ĐỀ TÀI:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÔN THI TỐT NGHIỆP MÔN ĐỊA TẠI
TRƯỜNG THPT LAM KINH QUA VIỆC SỬ DỤNG ATLAT ĐỊA LÍ 12.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
5 năm gần đây, môn Địa lí liên tục có mặt trong kì thi tốt nghiệp THPT
( Từ năm học 2008-2009 đến năm học 2012-2013). Đây là một thuận lợi cho
giáo viên dạy môn Địa có điều kiện năng cao trình độ chuyên môn, tìm tòi các
phương pháp dạy học có hiệu quả thông qua việc ôn tập cho học sinh.
Một thực tế không thể phủ nhận rằng: những bộ môn như Sử, Địa ở các
trường THPT trong cả nước chỉ đến khi Bộ GD&ĐT công bố môn thi tốt nghiệp
thì học trò mới bắt đầu quan tâm đến việc ôn tập như thế nào để có điểm cao. Ở
trường THPT Lam Kinh cũng không phải là ngoại lệ.
Bản thân học sinh lớp 12 thi tốt nghiệp nhiều khi rất áp lực vì đó là kết
quả của 12 năm học tập, rèn luyện. Nhiều môn, trong đó có môn Địa khi chính
thức công bố thi tốt nghiệp học sinh mới bắt đầu chú ý, nhưng đa số các em đếu
rất ngại, chán khi nhìn vào quyển sách giáo khoa vì bài học nhiều lí thuyết, số
liệu lâu nay các em lại chỉ học mang tính đối phó.
Những thực tế đó từ học sinh làm tôi trăn trở, suy nghĩ rất nhiều khi tiến
hành ôn thi tốt nghiệp cho các em, làm sao để những tiết hoc các em không chán
mà vẫn đảm bảo kiến thức để thi. Trong bối cảnh như vậy tôi nghĩ đến một
phương tiện dạy học của môn Địa không hề mới nhưng cũng không hề cũ đó là
khai thác những kiến thức từ cuốn Atlat.
Thực tế đã có 14 năm trong nghề, ôn thi tốt nghiệp cho học sinh đã nhiều.
Bản thân tôi đã trải qua những đổi mới trong giáo dục như: thay SGK, học các
chuyên đề Từ khi thực hiện việc thay sách, trong các đề thi tốt nghiệp câu hỏi
liên quan đến sử dụng Atlat chiếm từ 2 đến 3 điểm. Điều đó là rất thuận lợi cho
học sinh khi ôn tập. Bản thân tôi – dù tuổi nghề không phải là ít nhưng đã có lúc
xem nhẹ Atlat, nhìn thấy cũng không ít đồng nghiệp còn lúng túng trong cách
1
hướng dẫn học sinh xem Atlat. Xuất phát từ rất nhiều những lí do trên, tôi mạnh
dạn chọn đề tài: Nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp môn Địa tại trường
THPT Lam Kinh qua việc sử dụng Atlat Địa lí 12.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận của vấn đề.
Khi nói về phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học nói
riêng, Anhxtanh cho rằng: “Điều tồi tệ nhất đối với môi trường học là làm việc
với phương pháp cưỡng bức, dọa nạt, quyền uy, giả tạo, cách đối xử như vậy sẽ
làm hỏng tình cảm đẹp, lòng chân thành và sự tự tin của học sinh. Điều này chỉ
làm sản sinh ra những con người chỉ biết phục tùng”. (Trích bài của Nguyễn
Ngọc Thuận-Giáo dục Thời đại số 40/2000). Như vậy vấn đề đặt ra là làm sao
để các tiết học Địa nói chung và việc ôn thi tốt nghiệp nói riêng được học sinh
đón nhận một cách nhẹ nhàng, hứng thú là điều mà người giáo viên dạy Địa phải
nghĩ đến.
