binh chuyển sang mô hình Nhà
nớc Dân chủ Cộng hòa là một bớc chuyển kịp thời và sáng tạo của Hồ Chí
Minh, phản ánh đợc đặc thù thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam. Đó là một sáng tạo cách mạng về chính thể nhà nớc trong lý luận về nhà
nớc của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sự ra đời của Nhà nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức năng chuyên
chính của chính quyền nhân dân, là một đóng góp của Hồ Chí Minh đối với việc
thực hiện chức năng "chuyên chính" của nhà nớc trong lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về Nhà nớc của giai cấp vô sản.
9
Cơ sở để hình thành t tởng Hồ Chí Minh về xây dựng một chính quyền
mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân đợc bắt nguồn chính từ việc nhà nớc cách
mạng phải thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nớc dân chủ
vừa mới đợc thiết lập sau cách mạng tháng Tám. Trung thành với nguyên tắc
"dĩ bất biến, ứng vạn biến", Hồ Chí Minh trong thời kỳ đầu của cách mạng

tháng Tám ít dùng khái niệm: cách mạng vô sản, nhà nớc vô sản và nền
chuyên chính vô sản, thay vào đó là các khái niệm đồng nghĩa kèm theo cặp từ
"quần chúng", "nhân dân". Sau này khi điều kiện cho phép Hồ Chí Minh đã
giải thích rõ ràng hơn:
Về chuyên chính dân chủ nhân dân: chế độ nào cũng có
chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với ai? Dới chế độ thực
dân phong kiến, t bản, chuyên chính là số ít ngời chuyên chính với đại
đa số nhân dân. Dới chế độ dân chủ nhân dân, chuyên chính là đại đa
số nhân dân chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích
nhân dân, chống lại chế độ dân chủ nhân dân [33, tr.279].
Trong bài viết cho báo Pravđa (Liên Xô) "Cách mạng tháng Mời vĩ đại
mở ra con đờng giải phóng cho các dân tộc" nhân kỷ niệm 50 năm ngày cách
mạng tháng Mời Nga, Hồ Chí Minh viết:
Giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam ngày càng thấm
nhuần những lời dạy của Lênin và những bài học lớn của cách mạng
tháng Mời.
Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của
giai cấp công nhân, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự
lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nớc mình thì mới có thể đa
cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ
nghĩa đến thành công [35, tr.303-304].
Nh vậy, theo Hồ Chí Minh việc xây dựng, tổ chức và lãnh đạo chính
quyền dân chủ nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam phải dựa vào chủ nghĩa
Mác-Lênin và phải bảo đảm xây dựng chính quyền thật sự mạnh mẽ, chắc
chắn và sáng suốt của nhân dân. Sự sáng suốt trong lãnh đạo của Đảng với
chính quyền là nhân tố không thể thiếu để thực hiện tổ chức xây dựng một
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Cơ sở lý luận làm cho đờng
lối lãnh đạo của Đảng và các chính sách nhà nớc tỏ ra thật sự sáng suốt chính
10

là lý luận Mác-Lênin đợc vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở
Việt Nam.
Hồ Chí Minh khẳng định: Chính quyền nhà nớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà là nhà nớc dân chủ, nhà nớc của dân, do dân và vì dân; cơ sở xã hội
của nhà nớc là toàn thể dân tộc, nền tảng là liên minh công - nông, lao động
trí óc dới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Trong t tởng Hồ Chí Minh một nhà nớc mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân trớc hết là một nhà nớc thực sự đại biểu cho quyền lợi của nhân dân, thực
sự do nhân dân lập ra, đợc nhân dân ủng hộ. Đồng thời, đó phải là một chính
quyền nhà nớc tập trung, có bộ máy hành chính mạnh mẽ, quản lý điều hành
bằng pháp luật có hiệu lực, hiệu quả thực tếl; đội ngũ cán bộ công chức am
hiểu pháp luật, chuyên môn và có đạo đức phục vụ nhân dân.
Bằng sự vận dụng sáng tạo các nguyên lý, quan điểm của Học thuyết
Mác - Lênin về nhà nớc vào chỉ đạo và xây dựng thành công nhà nớc Dân chủ
cộng hòa ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ là một ngời Mác xít chân
chính, đã bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng sự thắng lợi trên thực
tiễn của cách mạng dân tộc dân chủ mở đờng lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
"những t liệu mà Mác ở thời mình không thể có đợc" [27, tr.465]. Hồ Chí Minh
đã tiếp nối ánh sáng của cách mạng tháng Mời Nga bằng nắng vàng mùa thu
cách mạng tháng Tám trên đất nớc Việt Nam, xua tan bóng đêm của chủ
nghĩa thực dân ngự trị trên đất nớc gần một thế kỷ.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Những công việc của chính quyền non trẻ sau Cách mạng Tháng Tám là
sự tiếp nối những công việc và thành quả của chính quyền "nớc Việt Nam mới
phôi thai" ở khu giải phóng trớc Cách mạng Tháng Tám. Không thể hiểu thấu
đáo cơ sở thực tiễn của t tởng "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân" nếu không tìm hiểu tiến trình xây dựng chính quyền ở giai đoạn
này.
Sang năm 1945, phong trào phát triển mạnh, căn cứ địa cách mạng đợc
mở rộng, hình thành một vùng rộng lớn gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng

Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng ngoại vi thuộc các
tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái
Trớc tình hình đó, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập khu giải phóng, cử ra
Uỷ ban chỉ huy lâm thời, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng. Tại
các địa phơng trong khu giải phóng, các Uỷ ban nhân dân cách mạng cũng đ-
11
ợc thành lập, do nhân dân cử ra, để thi hành 10 chính sách của Việt Minh.
Khu giải phóng là hình ảnh "nớc Việt Nam mới phôi thai", "các Uỷ ban nhân
dân cách mạng vừa lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tổng khởi nghĩa, vừa tập cho
nhân dân cầm chính quyền" [5, tr.134-135].
Tiến trình thành lập Chính phủ Việt Nam đợc Đảng ta và Hồ Chí Minh
chuẩn bị rất kỳ công, có khởi nguồn tự mục tiêu tranh đấu của Mặt trận Việt
Minh (tháng 5/1941) đặc biệt khi thời cơ "ngàn năm có một" xuất hiện, lãnh
tụ Hồ Chí Minh đã quyết định khai mạc Đại hội Quốc dân trong ngày 16-8-
1945 tại Tân Trào, huyện Sơn Dơng, tỉnh Tuyên Quang.
Đại hội đại biểu quốc dân Tân Trào mang tầm vóc lịch sử nh Quốc hội
đầu tiên của nớc Việt Nam mới.
Asimét L.A.Patti (Archimèdes L.A.Patti), một sĩ quan tình báo Mỹ có
mặt ở Hà Nội ngay sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi đã nhận xét rằng, khi
biết tin phát xít Nhật đã sụp đổ, Hồ Chí Minh "đã hành động một cách kiên
quyết và nhanh chóng vì ông phải bảo đảm chiếm đợc một chỗ đứng vững
chắc ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Ông Hồ biết rằng ông phải làm cho mọi ngời
thấy rõ đợc cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ vai trò lãnh đạo và phát
triển phong trào" [39, tr.146].
Quốc dân Đại hội Tân Trào là "một tiến bộ lớn trong lịch sử đấu tranh
giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay" [29, tr.553], Quốc dân Đại
hội Tân Trào với tính cách là cơ quan mang tính đại diện quyền lực cao nhất
của nhân dân tán thành chủ trơng Tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách
của Việt Minh, thông qua quyết định thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc
Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, thực hiện chức năng Chính phủ lâm

thời sau cách mạng tháng Tám thắng lợi.
Đây là một nét sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng
Cộng sản Đông Dơng và Tổng bộ Việt Minh trong việc phát huy ý chí, sức
mạnh dân tộc và tính hợp pháp của sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền độc
lập tự do bằng tổ chức Đại hội đại biểu quốc dân để đề ra quyết sách chuyển
xoay vận nớc bằng phơng thức khởi nghĩa vũ trang, xoá bỏ chế độ nô dịch
thực dân, kiến lập chế độ cộng hoà dân chủ với cơ quan mang tính quyền lực
cao nhất là Đại hội đại biểu quốc dân và Uỷ ban dân tộc giải phóng do Đại hội
đại biểu quốc dân lập ra.
12
Ngày 25/8/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Hà Nội. Theo đề nghị
của Ngời, Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tự cải tổ thành Chính phủ lâm
thời nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiều ủy viên Việt Minh trong ủy ban
dân tộc giải phóng đã tự nguyện rút ra để mời thêm nhân sĩ ngoài Việt Minh
tham gia. Sau này, Hồ Chí Minh ca ngợi: "Đó là một cử chỉ vô t, tốt đẹp,
không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên
trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải
học tập" [32, T.6, tr.160].
Việc Uỷ ban dân tộc giải phóng tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đáp
ứng yêu cầu: Làm sao cho Chính phủ lâm thời tiêu biểu đợc Mặt trận dân tộc
thống nhất một cách rộng rãi và đầy đủ, mời thêm một số nhân sỹ tham gia
chính phủ để cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân đã giao phó
cho. Và để Chính phủ sớm ra mắt quốc dân đồng bào trong ngày tổ chức lễ
tuyên bố độc lập của nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong "Tuyên cáo về
việc thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" (Việt Nam
dân quốc công báo, Số 1, ngày 29-9-1945), ngày 28-8-71945 có đoạn:
Chính phủ lâm thời không phải là chính phủ riêng của Mặt
trận Việt Nam độc lập Đồng Minh (Việt Minh) nh có ngời đã lầm t-
ởng. Cũng không phải là một chính phủ chỉ bao gồm đại biểu của các

