MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: QUAN ĐIỂM VỀ BẢN TÍNH CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 5
1.1. Cơ sở xã hội và tiền đề nhận thức luận của quan điểm về bản tính con người
trong triết học Trung Quốc cổ đại 5
1.1.1. Cơ sở xã hội đối với việc hình thành bản tính con người trong triết học
Trung Quốc cổ đại 5
1.1.2. Tiền đề nhận thức luận của quan điểm về bản tính con người trong triết học
Trung Quốc cổ đại 12
1.2. Quan điểm về bản tính con người trong triết học Trung Quốc cổ đại 13
Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA QUAN ĐIỂM
VỀ BẢN TÍNH CON NGƯỜI TRONG HỌC TRIẾT HỌC CỦA MẠNH TỬ 17
2.1. Nội dung cơ bản của quan điểm về bản tính con người trong triết học của
Mạnh Tử 17
2.1.1. Nguồn gốc hình thành quan điểm về bản tính con người trong triết học của
Mạnh Tử 17
2.1.2. Nội dung cơ bản của quan điểm về bản tính con người trong triết học của
Mạnh Tử 22
2.2. Phương pháp giáo hóa tính thiện con người của Mạnh Tử 28
2.3. Những giá trị và hạn chế của quan điểm về bản tính con người trong
triết học của Mạnh Tử 33
2.3.1. Những giá trị của quan điểm về bản tính con người trong triết học của
Mạnh Tử 33
2.3.2. Những hạn chế của quan điểm về bản tính con người trong triết học của
Mạnh Tử 34
2.3.3. Ảnh hưởng của quan điểm về bản tính con người trong triết học của Mạnh Tử
đối với việc xây dựng đạo đức con người Việt Nam hiện nay 35
KẾT LUẬN 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO 41
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khi nghiên cứu lịch sử triết học Ph.Ăng ghen viết: “…Một dân tộc muốn đứng
vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận… Tư duy lý
luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà thôi. Năng lực
ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không
có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước” [13; tr.487- 488]
Bất kỳ một nhân vật lịch sử nào, một nhà tư tưởng nào cũng gắn với điều kiện
lịch sử xã hội mà họ được sinh ra, tồn tại và phát triển; họ là sự kết tinh của tinh hoa
đất nước, của dân tộc và mang dấu ấn của thời đại mà họ sống. Đúng như C.Mác nói:
“Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình,
dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong
những dòng tư tưởng triết học” [12;tr.156]. Các nhà triết học Trung Quốc nói chung
và Mạnh Tử nói riêng cũng không thể nằm ngoài quy luật trên. Để hiểu rõ con người,
cũng như tư tưởng triết học của Mạnh Tử, chúng ta không thể không xem xét đến yếu
tố lịch sử - xã hội thời đại đã ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng triết học của ông.
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ xã hội đang trải qua biến động lịch sử
lớn lao cả về kinh tế, chính trị, xã hội cũng như quyết liệt trong phân hóa giai cấp và
đấu tranh giai cấp. Thực chất đó là giai đoạn chuyển biến sâu sắc từ hình thái kinh tế -
xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn sang hình thái kinh tế - xã hội phong kiến sơ kỳ đang
lên: “Tiên Tần- đặc biệt là thời Xuân Thu - Chiến Quốc là ngọn nguồn đầu tiên một
cao trào của sự phát triển Trung Quốc, đã xuất hiện đông đảo các nhà tư tưởng triết
học thành cục diện “trăm nhà đua tiếng” [5;tr.433]. Thời kỳ mà tình trạng lễ nghi,
cương thường xã hội đảo lộn, đạo đức suy thoái; các nước chư hầu đua nhau động
binh gây chiến tranh, giành địa vị diễn ra hết sức khốc liệt, mệnh lệnh thiên tử không
được tuân thủ. Vì vậy vấn đề được đặt ra ở đây là: Tại sao đất nước đang ở trạng thái
yên bình lại trở thành loạn lạc? Xã hội đang loạn thì làm thế nào để trở lại yên bình?
Đây là câu hỏi do chính lịch sử đặt ra. Trong điều kiện lịch sử ấy, khắp Trung Quốc
các học thuyết mọc lên như nấm, vùng nào cũng có người đưa ra tư tưởng về bình và
loạn, tạo nên hiện tượng “bách gia tranh minh” và “bách gia chư tử”. Người ta ví xã
hội Trung Quốc lúc bấy giờ như là một vườn hoa lớn có rất nhiều học thuyết ra đời,
nội dung của chúng giống nhau có, khác nhau có. Các quan điểm, các học thuyết đều
2
đề cập đến vấn đề về bản tính con người, và phương pháp giáo hoá đạo đức con
người, cải biến xã hội từ trạng thái loạn thành bình. Khổng Tử chủ trương “nhân trị”.
Trong tư tưởng của mình, ông quan niệm mọi người “nhân chi sơ tính dĩ trực” là
trung dung, trung hòa, là đạo lớn của trời đất, mà đạo lớn của trời đất là chí thiện, còn
sự trung dung biểu hiện trong con người đó chính là trung thứ. Chính vì quan niệm
như thế, ông lý giải sự bất thường của xã hội bấy giờ bằng học thuyết Chính danh của
mình (chính danh định phận); Mặc Tử chủ trương “kiêm ái”, “thượng hiền”, “thượng
đồng”; Tuân Tử với quan điểm “tính ác”, “lễ trị và pháp trị”; Lão Tử chủ trương “vô
vi” đưa cuộc sống trở lại trạng thái tự nhiên chất phác “vô danh chi phát”, ở đó không
bị ràng buộc bởi những truyền thống đạo đức. Hay “Pháp trị” của Hàn Phi Tử và đặc
biệt là quan điểm về bản tính con người của Mạnh Tử.
Tìm hiểu tư tưởng triết học của Mạnh Tử nói chung và quan điểm về bản tính
con người của Mạnh Tử nói riêng là tìm hiểu ở khía cạnh nội dung tư tưởng trên cơ sở
kế thừa có phê phán và chọn lọc những tinh hoa của nhân loại trong các học thuyết
triết học, đặc biệt là triết học Trung Quốc. Bên cạnh đó, chỉ ra những giá trị và hạn
chế của quan điểm về bản tính con người của Mạnh Tử trong dòng chảy của lịch sử
triết học Trung Hoa cổ đại. Chính vì lý do đó, tôi chọn vấn đề: “Quan điểm về bản
tính con người trong triết học của Mạnh Tử” làm đề tài khoá luận của mình.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Liên quan đến vấn đề tìm hiểu tư tưởng triết học Mạnh Tử cũng như đề tài:
“Quan điểm về bản tính con người trong triết học của Mạnh Tử” đã có nhiều công
trình nghiên cứu, bàn luận dưới nhiều góc độ, chủ đề khác nhau.
Tiếp cận ở góc độ triết học:
− Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê, 2004, Đại Cương Triết Học Trung
Quốc, Nxb Tp.Hồ Chí Minh. Cuốn sách đã cung cấp cho chúng ta các quan điểm của
các nhà triết học Trung Quốc thời cổ đại về bản tính con người, đặc biệt là về quan
điểm về bản tính con người trong triết học của Mạnh Tử.
− PGS. TS Doãn Chính (chủ biên), xuất bản năm 1997, tái bản có sửa chữa
bổ sung năm 2004. Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
− PGS. TS Doãn Chính, 2005, Triết lý phương Đông – giá trị và bài
học lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3
− Nguyễn Hiến Lê, 1996, Mạnh Tử, Nxb Văn hoá, Tp. Hồ Chí Minh.
− Hà Thúc Minh, 1999, Lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb Tp. Hồ Chí
Minh.
− Nguyễn Đăng Thục, 2001, Lịch sử triết học Phương Đông, Nxb Tp.
Hồ Chí Minh. Tác giả đã trình bày những vấn đề về triết lý của Mạnh Tử, quan điểm
về bản tính con người, triết học chính trị của Mạnh Tử.
Tiếp cận ở góc độ văn học:
− Will Durant (bản dịch của Nguyễn Hiến Lê), 2002, Lịch sử văn minh
Trung Hoa, Nxb Văn hoá thông tin.
− Đàm Gia Kiện (bản dịch của Trương Chính – Phan Văn Các - Thạch
Giang), 1993, Lịch sử văn hoá Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
− Dương Lực, 2002, Kinh điển văn hoá 5000 năm Trung Hoa, Nxb.Văn hoá
thông tin.
Ngoài ra còn nhiều công trình khác nữa mà tác giả chưa có thời gian nghiên cứu,
tìm hiểu. Trên cơ sở các tài liệu đã thu thập đồng thời vận dụng những kiến thức học
được từ trước đến nay tác giả tiếp tục nghiên cứu và hệ thống lại, làm rõ hơn vấn đề:
“Quan điểm về bản tính con người trong triết học của Mạnh Tử”.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích: nhằm làm sáng tỏ quan điểm về bản tính con người trong triết học của
Mạnh Tử và những đóng góp của quan điểm này trong lịch sử triết học Trung Quốc.
3.2. Nhiệm vụ:
− Làm rõ cơ sở xã hội và tiền đề nhận thức luận của quan điểm về bản
tính con người trong triết học Trung Quốc cổ đại.
− Trình bày có hệ thống quan điểm về bản tính con người trong triết học
Trung Quốc cổ đại.