Mục đích của việc sử dụng Atlat trong dạy học môn Địa lí lớp 12 là giúp
cho học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, góp phần
phát triển tư duy, nhận thức cho học sinh, rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Điều
đó cũng góp phần đáp ứng mục tiêu giáo dục đề ra trong giai đoạn hiện nay,
điều này đã được nghị quyết TW2 khóa VIII khẳng định:“ Đổi mới phương
pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp
tư duy sáng tạo của học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên
cứu cho học sinh’’. Định hướng trên đã được pháp chế hoá trong luật giáo dục,
tại điều 24.2 “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh’’.
2
Atlat được xem như cuốn sách thứ hai của học sinh trong việc ôn thi tốt
nghiệp, nhưng việc khai thác Atlat như thế nào thì người giáo viên đóng vai trò
quan trọng. Muốn có kết quả tốt học sinh phải yêu thích môn học, phải gắn với
các giờ học trên lớp.
Thực tế nhiều học sinh còn cho rằng môn Địa là môn phụ. Vì vậy chỉ đến
khi báo môn thi tốt nghiệp các em mới bắt đầu quan tâm. Điều này gây không ít
khó khăn cho giáo viên khi ôn tập cho các em, vì vậy việc người giáo viên đóng
vai trò quan trọng trong việc truyền cảm hứng học tập cho học sinh. Học qua
Atlat học sinh sẽ thấy việc ôn tập môn Địa nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Tất nhiên,
để một bài thi tốt nghiệp Địa được điểm cao thì không chỉ mình Atlat nhưng rõ
ràng thực tế cho thấy trong đề thi tốt nghiệp Địa không chỉ câu hỏi liên quan đến
Atlat mới cần Atlat mà kể cả những câu hỏi không hề có từ Atlat học sinh vẫn
có thể dùng Atlat ( tất nhiên học sinh sẽ không được điểm tối đa, nhưng thà làm
qua Atlat để có điểm còn hơn các em để trống câu hỏi, tác giả sẽ đề cập sau).
2. Thực trạng của vấn đề.
Như đã nói ở trên, Atlat được xem là cuốn sách giáo khoa thứ hai đối với
học sinh trong học tập môn Địa, là “tài liệu” hợp pháp được mang vào phòng thi
trong kì thi tốt nghiệp THPT. Tuy nhiên để sử dụng “ tài liệu” này cho có hiệu
quả không phải là dễ, nhất là đối với học sinh học lực yếu, trung bình vẫn có
điểm khá ở môn Địa thì người giáo viên phải biết cách hướng dẫn chi tiết cho
các em, cầm tay chỉ việc cho các em. Còn với học sinh ở mức khá trở lên thì
chắc chắn sẽ được điểm cao hơn.
Nhiều học sinh quan niệm học Địa là phải học thuộc ( nỗi sợ của rất nhiều
học sinh). Điều này là hoàn toàn sai lầm, môn Địa rất cần tư duy trong quá trình
học, thế thì người giáo viên phải giúp các em nhận thức được điều này. Tất
nhiên học qua Atlat cần phải kết hợp với kiến thức SGK, cả hai tài liệu này sẽ
hỗ trợ cho nhau. Mục đích của người viết là học trên Atlat nên chỉ những bài
nào quá khó mới dùng đến SGK.
3
Trước đây Atlat chưa thông dụng nên gây khó khăn cho việc dạy và học.
Ngày nay Atlat trở thành phương tiện không thể thiếu trong kì thi tốt nghiệp
THPT. Đây sẽ là một cứu cánh cho học sinh trong việc tránh điểm liệt, hướng
tới điểm 5 và cao hơn nữa.
Bản thân tác giả đã gần gũi với học sinh để hỏi xem việc ôn tập qua Atlat
thế nào thì đa số học sinh đều rất hứng thú, ít nhất các em thấy đỡ ngại hơn rất
nhiều vì không phải học thuộc mà vẫn có điểm cao ( Điều này sẽ rất hiệu quả
với học sinh học ban A), lại được biết rất nhiều thông tin về đất nước-con người
Việt Nam những nơi mà các em chưa có điều kiện được đặt chân tới. Như vậy,
nếu người giáo viên truyền cảm hứng học cho học sinh qua Atlat thì người giáo
viên sẽ đạt được rất nhiều mục đích: vừa ôn tập cho học sinh thi tốt nghiệp, vừa
giúp các em yêu quê hương đất nước, yêu biển đảo qua từng trang Atlat.