chính đảng. Thật là một chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng
trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập đợc Quốc hội đề cử ra
một Chính phủ Dân chủ Cộng hòa chính thức.
Hỡi quốc dân đồng bào,
Vận mệnh ngàn năm của dân tộc ta đang quyết định trong lúc
này đây. Toàn thể quốc dân hãy khép chặt hàng ngũ, đứng dới lá quốc
kỳ, làm hậu thuẫn cho Chính phủ lâm thời, nắm chắc tự do độc lập,
cải tạo Tổ quốc bấy lâu đã bị bọn giặc nớc tàn phá [24, Tr.324].
Theo t tởng Hồ Chí Minh, một nhà nớc có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, tr-
ớc hết phải là nhà nớc hợp hiến, hợp pháp.
Sau khi giành chính quyền trong cả nớc, trớc tình hình biến chuyển hết
sức mau lẹ, Ban Thờng vụ Trung ơng Đảng, Tổng bộ Việt Minh quyết định
sớm tổ chức lễ Tuyên bố độc lập của nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. ngày
2/9/1945, tại Quảng trờng Ba Đình, trên lễ đài, các thành viên chính phủ ra
13
mắt trớc đông đảo quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ của dân tộc
lần đầu tiên xuất hiện trớc công chúng. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trớc quốc
dân đồng bào và thế giới: Nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. "Nớc
Việt Nam có quyền hởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nớc tự do
và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lợng,
tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy" [24, tr.327-328].
Tuyên ngôn độc lập là bản anh hùng ca chiến đấu và chiến thắng của
dân tộc Việt Nam, nêu cao ý chí đấu tranh của toàn dân để giữ vững quyền
độc lập, tự do, bảo vệ chế độ cộng hòa dân chủ Việt Nam. Quyền độc lập tự
do của dân tộc Việt Nam đợc khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập do Chủ
tịch Hồ Chí Minh công bố trớc quốc dân và quốc tế đã đặt cơ sở pháp lý quan
trọng đầu tiên về sự ra đời của nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và có giá trị
đóng góp vào sự phát triển nền pháp lý tiến bộ của loài ngời.
Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy của toàn thể

dân Việt Nam dới sự lãnh đạo của Đảng ta và Hồ Chí Minh nhằm xóa bỏ bộ
máy thống trị của đế quốc và bọn phong kiến tay sai, lập nên chính quyền
nhân dân trong cả nớc. Đây là sự thắng lợi của đờng lối của Đảng ta và t tởng
Hồ Chí Minh về quá trình hình thành một nhà nớc do nhân dân, vì nhân dân,
thay thế cho nhà nớc thực dân phong kiến đã tồn tại ở Việt Nam gần một thế
kỷ. Cuộc cách mạng tháng Tám đã lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc
thực dân, và "nền quân chủ mấy mơi thế kỷ", thành lập nớc Cộng hòa Dân
chủ, đa dân tộc Việt Nam bớc vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên Dân chủ
Cộng hòa, kỷ nguyên Độc lập, Tự do. Nói về ý nghĩa to lớn của cuộc Cách mạng
Tháng Tám, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách
mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc" [32, tr.159].
Tuy nhiên, nhà nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải "tiếp quản" một
di sản kinh tế - xã hội hết sức nghèo nàn, lạc hậu. "Giặc đói" đe dọa sinh
mạng của hàng triệu đồng bào. Nền tài chính quốc gia gần nh trống rỗng.
Về mặt xã hội, hậu quả của xã hội cũ rất nặng nề. Sự thất học của đại đa
số nhân dân cũng là một loại giặc "giặc dốt". Chỉ có 10% dân số biết chữ, hầu
hết ở bậc tiểu học. Số công chức có trình độ đại học và cao đẳng trong cả nớc
chỉ khoảng vài trăm ngời. Thực tế đó đã làm cho việc tổ chức hoạt động và
14
xây dựng chế độ mới của nhà nớc ta gặp nhiều, khó khăn. Các tệ nạn xã hội,
hủ tục và lối sống lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến, phát xít để lại là
gánh nặng cho nhà nớc cách mạng non trẻ.
Về chính trị, trong khi các lực lợng Đồng minh kéo vào nớc ta, các thế
lực phong kiến phản động, tay sai của thực dân Pháp đã tăng cờng hoạt động
trở lại. Hàng chục tổ chức chính trị, đảng phái đợc thành lập nh Đại Việt Cách
mạng Đảng, Việt Nam phục quốc, Việt Nam quốc xã Đảng do Trần Trọng
Kim, Nguyễn Văn Sâm, Ngô Đình Diệm cầm đầu. Đặc biệt có hai đảng phái
chính trị từ nớc ngoài trở về theo đội quân Tởng là Việt Nam cách mạng đồng
chí hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) ra mặt chống

phá chính quyền rất quyết liệt. Hoàn cảnh Việt Nam lúc này vô cùng khó
khăn.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng II - 1951, Hồ Chí Minh đã viết:
Nớc ta độc lập cha một tháng, thì phía Nam, quân đội đế quốc
Anh kéo đến. Chúng mợn tiếng là lột vũ trang của quân Nhật, nhng
sự thật chúng là đội quân viễn chinh giúp thực dân Pháp âm mu cớp
lại nớc ta.
Phía Bắc thì quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc kéo sang.
Chúng cũng mợn tiếng là lột vũ trang quân Nhật, nhng kỳ thật
chúng có ba mục đích hung ác:
- Tiêu diệt Đảng ta,
- Phá tan Việt Minh,
- Giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân
dân, để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng.
Đứng trớc tình hình gay go và cấp bách ấy, Đảng phải dùng mọi
cách để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và có
hiệu quả hơn, và có thời giờ củng cố dần dần lực lợng của chính quyền
nhân dân, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất [32, tr.161].
Theo t tởng chỉ đạo Hồ Chí Minh, chính trong những tình thế hiểm
nghèo cần phải sáng suốt, cần có đối sách mềm dẻo, nhân nhợng, hòa hoãn để
giữ vững và củng cố sức mạnh thống nhất của chính quyền nhân dân, thành
quả quan trọng nhất của cách mạng tháng Tám. Hồ Chí Minh hiểu rõ: "vấn đề
cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền, giành chính quyền đã
khó nhng giữ vững chính quyền càng khó hơn". Chính trong thời khắc cực kỳ
nghiêm trọng và đầy thử thách này, thiên tài Hồ Chí Minh và nghị lực cách
15
mạng phi thờng của dân tộc đã giúp Ngời nhạy bén và sáng suốt lựa chọn
những đối sách đúng đắn nhằm giải quyết kịp thời có hiệu quả những nhiệm
vụ vô cùng phức tạp, khó khăn; bình tĩnh chèo lái con thuyền cách mạng Việt
Nam vợt qua thác ghềnh, từng bớc tiến lên. Thời gian là một yếu tố vô cùng