− Phân tích nội dung cơ bản trong quan điểm về bản tính con người
trong triết học của Mạnh Tử, từ đó chỉ ra những đóng góp cũng như hạn chế trong
quan điểm này.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
− Đối tượng nghiên cứu: Quan điểm về bản tính con người của Mạnh
Tử.
4
− Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng triết học của Mạnh Tử.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tác giả đã sưu tầm và tham khảo những tài liệu, sách báo, tác phẩm, bài viết có
liên quan đến quan điểm về bản tính con người trong triết học của Mạnh Tử, từ đó rút
ra quan điểm tính thiện cũng như những đóng góp của Mạnh Tử trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc.
Để thực hiện khoá luận này, ngoài phương pháp chung là duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, tác giả còn sử dụng những phương pháp cụ thể như: phương pháp
phân tích – tổng hợp, phương pháp lịch sử - logic, phương pháp đối chiếu- so sánh…
6. ĐÓNG GÓP CỦA KHÓA LUẬN
Khoá luận giới thiệu một cách có hệ thống nội dung quan điểm về bản tính con
người trong triết học của Mạnh Tử, từ đó chỉ ra những giá trị và hạn chế của tư tưởng
triết học Mạnh Tử trong dòng chảy triết học Phương Đông nói chung và triết học
Trung Quốc nói riêng.
Khoá luận có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo học tập cho sinh viên và
cung cấp bổ sung thêm tư liệu cho việc nghiên cứu của sinh viên khi nghiên cứu về
vấn đề này.
7. KẾT CẤU CỦA KHÓA LUẬN
Ngoài phần Mở đầu, Mục lục, Tài liệu tham khảo, khoá luận gồm có 2 chương, 5 tiết.
5
Chương 1
QUAN ĐIỂM VỀ BẢN TÍNH CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.1. Cơ sở xã hội và tiền đề nhận thức luận của quan điểm về bản tính con người
trong triết học Trung Quốc cổ đại
1.1.1. Cơ sở xã hội đối với việc hình thành bản tính con người trong triết học
Trung Quốc cổ đại
Các nhà nghiên cứu nổi tiếng của Trung Quốc cũng đã từng khẳng định không
có một quan điểm nào từ trên trời rơi xuống, mà nằm trong dòng chảy xuyên suốt của
lịch sử. Đúng như C.Mác nói: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là
sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô
hình được tập trung lại trong một trong những dòng tư tưởng triết học” [12;tr.156] .
Quá trình hình thành và phát triển của các quan điểm, trường phái triết học
Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc cũng không nằm ngoài hoàn cảnh lịch sử,
sự ra đời đây không phải là ngẫu nhiên hay từ ý muốn chủ quan của bất kỳ cá nhân
nào mà nó ra đời trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong đó không thể không
nói đến những hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - chính trị - văn hoá xã hội của chính
dân tộc Trung Hoa cổ đại. Bởi vì chính điều kiện lịch sử ấy đã ảnh hưởng không
nhỏ đến sự hình thành nội dung tư tưởng của các quan điểm, các trường phái triết
học nói chung và quan điểm về bản tính con người nói riêng. Trong rất nhiều vấn
đề được nói đến, quan tâm và tranh luận khá sôi nổi thời Xuân Thu - Chiến Quốc
đó chính là việc nghiên cứu về bản tính con người. Và trên cơ sở nào mà Mạnh Tử
đưa ra luận điểm của mình “bản tính con người là thiện”? Nội dung và phương
pháp giáo hoá trong quan điểm về bản tính con người của Mạnh Tử là gì? Từ đó
chỉ ra những đóng góp trong quan điểm về bản tính con người của Mạnh Tử trong
lịch sử triết học Trung Quốc.
Tư tưởng triết học Trung Quốc có mầm mống từ thời tiền sử, nhưng đến thời
Xuân Thu - Chiến Quốc mới thực sự trở thành một hệ thống, thời kỳ tan rã của chế độ
chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến sơ kỳ đang lên. Có thể nói rằng: “Tiên Tần -
đặc biệt là thời Xuân Thu - Chiến Quốc là ngọn nguồn đầu tiên một cao trào của sự
6
phát triển Trung Quốc, đã xuất hiện đông đảo các nhà tư tưởng triết học thành cục
diện trăm nhà đua tiếng” (Bách gia tranh minh) [5;tr.433].
Năm 781 trước Công nguyên, nhân vua Chu là U Vương phế hoàng hậu họ
Thân và thái tử Nghi Câu, phong Bao Tự làm hoàng hâu, cha Thân hậu là Thân hầu
liên kết với giặc Tây Nhung, tấn công Hạo Kinh, thiêu huỷ kinh đô nhà Chu, giết chết
U Vương dưới chân Ly Sơn. Sau đó một năm vì đất Thiểm Tây luôn bị giặc Tây
Nhung đe doạ, nên Chu Bình Vương phải dời đô về phía Đông, nhường căn cứ Quang
Trung cho Tần Tương Công. Xã hội Trung Quốc bước vào thời kỳ đặc biệt, đó là thời
Xuân Thu.
Thời Xuân Thu: sự chuyển biến sôi động được thể hiện qua các lĩnh vực sau:
Kinh tế: là thời kỳ đang chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Đồ sắt
phát triển khá phổ biến, kỹ thuật canh tác phát triển. Nền sản xuất công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Sự phân công lao động và chuyên môn hoá sản
xuất ngày càng cao. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của kinh tế đã có tác động
mạnh đến hình thức sở hữu ruộng đất, kết cấu địa vị kinh tế của các giai tầng.
Việc dùng bò kéo cày đã trở thành phổ biến. Trong sách Quốc ngữ có viết:
“Đồng thau để đúc kiêm kích, sắt để đúc quả cân…” Sự phát minh mới về kỹ thuật
khai thác và sử dụng đồ sắt đã đem lại những tiến bộ mới trong cải tiến công cụ và kỹ
thuật sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy đã giảm bớt sức lao động cơ bắp của con
người, diện tích sản xuất được mở rộng, năng suất lao động tăng.
Do sự xuất hiện của đồ sắt làm cho sản xuất nông nghiệp có sự phát triển vượt
bậc, tất yếu dẫn đến những thay đổi trong các quan hệ sản xuất cổ ruộng đất của công
xã làm ruộng tư. Sự phân hoá ruộng công diễn ra mạnh mẽ. Chế độ “tỉnh điền” dần
tan rã, sau đó xuất hiện chế độ tư hữu ruộng đất và còn được pháp luật nhà nước thừa
nhận và bảo vệ.
Theo chế độ “tỉnh điền” ruộng đất được chia cho nông nô theo chữ “tỉnh” có
chín ô, những nông nô cày cấy tám ô xung quanh, có trách nhiệm cày cấy ô ở giữa để
thu hoa lợi nộp cho triều đình. Khi chế độ tư hữu ruộng đất phát triển, số lượng ruộng
đất giữa các nông nô có sự chênh lệch, nhà nước đã ban hành chế độ thu thuế mới
đánh vào từng mẫu ruộng (gọi là thuế sơ mẫu), bãi bỏ hình thức thu thuế cũ. Nước đầu
tiên thi hành chế độ thuế mới là nước Lỗ vào năm 594 trước Công Nguyên.
7
Đồ sắt ra đời thay thế đồ đồng, không những chỉ thúc đẩy nông nghiệp phát
triển mà còn thúc đẩy thủ công nghiệp phát triển. Cuối thời Xuân Thu, nước Ngô
dựng lò luyện sắt, số thợ lên đến 300 người. Nước Tấn trưng mua sắt để đúc đỉnh
hình. Trong sách Chu lễ đã viết về sự phát triển của các ngành thợ chuyên môn rằng:
“thợ mộc chiếm bảy phần, thợ kim khí chiếm sáu phần, thợ thuộc gia chiếm năm
phần, thợ nề chiếm hai phần ”
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng phát đạt
hơn trước. Tiền tệ đã xuất hiện. Trong xã hội hình thành một lớp thương nhân giàu có,
danh tiếng như Phạm Lãi, Huyền Cao (nước Trịnh). Tuy nhiên, do thực trạng khó
khăn lúc bấy giờ cản trở lớn đến sự giao lưu, buôn bán nên việc kinh doanh không dễ
gì có thể làm được. Chính vì thế, thương nghiệp lúc này chưa thực sự phát triển, chưa
tác động to lớn đến đời sống kinh tế - xã hội.
Về chính trị xã hội: nếu như thời Tây Chu chế độ tông pháp, “phong hầu kiến
địa” vừa có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế, vừa có ý nghĩa về chính trị, ràng buộc về
huyết thống, có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ được một thời gian dài hưng
thịnh, thì đến thời Xuân Thu mặc dù vua các nước chư hầu theo chế độ phong kiến
của nhà Chu, dùng bọn cha anh để đảm nhiệm triều chính, phong cho họ những chức
tước như tướng quốc, khanh, đại phu… rất ít khi dùng người ngoài công tộc. Một số
cha anh được chia cho một khu trong nước để cai trị, họ cai trị như một ông vua nhỏ.