cần thiết để "củng cố dần lực lợng của chính quyền nhân dân, củng cố Mặt
trận dân tộc thống nhất", nguồn sức mạnh của hệ thống chính trị dân chủ vừa
mới đợc thành lập; thời gian là sức mạnh, là lực lợng cho Mặt trận và Chính
quyền triển khai công việc tổ chức đoàn kết toàn dân và xây dựng "chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" trở thành một hệ thống chính
quyền thống nhất từ "Chính phủ toàn quốc" đến chính quyền địa phơng trong
cả nớc Việt Nam.
Sự kiện Đảng Cộng sản Đông Dơng tuyên bố "tự giải tán" là "để phá
tan tất cả những điều hiểu lầm ở ngoài nớc và trong nớc có thể trở ngại cho
tiền đồ giải phóng nớc ta". Những ngời muốn nghiên cứu về chủ nghĩa Mác -
Lênin "sẽ gia nhập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dơng".
Nh vậy, bằng việc công khai thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác
và tờ báo Sự thật cùng các chỉ thị, nghị quyết, trên thực tế Đảng ta vẫn tiếp tục
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và đờng lối chính sách của Đảng, giữ
vững đợc mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn
diện của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Tình hình những tháng năm đầu của cách mạng là thời kỳ chồng chất
những khó khăn thử thách với Đảng và chính quyền nhân dân trên mọi phơng
diện từ nội trị, kinh tế, quân sự, đến ngoại giao.
Với t cách là thợng khách của nớc Pháp, trong chuyến thăm Pháp năm
1946, Hồ Chí Minh là hiện thân của ý chí độc lập dân tộc, hoà bình và hữu
nghị của nớc Việt Nam mới, Ngời đã làm hết sức mình để cố tránh một cuộc
chiến tranh đổ máu cho hai dân tộc Việt - Pháp và kéo dài khoảng thời gian
hoà hoãn để củng cố chính quyền, chuẩn bị lực lợng cho cách mạng ở trong n-
ớc.
Trớc những câu hỏi có tính "cân não" về xu hớng cộng sản, ở một thời
điểm nhạy cảm, của các nhà báo Pháp phỏng vấn Hồ Chủ tịch, Ngời điềm tĩnh
trả lời:
Tất cả mọi ngời đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa.
Riêng tôi, tôi nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác. Cách đây 2000 năm,

16
Đức chúa Giêsu đã nói là ta phải yêu mến các kẻ thù của ta. Điều đó
đến bây giờ vẫn cha thực hiện đợc.
Còn khi nào thì chủ nghĩa Các Mác thực hiện thì tôi không thể
trả lời đợc. Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện đợc, cần phải có
kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi ngời đều đợc phát triển hết khả
năng của mình. ở nớc chúng tôi, những điều kiện ấy cha có đủ [30,
tr.272].
Qua đó, ta có thể thấy Hồ Chí Minh luôn đứng ở thực tại, cho dù trong
những hoàn cảnh ngặt nghèo, Ngời vẫn tỏa sáng một tầm nhìn bao quát,
những biến chuyển biện chứng của lịch sử vận động khách quan đều thông
qua những điều kiện cụ thể. ở đó con ngời không thể áp đặt ý muốn chủ quan
cho lịch sử đợc. Hòa bình, hợp tác thân thiện là những điều kiện để hai dân tộc
Việt - Pháp có thể thực hiện đợc, còn chế độ chính trị xã hội là do dân chúng ở
mỗi nớc tự quyết định. Lịch sử đã khẳng định về một "cơ hội hòa bình đã để
lỡ" là do tham vọng duy trì chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời của Chính phủ Pháp
lúc bấy giờ đối với vấn đề Việt Nam và Đông Dơng.
Lịch sử Cách mạng Việt Nam hiện đại ghi nhận rằng giai đoạn đầu
Cách mạng Tháng Tám 1945 đến 1946 là giai đoạn chính quyền nhân dân
chịu nhiều thử thách nặng nề, khó khăn và nguy hiểm nhất. Hoàn cảnh lịch sử
ra đời và những nhiệm vụ to lớn, những thử thách sống còn đòi hỏi chính
quyền non trẻ của nhân dân phải tỏ rõ là một hệ thống chính quyền phải mạnh
mẽ và sáng suốt của nhân dân, sát cánh cùng toàn thể dân tộc bằng sức mạnh
nội lực của đất nớc đã giải phóng quyết giữ vững quyền độc lập tự do của cả
dân tộc Việt Nam. Hệ thống chính quyền nhà nớc mới muốn thực sự là
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân thì nó phải đợc xây dựng
trên nền tảng dân chủ. Các cơ quan quyền lực nhà nớc của chính quyền
nhân dân phải do nhân dân bầu ra bằng cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ
thông đầu phiếu. Nhân dân thực sự sử dụng quyền dân chủ của mình để ứng
cử và bầu cử để chọn ra những ngời đủ đức, đủ tài gánh vác công việc chung

của chính quyền nhân dân.
1.2. sự hình thành t tởng Hồ Chí Minh về Thực hiện chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân
Sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nhiệm vụ của nhà nớc hết sức
nặng nề, một mặt phải khắc phục những khó khăn nghiêm trọng nh giải quyết
17
nạn đói, nạn dốt, thói xấu cùng những bất công, chia rẽ tôn giáo, mất dân chủ
trong xã hội do chế độ cũ để lại, mặt khác, chính quyền nhân dân, đặc biệt là
chính quyền cấp xã đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trong tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ của nhà nớc ở địa phơng. Tệ tham ô, lãng phí, công thần, "làm
quan cách mạng", lên mặt, nhũng nhiễu nhân dân đã sớm đợc Hồ Chí Minh
nhận dạng và cảnh báo qua những bài báo, bức th của Ngời đã cho công bố.
Chính những khuyết tật, những căn bệnh cả cũ lẫn mới đó đã làm cho khả
năng tập hợp sức mạnh và trí tuệ sáng suốt của nhân dân, của cấp chính
quyền cơ sở bị ảnh hởng nghiêm trọng đến sự tồn tại và uy tín cả hệ thống
chính quyền dân chủ mới.
Trên cơng vị ngời đứng đầu Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận
thấy sự cần thiết phải lãnh đạo, tổ chức xây dựng hệ thống chính quyền dân
chủ phải thật sự mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Chế độ dân chủ phải đợc
vận hành bằng nền hành chính dân chủ mới.
Sự ra đời t tởng "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân" là một quá trình nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của cách mạng Việt Nam
trong điều kiện Việt Nam từ một nớc nô lệ tiến lên một quốc gia độc lập. Đó
là sự thay đổi lớn, một cuộc cách mạng trong t tởng và thực tiễn chỉ đạo xây
dựng chính quyền dân chủ ở Việt Nam. Lịch sử Nhà nớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và lịch sử Hiến pháp Việt Nam gắn liền với t tởng lập hiến Hồ Chí
Minh.
Hiến pháp là nền tảng để xây dựng chế độ dân chủ hiện đại, Hiến pháp
là cơ sở pháp lý về sự tồn tại và phát triển của nhà nớc. Thực hiện một xã hội
tự do, dân chủ cho nhân dân và một chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của dân

cần phải có một Hiến pháp dân chủ. ý thức rất sớm vấn đề này, nên suốt 24
năm trên cơng vị Chủ tịch nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh
không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiến pháp Việt Nam mà Ngời còn
trực tiếp làm Trởng ban soạn thảo hai bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959.
Sự cần thiết phải xây dựng và tổ chức một chính quyền nhà nớc mạnh
mẽ, sáng suốt của nhân dân đợc Hồ Chí Minh nhận thức và thể hiện rất sớm từ
phiên họp đầu tiên (ngày 3/9/1945) của Hội đồng Chính phủ nớc Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Tại phiên họp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày với
các Bộ trởng Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Đó là những vấn đề cấp bách, thiết thực mà chính quyền mới ra đời
"cha quen với kỹ thuật hành chính, phải giải quyết trong hoàn cảnh đất nớc
18
còn chồng chất những khó khăn thiếu thốn" [30, tr.7]. Sau khi nghe Chủ tịch
Hồ Chí Minh trình bày, các Bộ trởng đã thảo luận và đều nhất trí tán thành
những đề nghị của Ngời. Việc đề xuất ra những chủ trơng, chính sách, nhiệm
vụ đúng đắn, kịp thời để giải quyết công việc, thể hiện bản lĩnh trí tuệ, năng lực
tổ chức, quản lý sáng suốt của Chính phủ, đặc biệt là ngời đứng đầu.
Cùng với các quyết sách mạnh mẽ để giải quyết nạn đói, nạn dốt, bãi bỏ
các thứ thuế bất công, thực hành: cần, kiệm, liêm, chính trong chiến dịch giáo
dục lại tinh thần nhân dân. Ngời tuyên bố: tín ngỡng tự do và lơng giáo đoàn
kết, Hồ Chí Minh đã đề cập ngay đến sự cần thiết: "Chúng ta phải có một hiến
pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng
tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mời tám
tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo,
dòng giống, v.v " [30, tr.8].
Tổng tuyển cử dân chủ, bầu ra Quốc hội, lập hiến, lập pháp là những
vấn đề căn bản để tổ chức xây dựng nhà nớc dân chủ có cơ sở pháp lý vững
chắc phù hợp với thông lệ pháp lý dân chủ quốc tế. Ngày 8/9/1945, Bộ trởng
Nội vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Chính phủ ký Sắc lệnh số 14/SL
quy định trong thời hạn hai tháng kể từ ngày ký Sắc lệnh này sẽ mở cuộc tổng