Nhưng thời Xuân Thu chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn trọng, đầu mối
các quan hệ về kinh tế, chính trị, quân sự giữa thiên tử và các nước chư hầu ngày càng
lỏng lẻo, huyết thống ngày càng xa. Thiên tử nhà Chu không còn được tôn trọng như
trước mà hầu như không có bất kỳ quyền uy gì với các nước chư hầu. Nhân cơ hội
này, các nước đua nhau động binh, mượn tiếng, lấy cớ khôi phục chế độ tông pháp
nhưng thực chất là bảo vệ, khẳng định mở rộng quyền lực chính trị, kinh tế của
mình, thôn tính các nước nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ thiên hạ. Mệnh lệnh thiên tử
không được tuân thủ, cương thường xã hội đảo lộn, đạo đức suy thoái nên các nước
chư hầu đua nhau động binh gây chiến tranh, giành địa vị diễn ra hết sức khốc liệt.
Thời Xuân Thu có khoảng 242 năm thì xảy ra 483 cuộc chiến tranh. Thời kỳ đầu Tây
Chu có hàng ngàn nước, cuối Tây Chu chỉ còn hơn một trăm nước, và trong số những
nước hùng mạnh nhất chỉ còn có năm nước, gọi là ngũ bá: Tề, Tấn, Tần, Sở, Tống.
Xuân Thu cũng là thời kỳ xung đột, đối lập giữa Nam và Bắc. Bắc gồm những nước
8
cũ trên lưu vực sông Hoàng Hà, văn minh rồi, phải ngăn chặn sự xâm lấn của các
nước phương Nam nhất là Sở- một dân tộc bán khai, không có lễ nghĩa, hung hăng,
hiếu chiến, chỉ muốn bành trướng. Như vậy là mất sự kết hợp về tinh thần của Trung
Quốc. Nếu Sở thời đó diệt được các nước phương Bắc thì văn minh Trung Hoa chắc
thụt lùi một thời khá lâu. Trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, chiến tranh giữa các
nước hết sức khốc liệt. Như Mạnh Tử viết “đánh nhau tranh thành, giết nhau thây
phơi đầy đường, người đang cho đất ăn thịt người, và người ăn thịt người”. [15;tr.26].
Trước cảnh lễ nghĩa, cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi đã khiến Tề Công
phải than rằng: “Nghĩ như vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con
chẳng ra con, ở trong tình cảnh hỗn loạn như thế, dẫu có lúa đầy kho, có giữ được mà
ăn chăng?”[11;tr.188-189]. Khổng Tử cũng từng thốt lên rằng: “Khắp thiên hạ đều
loạn lạc như nước đổ cuồn cuộn. Ai có thể thay đổi được?”[11;tr.288-289]. Theo
Khổng Tử, tất cả thảm trạng xã hội trên không phải nguyên nhân một sớm một chiều
mà nó đã âm ỉ, mục ruỗng từ lâu. Điều đó chứng tỏ chế độ lễ nghĩa nhà Chu trở thành
hình thức, sáo rỗng và giả tạo.
Thời Xuân Thu, mệnh lệnh thiên tử không còn được tuân thủ, trật tự lễ nghĩa,
kỷ cương xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế
lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên
miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ thị tộc nhà Chu, hình
thành xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước chế độ gia trưởng, xây dựng nhà
nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát
triển. Sự chyển biến sôi động đó của thời đại đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ
điểm, những trung tâm các “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những
hình mẫu của xã hội tương lai. Chính trong quá trình ấy đã sản sinh các nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh.
Thời Chiến Quốc, (457 trước Công nguyên – 221 trước Công nguyên) có thể
nói đây là thời đại loạn nhưng cũng là thời tư tưởng Trung Quốc phát triển rất mạnh
như đang lên men. Các cuộc chiến tranh và mâu thuẫn xã hội thời Xuân Thu vẫn ngày
càng diễn ra gay gắt và có phần phức tạp hơn. Người đời sau gọi đó là thời “bách gia
chư tử” các nước chư hầu đều “tranh thành dĩ chiến, tranh địa dĩ chiến” có nước bắt
hết các trai tráng, cả ông già phải tòng quân, ruộng đất không ai cấy cầy phải bỏ
9
hoang, gia súc chết gần hết, dân tình cực kỳ điêu đứng (Chiến Quốc sách – nhà Lã
Bối tái bản năm 1973).
Về kinh tế: thời Chiến quốc cũng đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nghề
luyện sắt đạt đến trình độ khá cao. Đồ dùng bằng sắt được sử dụng phổ biến. Tiền tệ
bằng kim loại cũng ra đời, thương nghiệp và các trung tâm buôn bán trao đổi hàng hoá
hưng thịnh. Tuy nhiên, do chiến tranh với tính chất tàn khốc, diễn ra triền miên giữa
các nước chư hầu đã đẩy cuộc sống của nhân dân lao động ngày càng cùng cực, đau
khổ: “Càng về cuối thời Chiến Quốc, tình cảnh càng bi đát”[1;tr.34]. Sự phát triển của
nền kinh tế hàng hoá và chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên đã làm cho công xã nông
thôn tan rã. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần trở thành quan hệ sở hữu
thống trị. Chế độ bóc lột mới bằng cách phát canh thu tô xuất hiện. Trong lòng xã hội
nảy sinh những yếu tố của quan hệ sản xuất mới, đó là chế độ phong kiến quận,
huyện. Mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, đã đẩy xã hội đến nguy cơ đảo lộn
nghiêm trọng. Chính vì thế, giai cấp thống trị đã tiến hành một số biện pháp nhằm
ngăn chặn nguy cơ đảo lộn xã hội. Đó là phong trào “biến pháp” diễn ra suốt thời kỳ
Xuân Thu - Chiến Quốc.
Xuất hiện rất sớm khi có nhà nước, tư tưởng hành pháp biểu hiện rõ nhất là từ
buổi đầu của nhà Chu. Thời kỳ đó người ta áp dụng hai phương pháp trị dân cho hai
tầng lớp xã hội khác nhau: một là lễ, lễ ghi lại các luật lệ quy định chi phối cách cư xử
của tầng lớp quý tộc được gọi là quân tử. Thứ hai là hình chỉ áp dụng cho tầng lớp còn
lại. Thời đó người ta chưa biết công dụng của việc phổ biến pháp luật cho nên hình
pháp được coi như là cái nghề riêng, đặc quyền của tầng lớp quý tộc, càng giữ bí mật
càng tốt. Do vậy, tư tưởng chuyên quyền độc đoán ở Trung Hoa xuất phát từ đây. Họ
coi pháp luật như là của báu ngăn tầng lớp quý tộc với thứ dân. Cho nên cuối thế kỷ
thứ VI TCN, người đầu tiên bàn về việc công bố pháp luật công khai là Quản Trọng.
Quản Trọng theo Nho sau đó chuyển lập trường sang Pháp. Ông cho rằng pháp luật
phải tôn trọng bốn điều: luật (điều luật định danh phận mỗi người trong xã hội); lệnh
(mệnh lệnh ban ra cho dân biết mà làm); hình (hình phạt để trừng trị người làm trái
luật và lệnh đã ban. Có mấy loại hình: phạt tiền, phạt tù có thời hạn, phạt chung thân,
lưu đày, chết). Chính (hành chính, chính trị để sửa cho dân theo điều hay lẽ phải).
Về chính trị - xã hội: đến thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc tư tưởng chính trị đã
được các nho gia bàn đến. Ví dụ như Khổng Tử nói: “công dụng pháp luật là dùng
10
pháp luật thì dân sợ mà theo nhưng dùng đức để giáo hóa dân dân tự giác thì hay
hơn”. Tuân Tử thì đẩy phạm trù lễ lên phạm trù pháp, ông cho rằng đây là cách bổ
khuyết sự khiếm khuyết của Nho gia. Đặc biệt, Nho gia đã góp vào cho pháp gia một
tài liệu cho tư tưởng pháp trị là học thuyết về chính danh. Tư tưởng pháp trị đó chính
là xác định bổn phận, danh phận của mỗi người, là phương tiện để kiểm nghiệm hành
vi của mỗi người, là căn cứ để xét thưởng phạt cho mỗi người.
Đến thời Chiến Quốc, tư tưởng pháp trị phát triển phong phú hơn, nó phát triển
thành các học phái. Trong đó có phái Trọng Thực (thực tế) của Ngô Khởi (thế kỷ IV
TCN). Ngô Khởi đã đưa ra tư tưởng biến pháp nhưng tư tưởng đó ra đời quá sớm, ông
thấy sự biến đổi của xã hội cần phải thay đổi xã hội cũ đi nhưng bị tầng lớp quý tộc cũ
phản đối và thủ tiêu.
Đến thời đầu Chiến Quốc, Thương Ưởng chủ trương pháp và biến pháp, thay đổi
pháp luật cho phù hợp thời thế. Pháp luật phải bổ sung và phát triển cho kịp với hoàn
cảnh thực tế. Có thể nói ông là kiến trúc sư về pháp trị. Chính ông giúp Tần Hiếu Công
thực hiện Pháp và biến pháp (từ 359-349 TCN). Thế nhưng, tư tưởng pháp trị chỉ đạt đến
đỉnh cao trở thành một hệ thống lý luận bởi nhà tư tưởng lỗi lạc là Hàn Phi. Hàn Phi đã
tổng hợp các phái Pháp gia trên lại thành một thể thống nhất là thế và thuật.