tuyển cử bầu Quốc hội. Sắc lệnh cũng quy định Quốc hội có toàn quyền ấn
định Hiến pháp cho nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 20/9/1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34/SL lập ủy ban dự thảo Hiến pháp của nớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, gồm các vị: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Đặng
Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lơng Bằng, Đặng Xuân
Khu. Ngày 26/9/1945, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 39/SL, thành lập Uỷ ban
dự thảo thể lệ tổng tuyển cử gồm chín ngời và Sắc lệnh số 51/SL, ngày
17/10/1945, quy định Tổng tuyển cử bằng cách phổ thông đầu phiếu v.v Đây
là những Sắc lệnh quan trọng nhằm xây dựng quyền làm chủ của công dân Việt
Nam đối với vận mệnh đất nớc qua cơ quan đại diện của mình là Quốc hội.
Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn
những ngời có tài, có đức, để gánh vác công việc nớc nhà.
Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ ai là ngời muốn lo việc nớc thì
đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử.
Không phân biệt gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp,
đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó.
19
Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là
dân chủ, đoàn kết.
Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ
cử ra chính phủ đó thật là chính phủ của toàn dân" [30, tr.133].
Các ban bầu cử đã đợc thành lập tại các làng xã do ủy ban nhân dân các
cấp trực tiếp đảm nhận.
Quá trình diễn ra Tổng tuyển cử diễn ra rất khẩn trơng trong điều kiện
vừa kháng chiến ở miền Nam, vừa phải giải quyết các nhiệm vụ nội trị, ngoại
giao, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là cuộc đấu tranh hết sức gay go,
phức tạp. Dựa vào các thế lực quân đội nớc ngoài có mặt trên đất nớc ta lúc
bấy giờ, Việt Quốc và Việt Cách ra sức chống đối việc tổ chức Tổng tuyển cử.
Việt Quốc đa ra yêu sách đòi chiếm giữ 1/3 số ghế đại biểu trong Quốc hội và
phải giữ các Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục, Bộ Thanh niên trong

Chính phủ, v.v
Chính phủ đã kiên quyết bác bỏ mọi yêu sách vô lý và mọi âm mu phá
hoại của Việt Quốc, Việt Cách, đồng thời kiên trì sách lợc nhân nhợng khôn
khéo nhằm tạo không khí thuận lợi cho Tổng tuyển cử. Đại diện của Việt
Minh và Việt Quốc, Việt Cách đã thơng lợng, lần lợt ký các văn bản ghi nhận
tinh thần, nguyên tắc và các biện pháp hợp tác trong đó có các quan điểm
quan trọng.
Coi trọng độc lập và đoàn kết trên hết, ủng hộ Tổng tuyển cử, đình chỉ
công kích lẫn nhau, mở rộng Chính phủ lâm thời v.v
Chính vì vậy, ngày 1/1/1946, Chính phủ lâm thời tự cải tổ thành Chính
phủ liên hiệp lâm thời, mở rộng thêm một số thành viên của Việt Quốc, Việt
Cách. Chính phủ liên hiệp lâm thời vẫn do Hồ Chí Minh giữ chức Chủ tịch
kiêm ngoại giao.
Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội lập hiến đầu tiên
của nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã diễn ra thắng lợi trong toàn quốc. 333
đại biểu đã trúng cử. Thắng lợi của Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 đánh dấu b-
ớc phát triển nhảy vọt về thể chế dân chủ của nớc Việt Nam mới.
Quốc hội mới họp phiên đầu tiên ngày 2/3/1946 đã chuẩn y lời thỉnh
cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng thêm 50 ghế cho Việt Nam Quốc dân
Đảng và 20 ghế cho Việt Nam Cách mạng đồng chí hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đợc Quốc hội nhất trí bầu làm Chủ tịch Chính
phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là chính phủ hợp hiến đầu tiên cho đại biểu
20
của nhân dân bầu ra, có đầy đủ t cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi
vấn đề nội trị và ngoại giao của Nhà nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Song song với cuộc đấu tranh và xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc cho
thể chế nhà nớc dân chủ của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ
lâm thời đã nhanh chóng tổ chức thực hiện một hệ thống chính quyền ở khắp các
địa phơng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Sự cần kíp phải có một chính quyền
mạnh mẽ và sáng suốt để lãnh đạo toàn thể dân tộc, đoàn kết toàn dân, thực hành

tự do dân chủ cho nhân dân khi nớc nhà đã tuyên bố độc lập là một đòi hỏi khách
quan và trọng yếu nhất để đảm bảo thành quả cách mạng tháng Tám.
Từ Uỷ ban dân tộc giải phóng tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời
(28/8/1945) , Chính phủ liên hiệp lâm thời (ngày 9/1/1946), Chính phủ kháng
chiến (ngày 2/3/1946) đến Chính phủ mới (ngày 3/11/1946) đã trải qua 4 lần
tự cải tổ và thành lập mới, Chính phủ Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn tỏ rõ:
Chính phủ sau đây phải là một chính phủ liêm khiết. Theo lời
Quyết nghị của Quốc hội, Chính phủ sau đây phải là một chính phủ
biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến
thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nớc nhà.
Anh em trong chính phủ mới sẽ dựa vào sức mạnh của Quốc
hội và quốc dân, dẫu nguy hiểm mấy cũng đi vào mục đích mà quốc
dân và Quốc hội trao cho [30, tr.427-428].
Theo t tởng Hồ Chí Minh về xây dựng và thực hiện chính quyền mạnh
mẽ và sáng suốt của nhân dân, thì hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nớc ở
Trung ơng (Quốc hội và Chính phủ) phải là một khối thống nhất với các cơ
quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng (Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
các cấp).
Ngay sau ngày ra mắt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
cho đăng trên Báo Cứu quốc, số 40 ngày 11/9/1945 bài: Cách tổ chức ủy ban
nhân dân. Trong đó xác định ủy ban nhân dân (làng, huyện, tỉnh, thành phố)
là hình thức chính phủ trong các địa phơng sau khi khởi nghĩa thắng lợi ủy
ban nhân dân tổ chức và làm việc theo một tinh thần mới, khác hẳn các cơ quan
do bọn thống trị cũ đặt ra. Cũng chỉ sau đó 2 tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa về tổ chức các Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính.
21
Điều 1 của Sắc lệnh đã nêu:
Để thực hiện chính quyền nhân dân trong nớc Việt Nam, sẽ đặt