Đồng thời ông đã kế thừa tư tưởng Đạo của Lão tử, rút tỉa cái tinh túy trong
học thuyết Chính danh của Nho gia, tạo ra một sự tổng hợp, một sự cấu trúc giữa ba
học thuyết: Nho – Lão và Pháp của tư tưởng pháp trị, trong đó Nho là vật liệu xây
dựng, Pháp là bản thiết kế, Lão là kỹ thuật thi công của ngôi nhà độc đáo. Vì vậy, sách
của Hàn Phi Tử được coi là tập đại thành của Pháp gia. Sự ra đời của đế chế nhà Tần
chứng tỏ sức mạnh của việc sử dụng tư tưởng pháp trị của Pháp gia trong việc thống
nhất đất nước nhà Tần. Trong tư tưởng pháp trị quá đề cao hình pháp áp đặt từ bên
ngoài vào, nặng về hình nhẹ về đức, chính vì thế nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền (Nhà Tần) chỉ tồn tại rất ngắn (221 – 206 TCN), và sau này các nhà nước
phong kiến Trung Quốc đã rút ra bài học lịch sử.
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ đặc biệt trong lịch sử Trung Hoa cổ đại
- thời kỳ xã hội trải qua những biến đổi to lớn, sâu sắc và toàn diện; về kinh tế đang
diễn ra sự chuyển mình từ hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu suy tàn sang hình thái
kinh tế - xã hội phong kiến tập quyền.
11
Chiến Quốc là thời kỳ diễn ra rất nhiều các cuộc chiến tranh lớn nhỏ khác
nhau nhằm tranh giành quyền lực, đất đai giữa các nước chư hầu với nhau. Đây có thể
coi như là thời kỳ loạn nhất của Trung Hoa. Có nước bắt cả trai tráng, kể cả ông già
cũng phải tòng quân, ruộng đất không ai cày cấy phải bỏ hoang, gia súc chết gần hết,
dân tình cực kỳ điêu đứng.
Chiến tranh không còn giữ cái luật “quân tử”- không giết kẻ bại mà ta thường
thấy ở thời Xuân Thu, mà có tính cách dã man, rừng rú, tàn phá cho thật nhiều, đổ
máu cho thật nhiều, chiếm đất bắt dân lành làm nô lệ, còn lính địch thì giết hàng ngàn,
hàng vạn.
Các vua chúa, đại thần hầu hết trụy lạc, sống cực kỳ xa hoa trên xương máu
của dân. Dân chúng bị nạn bất tuyệt, già nửa phải đi lính, còn kẻ ở nhà thì phải nộp
thuế có khi tới ba phần tư hoa lợi. Những năm được mùa, dân cũng không được
hưởng vì triều đình thu lúa hết để nuôi lính. Mà những năm mất mùa thì kẻ già người
bệnh chết hàng loạt trên đường, trong ruộng, còn những kẻ khỏe mạnh đi phiêu bạt
khắp nơi. Xã hội hoàn toàn tan rã từ gốc (tức nông thôn). Sự bất an gây sự bất bình: ai
ai cũng mong có một trật tự mới.
Về đạo đức xã hội: đạo đức suy đồi, nhân luân băng hoại, trật tự thể chế xã hội
đảo lộn, dẫn đến tình trạng xã hội “Vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra
cha, con chẳng ra con” (Quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử)
[11;tr.188-189]. Một vấn đề đặt ra là làm thế nào để ổn định xã hội đưa đất nước từ
loạn trở thành bình. Nhằm đáp ứng yêu cầu đó, các trường phái, triết gia đều quan tâm
đến vấn đề bản tính con người để từ đó đề ra những giải pháp, cách thức giáo hoá con
người, cải biến xã hội cho có hiệu quả. Có thể nói quan điểm về bản tính con người
trở thành một trong những vấn đề trọng tâm của triết học Trung Quốc cổ đại.
Do vậy, không chỉ nghiên cứu điều kiện xã hội nảy sinh vấn đề này mà cần
phải tìm hiểu, nghiên cứu tiền đề nhận thức luận.
1.1.2. Tiền đề nhận thức luận của quan điểm về bản tính con người trong triết
học Trung Quốc cổ đại.
Không chỉ xuất phát từ những điều kiện lịch sử xã hội thời Xuân Thu - Chiến
Quốc, quan điểm về bản tính của con người của triết học Trung Quốc cổ đại còn nảy
sinh từ những tiền đề về nhận thức luận - thuyết tiên nghiệm.
12
Thuật ngữ “tiên nghiệm” có nghĩa là có trước kinh nghiệm và không phụ thuộc
vào kinh nghiệm. Thuyết tiên nghiệm trong tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại là
học thuyết cho rằng: tính chất và cơ năng về tinh thần và nhục thể bắt nguồn từ trời
phú, sinh ra đã có sẵn ở tâm, bắt nguồn từ thế giới quan duy tâm “Thiên mệnh” trong
triết học Trung Quốc cổ đại.
Ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học, các trường phái tư tưởng luôn đặt ra câu
hỏi: Con người và vạn vật trong vũ trụ sinh ra từ đâu? Cái gì quyết định đến số phận
của con người? để trả lời cho vấn đề này đã có rất nhiều quan điểm khác nhau, một
trong những học thuyết nổi tiếng bậc nhất chi phối trong đời sống tinh thần xã hội
Trung Quốc cổ đại lúc bấy giờ chính là học thuyết “thiên mệnh”. “Chỉ có trời đất là
cha mẹ của muôn vật. Chỉ có con người ta linh mẫn hơn muôn vật…” (Duy thiên địa
vạn vật phụ mẫu. Duy nhân vạn vật chi linh…) [19;tr.195]. Như vậy, theo quan điểm
“thiên mệnh”, con người cùng muôn vật đều do trời sinh ra, khác nhau ở trí tuệ, con
người thì “minh mẫn” hơn muôn vật, muôn loài. Ngay trong Kinh Thư, Kinh Thi đã
khẳng định, trời là cha mẹ sinh ra muôn loài, muôn vật, con người và dân chúng và
tiếp tục làm rõ trong Chu Dịch. Chính trời đất đã sinh ra, giáo dưỡng, chỉ bảo con
người phải biết cách giữ gìn điều kỳ diệu đó. “Cái đức lớn của trời đất là sự sống, cái
báu lớn của đấng thánh nhân là cái ngôi, lấy gì mà giữ ngôi ấy là điều nhân, lấy gì mà
hợp người lại, ấy là tiền của! cấm dân làm bậy ấy là điều nghĩa”[20;tr.317].
Trời không chỉ là nguồn gốc của con người và muôn vật trong vũ trụ mà còn là
nguồn gốc của cả Đạo: “Vậy nên trời sinh ra muôn vật” (cố thiên chi sinh vật) [7;tr.60-61].
Như vậy, trong Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch…không chỉ khẳng
định trời, Thượng đế là đấng tối cao sinh ra vạn vật và con người. Trời hay Thượng đế
với quyền năng tối cao, công minh có thể giám sát và thưởng phạt con người. Từ thiên
mệnh luận trong tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại hình thành nên học thuyết tiên
nghiệm về bản tính con người; cho rằng bản tính con người là do Trời hay Thượng đế
phú cho, là cái con người sinh ra đã có. Bản tính, tư chất con người là do trời sinh, trời
dưỡng với những đức tính như lương thiện, trung hậu, thông minh, ngu đần…do trời
phú và trời định sẵn. Không ai có thể thay đổi được thiên mệnh, không ai có thể làm
trái thiên mệnh mà chỉ tuân theo mệnh trời mà thôi.
13
Tóm lại, cùng với điều kiện lịch sử xã hội, “Tiên nghiệm luận” là một trong
những tiền đề hình thành tư tưởng về bản tính con người trong triết học Trung Quốc
cổ đại.
1.2. Quan điểm về bản tính con người trong triết học Trung Quốc cổ đại.
Một đặc điểm của triết học Trung Quốc là có tính cách nhân bản rất cao. Sinh
trong thời loạn, triết gia Trung Hoa nào cũng tìm cách lập lại trật tự và nhà nào cũng
bàn về chính trị.
Xuất phát từ những điều kiện lịch sử - xã hội đầy biến động thời Xuân Thu -
Chiến Quốc và tiền đề về nhận thức luận; vấn đề về bản tính con người đã có rất nhiều
quan điểm khác nhau đưa ra. Có thể nói đây là một trong những vấn đề được bàn cãi
nhiều nhất trong lịch sử. Vấn đề xây dựng con người trong các học phái triết học
Trung Quốc cổ coi trọng sự nỗ lực của cá nhân, sự quan tâm của gia đình và xã hội.
Thực ra sự tương trong quan điểm về bản tính con người của các trường phái triết học
đều thống nhất với nhau ở chỗ coi trọng sự giáo hoá và đều nhằm phát triển cái thiện.
Đồng thời xác lập một trật tự xã hội có đẳng cấp, có tôn ti trật tự, phải lấy Nhân,
Nghĩa, Lễ, Chính danh làm chuẩn mực.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: bản tính con người là thiện. Đây là vấn đề được
Nho gia bàn đến rất nhiều và Khổng Tử là người đầu tiên nêu ra khái niệm về tính:
“con người ta sinh ra, cái bẩm tính vốn ngay thật” [11;tr.92-93]. Khổng Tử coi xã hội
là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người trong đó có các quan hệ như: vua –
tôi, cha – con, chồng - vợ, anh em, bạn bè. Khi bàn về bản tính con người, Khổng Tử
không khẳng định rằng bản tính con người khi sinh ra là thiện hay ác, bản tính con
người ban đầu là giống nhau, do xã hội tác động của xã hội mà thay đổi.