hai thứ cơ quan: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính.
Hội đồng nhân dân do dân bầu ra theo lối phổ thông và trực
tiếp đầu phiếu là cơ quan thay mặt cho dân.
Uỷ ban hành chính do các Hội đồng nhân dân bầu ra là cơ
quan hành chính vừa thay mặt cho dân vừa đại diện cho Chính phủ.
ở hai cấp xã và tỉnh có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành
chính, ở các cấp huyện và kỳ chỉ có Uỷ ban hành chính. Cách tổ
chức, quyền hạn và cách làm việc của các cơ quan nói trên sẽ quy
định nh Sắc lệnh này [45, tr.216].
Sắc lệnh có 4 chơng với 115 Điều. Đây là một văn bản quy phạm pháp
luật có nội dung, đối tợng và phạm vi điều chỉnh nh Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân hiện nay. Việc nhanh chóng ban hành Sắc lệnh
trên để tạo ra cơ sở pháp lý cho việc tổ chức xây dựng và hoạt động thống nhất
của hệ thống chính quyền của địa phơng dới sự điều hành của Chính phủ
Trung ơng, cùng với các văn bản quy phạm pháp luật khác (chủ yếu dới hình
thức Sắc lệnh và lệnh) đợc ban hành để tổ chức điều hành hoạt động của chính
quyền non trẻ. Đó là những nội dung cơ sở cho sự ra đời của Hiến pháp Việt
Nam 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nớc Việt Nam mới. Trong đó, nhân dân
thực sự làm chủ quyền lực nhà nớc thông qua Nghị viện nhân dân và Hội đồng
nhân dân các cấp; đồng thời xây dựng một bộ máy hành chính mạnh mẽ nhng
không tiếm quyền của nhân dân.
Sự độc đáo và tính sáng tạo của Hồ Chí Minh không dừng ở lĩnh vực
chuẩn bị lập hiến, lập pháp mà cả trên lĩnh vực hành pháp, Ngời đã để lại cho
Đảng và Nhà nớc ta những t tởng chỉ đạo và kinh nghiệm vô cùng quý báu
trong tổ chức, điều hành chính quyền dân chủ nhân dân trong những ngày đầu
mới thành lập.
Hồ Chí Minh thông qua con đờng báo chí, th tín đã liên hoàn sự chỉ
đạo, điều chỉnh cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhân dân của các
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đồng thời sớm chỉ ra những căn bệnh cố
hữu trong chấp pháp thực hiện quyền lực công của bộ máy hành chính.

Dới nhiều bút danh, Hồ Chí Minh đã cho đăng các bài báo, bức th: Th gửi
các đồng chí tỉnh nhà; Chính phủ là công bộc của dân; Thiếu óc tổ chức - một
22
khuyết điểm lớn trong các ủy ban nhân dân; Sao cho đợc lòng dân; Bỏ cách làm
tiền ấy đi!; Th gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh huyện và làng)
Chính những vấn đề chính yếu Hồ Chí Minh đề cập trong các bức th,
bài báo trên đã góp phần rất quan trọng vào việc củng cố chính quyền trên cả
phơng diện xây dựng bộ máy, thống nhất đội ngũ cán bộ công chức các cấp và
cách thức thực hành quyền lực nhà nớc của dân, phụng sự nhân dân, phụng sự
Tổ quốc. Cho dù không phải là những văn bản quy phạm pháp luật song t tởng
của những bài báo, bức th do Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ra còn nguyên giá trị
cho việc xây dựng củng cố hệ thống chính quyền trong sạch, vững mạnh, cải
cách hành chính, chống quan liêu, tham nhũng đến tận ngày nay.
T tởng "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân đợc
Hồ Chí Minh với t cách trởng Ban soạn thảo Hiến pháp Việt Nam 1946 sử
dụng lần đầu tiên trong lời nói đầu của Hiến pháp nớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa năm 1946.
Đợc quốc dân giao cho trách nhiệm thảo luận Hiến pháp đầu
tiên của nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội nhận thấy rằng
Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của cách
mạng và phải xây dựng trên những nguyên tắc dới đây:
- Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai
cấp, tôn giáo.
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân [14, tr.7].
Là nguyên tắc hiến định tạo cơ sở pháp lý cao nhất cho quá trình tổ
chức, xây dựng và hoạt động của nhà nớc dân chủ, t tởng về xây dựng chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân mà nội dung cốt lõi là bằng hoạt
động thực tiễn để tổ chức hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nớc của nhân
dân thực sự đủ năng lực quản lý điều hành đất nớc có hiệu lực, hiệu quả, giải