Người nhân cũng là người có trí, dũng. Khổng Tử nói: “mình muốn lập thân thì
hãy giúp người khác lập thân. Mình muốn thành đạt thì hãy giúp người khác thành
đạt”. Người nhân biết thương người nhưng cũng biết ghét người: “ghét kẻ bất nhân
cũng là nhân vậy”. Đồng thời khi bàn về bản tính con người, ông cho rằng: “tính mỗi
người đều gần nhau, do tập tành và thói quen mới hoá ra xa nhau”. Về cơ bản, tư
tưởng của Khổng Tử là bảo thủ, muốn duy trì và phát triển đẳng cấp tông pháp nhà
Chu. Trung tâm học thuyết của ông là chữ Nhân. Nhân gắn chặt với lễ và lễ là phương
thức giúp người ta đi tới chữ nhân.
14
Tuy nhiên ông chưa nói rõ bản tính con người là thiện hay ác mà chỉ đến Mạnh Tử -
học trò xuất sắc của Khổng Tử mới xem bản tính con người là thiện. Ông đề cao bản tính
tốt đẹp của con người, bản tính thiện trong mỗi con người. Theo Mạnh Tử, thiện là cái tiên
thiên, bản tính, tư chất con người là do trời sinh, trời dưỡng với những đức tính như lương
thiện, trung hậu, thông minh, ngu đần…do trời phú và trời định sẵn.
Theo Mạnh Tử bản tính của con người là thiện, nó là bản nguyên tinh thần vốn
có của con người do trời phú. Theo Mạnh Tử, tính thiện tự nhiên ấy được thể hiện ở
bốn mặt là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Sự khác nhau giữa con người với con vật theo Mạnh
Tử là ở chỗ trong mỗi con người dều có phần quý trọng và phần bỉ tiện, có phần cao
đại và phần thấp hèn, bé nhỏ. Chính phần quý trọng, cao đại mới là tính người, mới là
cái khác giữa con người và cầm thú. Do đó ông khuyên mọi người nên coi trọng việc
tu dưỡng nội tâm, bảo tồn cái tính thiện để nó có thể phát triển “lương tri, lương
năng”, hoàn thiện phẩm chất tốt đẹp.
Khác hẳn với Khổng Tử và Mạnh Tử, trong quan điểm luân lý đạo đức của
mình Tuân Tử đã đưa ra lý luận bản tính con người là ác. Ông cho rằng mỗi người
sinh ra đều có sinh lý, bản tính và sở thích riêng và nếu để thỏa mãn sở thích đó thì xã
hội sẽ xảy ra cướp bóc, tranh đoạt, do vậy tính của con người là ác, là ích kỷ, là vị lợi.
Tuy nhiên, ông lại cho rằng: mặc dù bản tính con người là ác nhưng có thể dùng các
khuôn phép đạo đức để cải hóa được. Tuân Tử viết: “Tính của con người ta vốn ác, nó
mà giáo hoá được là do công của người ta” [17;tr.354]. Ngoài ra, Tuân Tử còn cho
rằng tính ác là thuộc tính phổ biến của mọi người, không ở riêng ai, kể cả thường dân
đến thánh nhân quân tử: “Tính thì ai cũng như ai, đều ác cả: tính thánh nhân cũng ác
như tính người thường” [17;tr.52].
Theo Tuân Tử, bản tính của đầu tiên của con người là ác. Chính ví vậy cần phải
học tập tu dưỡng, cần phải có Nhân, Nghĩa, Lễ để dẫn dắt làm cho con người trở thành
thiện. ông cho rằng: “nay cái tính của người ta sinh ra là hám lợi, thuận cái tính ấy thì
dẫn đến sự tranh đoạt mà sự nhường nhịn không có; sinh ra là có ghen ghét,thuận cái
tính ấy thì dễn đến sự làm hại lẫn nhau mà lòng trung tín không có; sinh ra là muốn
thoả mãn tai mắt, thích thân sắc, thuận cái tính của người ta thì sẽ sinh ra sự tranh
giành, hợp với việc xâm phạm loạn li mà thành ra tàn bạo. Cho nên phải có thầy, có
phép để giáo hoá, có lễ nghĩa để dẫn dắt sau đó mới có nhường nhịn với đạo lý mà
thành ra trị. Qua đó thì cái chính của người ta rõ ràng là ác, còn cái thiện của tính là
15
người ta tạo nên”. Vì vậy, do “tính ác” nên lễ nghĩa trật tự xã hội bắt buộc phải xuất
hiện, ví như: “cái cây cong muốn uốn thẳng thì phải có khuôn” [17;tr.355], khuôn đó
là để chế trị xã hội, là cái lễ cái chuẩn mực xã hội. Ông còn phân biệt quân tử, tiểu
nhân, nghĩa sĩ, nông công thương không phải do thiên tính mà do sự tích lũy thói quen
chăm chú lâu ngày. Tuân Tử chưa hoàn toàn đúng lắm khi ông quy kết sự phân biệt
đẳng cấp xã hội trong sự tích lũy tập quán sinh hoạt, đúng ra sự phân biệt đẳng cấp
phải là ở sự sở hữu của cải, phân chia tư liệu sản xuất.
Học thuyết “tính ác” của ông tương phản với học thuyết “tính thiện” của Mạnh
Tử. Tuân Tử cho rằng việc theo đuổi và tìm kiếm sự thoả mãn những nhu cầu dục
vọng, sinh lý là bản tính của con người. Ông nói: “đói muốn no, rét muốn ấm, mệt
muốn nghỉ ngơi” đó là tính của con người. Ông lại nói: “người ta sinh ra vốn đã có
dục vọng: mắt thích đẹp, tai thích tiếng hay”. Theo ông nếu ai cũng bám theo cái bản
tính ấy mà hành động thì xã hội tất sẽ diễn ra sự tranh giành, cưỡng đoạt và sẽ đi đến
bạo loạn. Vì vậy bản tính con người là “ác” coi những nhu cầu về sinh lý như ăn no,
mặc ấm là cội nguồn biểu hiện tính ác của con người.
Quan tâm đến bản tính con người còn có học trò của Tuân Tử - người đã khởi
thảo ra trường phái Pháp gia đồng thời cũng là nhân vật quan trọng nhất trong pháp
này đó chính là Hàn Phi (280-233 TCN).
Hàn Phi Tử cho bản tính con người là ác, con người sinh ra luôn có bản tính ích
kỷ, vị lợi, thích lợi thì tìm đến nó, sợ hại mà tránh nó. Con người ta luôn luôn mưu lợi
cho mình, đó là bản tính tự nhiên của con người. Từ đó Pháp gia khái quát tất cả những
quan hệ xã hội đều được xây dựng trên cơ sở tính toán lợi ích của mỗi một cá nhân.
Như thế ta thấy Pháp gia rất tinh tế khi chỉ ra lợi ích là một trong những động lực của sự
phát triển xã hội. Hàn Phi Tử lấy một loạt điều để chứng minh: người chủ trả tiền công
rất hậu đối với người làm công không phải là do ông ta thương gì người làm công mà
mục đích cho người làm công khoẻ mạnh để sản xuất nhiều của cải cho mình. Ngược
lại, người làm công tỏ vẻ qua tâm đến công việc chỉ vì lợi ích của mình. Ngay cả trong
quan hệ vua tôi, cha con, anh em, bạn bè đều trên sự tính toán cá nhân. Do vậy, kẻ
thống trị phải nắm được tâm lý bản tính con người ta để tính toán lợi ích và như vậy con
người ta rất sợ những gì hại đến lợi ích của mình. Nắm được tâm lý ấy để đề ra phương
pháp trị nước cho đúng bởi vì tâm lý người ta rất sợ điều gì hại đến bản thân mình cho
nên phải phạt nặng. Do đó, thưởng phạt như hai cánh tay của pháp trị.
16
Khác với những quan điểm trên, có Cáo Tử, ông đưa ra quan điểm bản tính con
người không thiện, không ác. Theo ông: “Cái tính tự nhiên của con người chẳng phải
thiện, cũng chẳng phải bất thiện” [15;tr.150]. Có thể nói, Cáo Tử nhìn bản tính con
người ở góc độ thuần phác, tự nhiên, trong sáng, vốn có. Điều này đã làm phong phú
thêm trong lý luận về bản tính con người trong triết học Trung Quốc cổ đại.
Bên cạnh những quan điểm trên, chúng ta phải kể đến quan điểm của Đạo gia.
Đạo gia cho rằng bản tính con người là siêu thiện ác, vượt qua cả quan điểm ác của
Tuân Tử.
Cơ sở của quan điểm trên đó chính là Đạo của Lão Tử và Trang Tử. Đạo là bản
nguyên, là nguồn gốc của vạn vật gọi là đạo vô danh, nó sâu kín, huyền chi hữu huyền
(đen mức cực đen), nó trừu tượng, mập mờ. Nó không có tên gọi, hình thể, tính chất
nào (vô danh, vô tính, vô hình) nhưng ở đâu nó cũng tồn tại, tồn tại ở chính trong mỗi
sự vật hiện tượng có danh, có tính, có hình. Lão Tử viết: vô danh là đầu trời đất, hữu
danh là mẹ muôn vật. Đạo - nó là tự nhiên, là khách quan, nó tồn tại trước trời đất,
quỷ thần, nó là nguyên thủy, là cơ sở của vạn vật. Ông viết: “Người theo đất, đất theo
trời, trời theo đạo, đạo thì tự nhiên”.