quyết đúng đắn các nhiệm vụ chủ yếu đặt ra cho nhà nớc ở mỗi thời kỳ.
T tởng về tổ chức nhà nớc dân chủ mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân
ở Hồ Chí Minh không chỉ là một nguyên tắc chỉ đạo tổ chức xây dựng nhà n-
ớc trên cả 3 mặt công tác, tổ chức và cán bộ mà còn đợc Ngời thống nhất
trong việc sử dụng vào xây dựng tổ chức Đảng. Trong Báo cáo chính trị tại
Đại hội II (tháng 2/1951) Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu:
Đảng Lao động Việt Nam phải là một Đảng to lớn, mạnh mẽ,
chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Đảng Lao động Việt Nam
23
phải là ngời lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, trung thành của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam, để đoàn kết
và lãnh đạo dân tộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, để thực hiện
dân chủ mới. Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động
Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho
nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam [32, tr.174-176].
Cũng trong Báo cáo này Ngời đã nói rõ lý do về sự cần thiết phải tổ
chức và xây dựng Đảng ta thành một Đảng to lớn, mạnh mẽ và sáng suốt:
Ta có một Đảng to lớn, mạnh mẽ là vì có chủ nghĩa Mác -
Lênin, vì sự cố gắng không ngừng của toàn thể đảng viên, vì đợc
toàn quân và toàn dân thơng yêu, tin cậy, ủng hộ.
Vì vậy, tôi chắc rằng: chúng ta sẽ làm tròn nhiệm vụ nặng nề
mà vẻ vang là:
- Xây dựng một Đảng Lao động Việt Nam rất mạnh mẽ.
- Đa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
- Xây dựng Việt Nam dân chủ mới.
- Góp sức vào việc giữ gìn dân chủ thế giới và hòa bình lâu dài
[32, tr.176].
Sự nhất quán trong t tởng chỉ đạo ở Hồ Chí Minh về xây dựng cho đợc
những đặc tính biểu hiện của những tổ chức lãnh đạo và điều hành quản lý đất

nớc phải tỏ rõ là những tổ chức mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân, đủ lực lợng,
quyền hành cùng tài năng trí tuệ và bản lĩnh cách mạng để tranh quyền độc
lập cho dân tộc, phát triển đất nớc sánh ngang với các nớc dân chủ trên thế
giới.
Theo t tởng Hồ Chí Minh về tổ chức xây dựng một chính quyền mạnh
mẽ và sáng suốt của nhân dân, bên cạnh việc xây dựng thể chế bộ máy chính
quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ cần phải có đội ngũ cán bộ công chức đủ
đức, đủ tài và tinh thông nghiệp vụ. Suy cho cùng nhân tố con ngời, nhân tố
cán bộ công chức là nhân tố tạo nên sức mạnh và hiệu lực thực tế của bộ máy
các cơ quan chính quyền nhân dân có khả năng nhận thức rõ ràng và giải
quyết vấn đề đúng đắn, không sai lầm. Nhận thức rõ tầm quan trọng và vai trò
tích cực chủ động của đội ngũ cán bộ công chức với hoạt động của bộ máy
chính quyền các cấp, ngày 20/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh
ban hành (Quy chế công chức Việt Nam).
24
Trong lời nói đầu của Quy chế này, chúng ta lại thấy Chủ tịch Hồ Chí
Minh cùng Chính phủ Việt Nam rất coi trọng việc thực hiện Hiến pháp năm
1946 trong việc xác định Quy chế pháp lý cho công chức Việt Nam. "Điều thứ
nhất, chơng thứ nhất trong Hiến pháp đã nêu rõ: "nớc Việt Nam là một nớc
dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nớc là của toàn thể nhân dân".
Lời nói đầu của Hiến pháp về các nguyên tắc xây dựng chính quyền
cũng nhấn mạnh:
Phải thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Công chức Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm vụ
trong bộ máy nhà nớc của chính quyền nhân dân, dới sự lãnh đạo tối
cao của Chính phủ.
Vậy ngời công chức phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng
đờng lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc.
Đi đôi với nhiệm vụ trên, công chức Việt Nam cần có một địa
vị xứng đáng với tài năng của mình. Địa vị ấy đợc đề cao trong quy

chế này [24, tr.414-415].
Trong mục Nghĩa vụ, Quy chế này xác định:
Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với
Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm
những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động
của bộ máy nhà nớc.
Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính chí công vô t
[24, tr.414-415].
Nh vậy là, Quy chế Công chức Việt Nam năm 1950 đợc ban hành dựa
trên cơ sở pháp lý vững chắc là các nguyên tắc xây dựng chính quyền của
Hiến pháp năm 1946.
Mặt khác, sự ra đời của Quy chế Công chức Việt Nam đã phản ánh một
thực tế là tính tối cao của các nguyên tắc Hiến pháp cần phải đợc bảo đảm trớc
tiên qua con đờng chấp hành kỷ luật hành chính của đội ngũ công chức Việt
Nam. Việc thực hiện t tởng xây dựng chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của
nhân dân ở đây đã trở thành quy phạm pháp luật về quyền và nghĩa vụ công
chức Việt Nam.
Là ngời sáng lập nhà nớc Việt Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là
ngời có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp, Ngời đã hai lần làm
trởng Ban soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. "Từ tháng
25

×