Từ những phân tích trên đây đã cho thấy vấn đề về tính người đã có những
cách hiểu khác nhau. Nhìn chung Nho gia hướng con người vào tu thân và thực hành
đạo đức là hoạt động căn bản nhất, luôn được đặt vào vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã
hội. Quan điểm về vũ trụ, về nhân sinh, về nhận thức luôn thấm đượm ý thức đạo đức.
Tất cả mọi vấn đề đều lấy đạo đức làm chuẩn. Vì vậy vấn đề thiện và ác của con
người trở thành tiêu điểm tranh luận quan trọng nhất của lịch sử triết học Trung Quốc.
Người Trung Quốc trong lịch sử coi việc tu thân dưỡng tính cá nhân liên hệ mật thiết
với nhận thức thế giới khách quan, thậm chí coi tu thân dưỡng tính là cơ sở nhận thức
thế giới nhận thức.
Những quan điểm khác nhau về bản tính con người trong triết học Trung Quốc cổ đại
đã tạo nên tính đa dạng và phong phú trong các quan điểm về bản tính con người trong thời
kỳ xã hội trải qua những biến đổi to lớn, sâu sắc và toàn diện. Chính vì vậy thời kỳ này đã sản
sinh ra nhiều nhà tư tưởng lớn, nhiều trường phái triết học lớn. Và đã thúc đẩy các triết gia
đương thời phải nghiên cứu để đưa ra những diệu kế “cứu đời”, “cứu người”, “tề gia trị quốc
bình thiên hạ”. Đó là lý do lý giải tại sao một trong những vấn đề trung tâm của triết học
Trung Quốc thời cổ đại là vấn đề bản tính con người.
17
Chương 2
NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA QUAN ĐIỂM VỀ
BẢN TÍNH CON NGƯỜI TRONG HỌC TRIẾT HỌC CỦA MẠNH TỬ
2.1. Nội dung cơ bản của quan điểm về bản tính con người trong triết học của
Mạnh Tử
2.1.1 Nguồn gốc hình thành quan điểm về bản tính con người trong triết học của
Mạnh Tử
Mạnh Tử là nhà tư tưởng vĩ đại trong thời Chiến Quốc ở Trung Quốc, là một
trong những nhân vật tiêu biểu của tư tưởng Nho giáo - học thuyết chủ yếu ở Trung
Quốc.
Mạnh Tử tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư. Tương truyền Mạnh Tử là hậu duệ
dòng họ Công Tộc Mạnh Tôn ở nước Lỗ. Ông là người gốc ở đất Trâu thời Xuân Thu,
thuộc nước Lỗ, nay là huyện Trâu tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Theo sách Mạnh Tử
phả, Mạnh Tử sinh ngày mùng 2 tháng 4 năm thứ 4 đời vua Chu Liệt Vương (năm 372
trước Công Nguyên) và mất vào ngày 15 tháng 11 năm thứ 26 đời vua Chu Noãn
Vương (năm 289 trước Công Nguyên) thọ 83 tuổi.
Mạnh Tử đã kế thừa và phát huy tư tưởng đức trị của Khổng Tử, phát triển học
thuyết Nhân chính, trở thành hạt nhân trong tư tưởng đức trị của ông. Mạnh Tử một
mặt chia cắt nghiêm ngặt địa vị giai cấp của những kẻ thống trị với người bị thống trị,
cho rằng: “Lao tâm giả trị nhân, Lao lực giả trị vu người”, đồng thời ấn định một chế
độ đẳng cấp từ thiên tử tới dân đen mô phỏng theo chế độ thời Chu; mặt khác lại ví
mối quan hệ giữa kẻ thống trị với người bị thống trị như cha mẹ với con cái, chủ
trương kẻ thống trị cần phải quan tâm tới sự đau khổ của nhân dân như cha mẹ quan
tâm đến con cái vậy, còn nhân dân phải phục tùng kẻ thống trị như đối xử với cha mẹ.
Mạnh tử đã đúc kết quy luật trị nước theo kinh nghiệm thời Chiến Quốc, đề
xuất một mệnh đề nổi tiếng giàu tính tinh hoa dân chủ: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi,
quân vi khinh”. Cho rằng việc đối xử với nhân dân như thế nào là tầm quan trọng cực
kỳ đối với một đất nước hưng thịnh hay suy tàn. Mạnh Tử rất coi trọng lòng dân, trình
bày những vấn đề then chốt được hoặc mất thiên hạ qua những sự kiện lịch sử.
Mạnh Tử đã kết hợp chặt chẽ lý luận với chính trị, nhấn mạnh tu dưỡng đạo
đức là gốc cho làm tốt chính trị. Ông nói: “thiên hạ chi bản tại Quốc, Quốc chi bản tại
18
Gia, Gia chi bản tại nhân”. Mạnh Tử khái quát quy phạm đạo đức thành 4 loại: Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí. Mạnh Tử cho rằng trong 4 loại này thì Nhân là quan trọng nhất. Ông
cho rằng nếu các thành viên trong xã hội đều lấy nhân để xử lý mối quan hệ giữa con
người với con người thì sự ổn định và thống nhất thiên hạ của trật tủ phong kiến là có
đảm bảo và tin cậy. Để nói rõ cội nguồn của những quy phạm đạo đức này, Mạnh Tử
đề xuất tư tưởng Nhân tính bản thiện. Ông cho rằng tuy sự phân công giữa các thành
viên trong xã hội có khác nhau và sự khác biệt về giai cấp nhưng nhân tính của họ là
giống nhau.
Mặc dù tư tưởng của Mạnh Tử có ảnh hưởng rất lớn đối với chính trị, đạo đức,
văn hoá, tư tưởng của các thời kỳ xã hội ở Trung Quốc sau này nhưng học thuyết của
Mạnh Tử lúc đó không được kẻ thống trị coi trọng. Mạnh Tử từng đi chu du qua các
nước chư hầu để phổ biến lý luận Nhân chính của ông. Ông đến qua các nước Ngụy,
Tề, Tống, Đằng, Lỗ, lúc đó các nước này giàu mạnh, binh cường định thực hiện thống
nhất thông qua bạo lực. Học thuyết Nhân chính của Mạnh Tử bị coi là hủ bại, không
có cơ hội thực tiễn, thế nhưng trong quá trình này Mạnh Tử cũng thể hiện lên đặc
trưng cá tính rõ rệt, ông coi thường kẻ thống trị, khinh rẻ quyền thế phú quý, mong
thiên hạ yên ổn, cứu dân trong cảnh nước sôi lửa bỏng, ông luôn duy trì cá tính không
a dua, mạnh dạn thẳng thắn trong giao tiếp với quân vương các nước.
Sau này ông làm nghề gõ đầu trẻ, cùng với học sinh viết bảy thiên “Mạnh Tử”.
Cuốn sách đã ghi lại lời nói của Mạnh Tử cũng như sự bàn luận với các nhân vật đại
diện cho các trường phái khác, phản ánh lên Mạnh Tử là người kế thừa và phát triển
học thuyết Nho giáo sau Khổng Tử. Bởi vậy hàng nghìn năm nay cuốn sách Mạnh Tử
vẫn có sức hấp dẫn vô biên, được mọi người tôn sùng và mệnh danh là kinh điển.
Quan điểm triết học của Mạnh Tử thể hiện ở 3 nội dung sau:
Quan điểm của Mạnh Tử về thế giới:
Mạnh Tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh của Khổng Tử và đẩy thế giới quan
ấy đến đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng không có việc gì xảy ra mà
không do mệnh trời, mình nên tuỳ phận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Từ đó,
Mạnh Tử đưa ra học thuyết “vạn vật đều có đủ trong ta, nên chỉ cần tự tĩnh nội tâm là
biết được tất cả”, nghĩa là không phải tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu
dưỡng nội tâm là biết được tất cả.
19
Quan điểm về bản tính con người:
Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là thiện, tính thiện đó là do thiên
phú chứ không phải do con người lựa chọn. Nếu con nguời biết gìn giữ làm cho tính
thiện ngày càng mạnh thêm, nếu không biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng mai một
đi thì con người trở nên nhỏ nhen, ti tiện không khác gì loài cầm thú. Từ đó, Mạnh Tử
kết luận: bản chất con người là thiện nhưng con người hiện thực có thể là ác, đó là do
xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo lộn. Cho nên để thiết lập các quốc gia thái
bình thịnh trị thì phải trả lại cho con người tính thiện bằng đường lối chính trị lấy dân
làm gốc.
Quan điểm về chính trị xã hội:
Trong quan điểm về chính trị xã hội, Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc biệt là tư
tưởng của ông về dân quyền, tức là đề cao vai trò của quần chúng nhân dân. Ông cho
rằng trong một xã hội thì quý nhất là dân rồi mới đến xã tắc, đến vua “dân vi quý, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh”. Với tinh thần ấy, Mạnh Tử chủ trương xây dựng một chế
độ bản dân, dưỡng dân tức là phải chăm lo, bảo vệ cho nhân dân và ông yêu cầu ngưòi
trị vì đất nước phải quan tâm đến dân, phải tạo cho dân có nhà cửa, ruộng vườn, tài
sản bởi vì họ “hàm sản mới hàm tâm”. Ông là người chủ trương khôi phục chế độ tĩnh
điền để cấp cho dân. Ông khuyên các bậc vua chúa tiết kiệm chi tiêu, thu thuế của dân
có chừng mực. Đó là những quan điểm hết sức mới mẻ và tiến bộ của ông đã khiến
ông mạnh dạn đưa vào đường lối chính trị của trường phái Nho gia hàng loạt vấn đề
mới mẻ toát lên tinh thần nhân bản theo đường lối lấy dân làm gốc.
Tất cả những quan điểm ấy của Mạnh Tử đều xoay quanh những vấn đề về con
người- vấn đề rất được coi trọng trong bối cảnh lịch sử thời bấy giờ. Do sự khác nhau
về địa vị xã hội và khuynh hướng triết lý nên khi bàn về bản tính con người, trong thời
kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau khá phong phú.
Có quan điểm cho rằng bản tính con người là ác (Tuân Tử), không thiện không ác
(Cáo Tử), hay bản tính con người là có thể thiện, có thể ác hoặc siêu thiện ác (Trang
Tử). Từ những quan điểm trên, Mạnh Tử khẳng định, bản tính con người là Thiện.
Mạnh Tử viết: “Cái bản tính của người ta vốn thiện cũng như bản tính tự nhiên của
nước là chảy xuống chỗ thấp vậy. Không một người nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện,
cũng như không có một thứ nước nào lại không chảy xuống chỗ thấp… Cứ theo bản
tính của con người ta thì ai cũng có thể làm thiện, cho nên mới nói tính người vốn
20
thiện. Nếu có làm điều bất thiện, đó không phải do cái lỗi ở tài chất bản chất của
người ta.[15;tr.143-147].
Mạnh Tử đã nói tính thì như mầm cây trong hạt giống, nhưng mầm cây đó gieo
ở chỗ khác nhau thì nó sẽ mọc lên khác nhau. Tuân Tử nói tâm với tính là một, Tâm là
cái bên trong, Tính là cái thể hiện của tâm ra bên ngoài vì vậy nên tâm nào thì tính đó.
Tâm hoen ố thì tính thể hiện ra bên ngoài bị lệch lạc đi, như vậy chúng ta thấy ở đây
người ta còn nghiên cứu về sự vận động cơ chế của con người. Khi đem tâm và tính
tiếp xúc với vật, người biểu lộ những cảm xúc của mình thì đó là Tình [Ái (yêu), Ố
(ghét), Hỉ (vui), Nộ (giận), Ai, Cụ (lo lắng), Dục (mong muốn)].
Tại sao Mạnh Tử lại chọn bản tính con người là thiện? Mạnh Tử kế thừa tư
tưởng của thầy mình là Khổng Tử. Nhưng Mạnh Tử kế thừa ở chỗ nào? Khổng Tử nói
“Nhân chi sơ dĩ trực”, bản tính con người sinh ra là thật thà và trung thực, không
nghiêng lệch, là trung thứ, đó chính là nhân. Trong trung thứ thì biểu hiện trung dung,
trung hòa, vậy thì đạt được Đạo, đạt được chí thiện. Cho nên, tiếp tục tư tưởng đó
Mạnh Tử nói: “nhân chi sơ tính bản thiện”.
Mạnh Tử cho rằng tính người ta là thiện còn do nó (tính thiện đó) được bắt
nguồn từ tứ đoan: Trắc ẩn chi tân (nhân), Tu ố chi tân (nghĩa), Từ nhượng chi tân (lễ),
Thị phi chi tân (trí). Bốn đầu mối này là cội nguồn của bốn đức tính nhân, nghĩa, lễ,
trí, của tính thiện con người. Mạnh Tử nói: “Cái bản tính của người quân tử có đủ
những đức nhân, nghĩa, lễ, trí. Những từ ấy có căn cứ nơi tâm” (Quân tử sở tính,
nhân, nghĩa, lễ, trí; căn ư tâm)[4;tr.230-231]. Chính vì vậy, “Lòng thương xót chẳng
nỡ, mọi người đều có; tấc lòng hổ thẹn chán ghét, mọi người đều có; lòng cung khiêm
kính nhượng, mọi người đều có; lòng biết phải biết quấy, mọi người đều có” (Trắc ẩn
chi tâm, nhân giai hữu chi; tu ố chi tâm, nhân giai hữu chi; cung kính chi tâm, nhân
giai hữu chi; thị phi chi tâm, nhân giai hữu chi). [15;tr.152-153]. Bốn đầu mối của
thiện: thiện đoan, bốn đầu mối đó có sẵn trong con người ta như mầm cây của hạt
giống, như tứ chi của con người, vấn đề là chúng ta có giữ được cái mầm mống ấy hay
không. Do đó, ông nói giữa con người và vật khác nhau ở mảy may đó thôi, giữ được
thì đúng là bản tính con người, ngược lại thì chẳng khác gì cầm thú. Người bất thiện là
do người ta không giữ được hoặc là do hoàn cảnh tác động hoặc do không rèn luyện
giữa cái chân tâm bản tính của mình, sự mảy may đó chuyển sang thấp hèn (thú vật).
Mạnh Tử quả quyết rằng: “Kẻ nào chẳng có lòng thương xót, kẻ ấy chẳng phải là
21
người; kẻ nào chẳng có lòng hổ thẹn, kẻ ấy chẳng phải là người; kẻ nào chẳng có lòng
khiêm nhượng, kẻ ấy chẳng phải là người; kẻ nào chẳng có lòng phải quấy, kẻ ấy
chẳng phải là người”[15;tr.104-105]. Tính thiện ấy, theo Mạnh Tử “người quân tử thì
giữ được, kẻ thú dân thì bỏ mất” và “không giữ được thì chẳng khác gì loài cầm thú”.
Như vậy, quan niệm về tính thiện của Mạnh Tử cũng mang dấu ấn giai cấp và thời
đại. Mạnh Tử cũng đã giải thích thêm chữ Nghĩa, khẳng định Nghĩa là thích nghi và
chủ yếu là thích nghi với Nhân. Ông coi Nhân là tâm của con người, Nghĩa là do
đường đi của người đời. Tính thiện của con người đều bắt nguồn từ cái Tâm của mỗi
con người. Tâm là do trời phú cho ta, nhờ có Tâm mà phân biệt được điều phải trái,
thiện ác.
Sỡ dĩ Mạnh Tử nói con người ta sinh ra là thiện, mọi người đều có thể trở thành
thánh nhân như nhau. Bởi vì con người ta sinh ra đã có quan năng, tài chất nhận thức
sự vật, tai nghe, mắt thấy, óc suy nghĩ cho nên đã đồng loại thì đồng thời, trừ dị tật
bẩm sinh. “Cái miệng đối với mùi vị thức ăn, thì mọi người đều nếm và thích như
nhau cả. Nếu cái miệng của Dịch Nha (người nước Tề có tài nấu ăn) đối với mùi vị
mà lại chẳng giống với mọi người; cũng như chó và ngựa, không đồng loại với người,
thì sao đối với mùi vị của thức ăn mọi người trong thiên hạ đều công nhận rằng Dịch
Nha là người khéo nấu ăn. Đối với mùi vị ngon mà thiên hạ đều theo Dịch Nha là vì
cái miệng của người ta ai cũng thích vị ngon”[15;tr.156-157].
Bản tính con người là thiện vì con người khác với tất cả sự vật khác, con người
có cái tâm của chủ thể trong đời sống tinh thần của họ. Ở cái tâm đó có khả năng nhận
thức, phản ánh đặc biệt đó là không dạy nhưng vẫn biết, đó là lương tri; không cần tập
luyện mà người ta vẫn làm được, đó là lương năng. Đây chính là tri thức có tính chất
tiên thiên, trời sinh ra nó đã có rồi, nó có trước kinh nghiệm.
Tuy nhờ những quan năng trời phú cho con người như nhau nên ai cũng có khả
năng cảm nhận thế giới bên ngoài nhờ quan năng ấy, nhưng đó chỉ là sự hiểu biết
mang tính bề ngoài tức chỉ là hiện tượng, còn cái ẩn đằng sau hiện tượng tức bản chất
thì khó nhận biết. Chính vì vậy, những quan năng ấy rất dễ bị ngoại cảnh đánh lừa, do
vậy có hạn chế ở quan năng. Do đó, cần khắc phục hạn chế của các giác quan cần kết
hợp với cái tâm. Vì đã là con người ai cũng có khả năng suy nghĩ, nhận biết đúng sai
bởi chức năng nhận thức, tư duy của cái tâm là cái tiên thiên, trời phú cho con người.
Mạnh Tử viết về vấn đề này như sau: “Nhĩ mục chi quan, bất tư, nhi tế ư vật. Vật giao
22
vật, tắc dẫn chi nhi dĩ hỹ. Tâm chi quan, tắc tư. Tư, tắc đắc chi; bất tư, tắc bất đắc dã.
Thử thiên chi sở dữ ngã giả”[15;tr.172].
Tóm lại, nguồn gốc của tính thiện của con người là ở tứ đoan, các quan năng và
tâm chính. Trong đó, cho dù con người không giống nhau về nguồn gốc xuất thân hay
địa vị trong xã hội thì con người từ khi sinh ra vốn có đầu mối của thiện, những quan
năng, bản tính giống nhau, có tính thiện như nhau. Ý nghĩa tích cực của quan điểm về
bản tính con người trong triết học của Mạnh Tử nói chung và của “học thuyết tính
thiện” nói riêng là ở chỗ phát huy những đầu mối của tính thiện, làm cho phần tốt
trong con người ngày càng phát triển, còn phần xấu ngày càng thu hẹp lại.
2.1.2 Nội dung cơ bản của quan điểm về bản tính con người trong triết học của
Mạnh Tử
Bàn về bản tính con người, tìm hiểu bản tính con người là thiện hay ác là một
trong những vấn đề được các nhà triết học Trung Quốc cổ đại rất quan tâm, đặc biệt là
của các Nho gia. Đó là điều tất yếu, vì trong thời kỳ xã hội Trung Quốc đang suy loạn
“đánh nhau tranh thành, giết người thây chết đầy thành; đánh nhau giành đất, giết
người thây chết đầy đồng” [15;tr.26] thì việc giáo dục đạo đức luân lý để cải hoá con
người từ ác trở thành thiện, cải biến xã hội từ loạn trở thành thịnh trị là việc quan
trọng và cấp thiết bậc nhất của các bậc vua chúa thời dó. Nhưng để giáo hoá đạo đức
con người, người ta buộc phải tập trung lý giải xem bản tính con người ta là gì? từ đó
mới có thể để ra các biện pháp, chính sách cai trị thiết thực và có hiệu quả. Để trả lời
câu hỏi đó, các trường phái triết học xuất hiện thời kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc đã đưa
ra nhiều cách lý giải khác nhau về vấn đề này.
Kế thừa tư tưởng triết học chính trị, đạo đức của Khổng tử, Mạnh Tử đã đưa ra
hệ thống triết học tâm học độc đáo với những vấn đề về tâm, tính, chí, khí, và tư tưởng
chủ yếu nhất trong triết học Mạnh Tử là vấn đề triết lý nhân sinh, mà trọng tâm của nó
là học thuyết về “tính thiện”. Nội dung cơ bản của quan điểm về bản tính con người
trong triết học của Mạnh Tử mà trung tâm là học thuyết tính thiện bao gồm nhân,
nghĩa, lễ, trí. Theo Mạnh Tử đó là bốn đức tính lớn của đạo làm người, bắt nguồn từ
tứ đoan, những quan năng và tâm do trời phú.
Mạnh Tử quan niệm rằng, nguyên lý của muôn vật đều nằm trong ý thức chủ
quan của con người: “mọi vật đều có đầy đủ trong ta” (vạn vật giai bị ư ngã). Không
phải tìm kiếm ở đâu xa xôi, chỉ cần phát huy bản năng đạo đức trong nội tâm (tận tâm)
23
là có thể thấu hiểu được bản tính của mọi sự vật ngoài ta (tri tinh). Đồng thời đã là
nguời ai cũng có trong mình cái mầm thiện, đó là lòng trắc ẩn (thương xót), lòng tu ố
(thẹn, ghét), lòng từ nhượng (khiêm nhường), lòng thị phi (phải trái). Lòng trắc ẩn là
đầu mối của Nhân, lòng tu ố là đầu mối của Nghĩa, , lòng từ nhượng là đầu mối của
Lễ, lòng thị phi là đầu mối của Trí. “Đầu mối” ở đây có nghĩa là “gốc”, là “nguồn”. Vì
vậy ông khẳng định bản tính con người vốn là thiện, người ta sở dĩ có những hành vi
bất thiện là do bị “vật dục” che lấp không phát huy mạnh mẽ cái tính thiện trời cho.
Nếu biết phát huy các đầu mối ấy thì con người ngày càng mạnh, có đủ sức giữ gìn
bốn biển.
Phạm trù Nhân, chữ nhân ra đời, tồn tại, phát triển trong sự kế thừa dòng chảy
tư tưởng trước đó. Các nhà triết học trước đó đã bàn về chữ nhân, trong sách Luận
ngữ đã nhiều lần đề cập đến phạm trù nhân. Khổng tử từng trả lời câu hỏi của học trò
mình về chữ nhân rằng: “Làm nhân là khắc kỷ, phục lễ. Ngày nào mà mình thắng
được lòng tư dục, theo về lễ tiết thì cảm hoá được cả thiên hạ theo về đức
nhân”[11;tr.180]. Một học trò của Khổng Tử tên Tư Mã Ngưu hỏi về nhân, Khổng Tử
bảo: “Người có nhân phải biết nhịn nói” (nhân giả, kỳ ngôn dã nhân), nguyên bởi vì
người học trò này rất hay ba hoa, khoác lác. Khổng Tử đã từng dùng chữ nhân để
giảng giải cho các học trò của mình một cách thấu đáo, qua những lời giảng về nhân
của Khổng Tử, chúng ta thấy rằng, nhân là một khái niệm chỉ chung cho mọi đức tính
của con người.
Khổng Tử quan niệm nhân bao gồm cả lễ, nghĩa, trung, thứ, tín. Người có nhân
đồng nghĩa với người hoàn thiện nhất, nghĩa rộng tức là đạo làm người. Đạo làm
người chung quy lại là những điều đối với mình và đối với người nên nhân có thể hiểu
là cách cư xử với mình và cách cư xử với người. Thực chất đạo làm người là yêu
người, tình yêu thương con người theo Khổng Tử phải xây dựng trên hai nguyên tắc
trung và thứ. Trung nghĩa là “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt
nhân”[11;tr.96-97]. Còn Thứ nghĩa là: “Việc gì mình không muốn, chớ làm cho
người”[11;tr.248-249]. Có thể nói rằng, trung thứ là khuôn vàng thước ngọc, là
nguyên tắc tu thân, xử thế của các bậc quân tử đương thời.
Đánh giá về vai trò của đức Nhân, Khổng Tử cho rằng: nếu tâm của con người
luôn hướng về nhân thì con người không bao giờ nghĩ đến chuyện phản loạn, do đó
24
miệng không nói bậy và thân không dấn vào việc ác. Đối với những người cầm quyền,
đức nhân như một thành trì vững chắc để giữ gìn và bảo vệ những gì họ đã đạt được.
Để bảo vệ và phát huy tư tưởng của Khổng Tử, mong muốn dùng thuyết của
mình cứu đời, Mạnh Tử đã đi khắp các nước chư hầu để truyền bá tư tưởng và chủ
trương của mình. Đặc biệt, Mạnh Tử đã phát triển và làm phong phú thêm phạm trù
nhân với nội dung mới. Theo Mạnh Tử, nhân là một trong bốn đức tính của bản tính
thiện của con người. Ông nói: “Nhân là lương tâm của con người” (Nhân, nhân tâm
dã)[15;tr.166-167]. Theo thuyết “nhân chính”, việc trị nước chặn dân của các bậc
vương giả chỉ vì nhân nghĩa chứ không phải vì lợi. Mạnh tử nói: “vua hà tất phải nói
đến lợi. Chỉ có nhân nghĩa mà thội…kẻ trên, người dưới ai nấy đều tranh nhau điều
lợi thì nguy vậy” (Mạnh Tử, Lương Huệ Vương).
Khác với thuyết kiêm ái của Mặc Tử, Mạnh Tử chủ trương nhân ái có phân biệt
thứ bậc. Theo ông con người không thể yêu thương tất cả mọi người một tình yêu phổ
quát theo kiểu Phoiơbách. Chính vì thế, Mạnh Tử nói: “Người nhân phải thương yêu
tất cả mọi người, nhưng trước hết yêu thương kẻ thân tộc và người tài đức”[15;tr.252-
253]. Người nhân trong tư tưởng của Mạnh Tử, không chỉ yêu thương kẻ thân tộc mà
còn phải biết trọng dụng người tài đức. Đối lập với người nhân là kẻ bất nhân, loại bất
nhân thứ nhất là: “Nói không thật thì có hại; nhưng chỗ hại nhất là dùng lời không thật
mà ém trang tài sức”[15;tr.48-49], loại thứ hai: “Chẳng giáo hoá dân chúng về chiến
pháp, thế mà dùng họ để đánh giặc, như thế kêu là hại dân vậy”[15;tr.200-201], loại
thứ ba là loại người chỉ biết làm giàu cho vua bất tài, bất đức, tàn bạo. Loại cuối cùng
là giúp vua cường thịnh bằng con đường bạo lực, chiến tranh. Đối với người có nhân
và kẻ ác tất “Điều nhân thắng điều bất nhân, cũng như nước thắng lửa”[15;tr.176-
177]. Tuy nhiên trên tất cả, Mạnh Tử xác định nền tảng, gốc rễ nảy sinh các tình yêu
thương khác của con người là tình yêu thương cha mẹ. Mạnh Tử nói: “tình thân cha
mẹ, hẳn là điều nhân rồi đó”[15, 184-185].
Khổng Tử cũng đề cập đến phạm trù “hiếu” trong quan hệ cha con và Nho gia.
Đã có lúc đặt Hiếu cao hơn Trung, vì người Hiếu thì tất có Trung, và trong 3000 tội,
thì tội bất hiếu là nặng nhất. Hiếu trong Nho gia không phải là nuôi dưỡng cha mẹ
không, mà còn phải xuất phát từ cái tâm. Có người hỏi Khổng Tử về hiếu, Khổng Tử
trả lời : “Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng, chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng,
bất kính hà dĩ biệt hồ” (Vi chính). Mạnh Tử nói: “tình thân cha mẹ, hẳn là điều nhân
25