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
a. Nội dung của Atlat
“Atlat là một tập hợp có hệ thống các bản đồ địa lí, được sắp xếp một
cách có logic để phục vụ cho mục đích dạy học một chương trình địa lí cụ thể.
Nó có tính thống nhất cao về cơ sở toán học, nội dung và bố cục bản đồ, Atlat
được phân biệt theo sự bao trùm lãnh thổ, theo nội dung và theo mục đích sử
dụng”. Theo đó nội dung cụ thể của cuốn Atlat được phân bố như sau:
- Phần 1: Giới thiệu về các đơn vị hành chính của nước ta
( bao gồm 63 tỉnh, thành phố)
- Phần 2: Thể hiện chủ yếu của các yếu tố tự nhiên như địa hình, địa chất,
khoáng sản, khí hậu
- Phần 3: Thể hiện các yếu tố về dân cư xã hội, bao gồm dân cư, dân tộc
- Phần 4: Thể hiện các ngành kinh tế của nước ta như nông nghiệp, công
nghiệp, giao thông vận tải, du lịch, thương mại
- Phần 5: Địa lí các vùng kinh tế của nước ta, bao gồm 7 vùng.
- Phần 6: Địa lí biển đảo.
b. Giải pháp thực hiện
4
Trên cơ sở nôi dung của Atlat nêu trên, để giáo viên có thể tổ chức tốt, có
hiệu quả việc ôn thi tốt nghiệp đòi hỏi giáo viên và học sinh cần nắm vững các
kĩ năng sau:
*Đối với giáo viên:
- Tìm hiểu kĩ danh mục, nội dung, công dụng của từng bản đồ để dạy từng
bài cụ thể.
-Trong quá trình chuẩn bị bài lên lớp, giáo viên nên dự kiến những kiến
thức sẽ được khai thác trong Atlat như thế nào.
-Đưa ra những yêu cầu, hướng dẫn phù hợp với từng bài cụ thể để học
sinh dễ hiểu, chú ý khai thác kĩ năng đọc bản đồ của học sinh.
-Atlat cần được khai thác cả khâu học sinh tìm hiểu, tiếp thu kiến thức
mới, rèn luyện kĩ năng địa lí kể cả việc đánh giá, ôn tập khái quát hóa kiến thức
cũng như khi làm bài thi.
* Đối với học sinh:
- Nắm vững kí hiệu nằm ở trang bìa.
- Nắm vững nội dung từng trang Atlat.
- Đọc kĩ đề thi xem yêu cầu những gì.
- Để đáp ứng yêu cầu của đề thi thì cần phải sử dụng những bản đồ nào?
Bản đồ đó nằm ở đau?
-Tìm đến trang bản đồ cần sử dụng tương ứng với đề thi ( rất nhiều học
sinh bỏ qua bước này), trong khi ở một trang bản đồ đôi khi có rất nhiều bản đồ
với nội dung khác nhau, cùng nội dung nhưng có thể liên quan ở nhiều trang,
nhiều bản đồ khác nhau, tránh tình trạng tốn thời gian trong việc tìm kiếm kiến
thức và thậm chí khai thác sai kiến thức cần tìm so với yêu cầu.
- Nắm vững bản chú giải thông qua các màu sắc, các kí hiệu
- Phân tích, tổng hợp, so sánh và rút ra nhận xét theo yêu cầu của đề thi,
đây là khâu tương đối khó.
* Hướng dẫn sử dụng các bản đồ trong Atlat theo chủ đề bám sát kiến thức
SGK để ôn thi tốt nghiệp
5
Thực tế qua những lần ôn thi tốt nghiệp cho học sinh, tôi nhận thấy rằng
học sinh bây giờ chủ yếu học khối A, số các em học khối C, học đều các môn là
rất ít, bởi vậy bảo các em học lại lí thuyết là điều rất khó. Lí thuyết đã học từ
đầu năm, nhưng khi báo môn Địa thi tốt nghiệp nhiều em còn không biết có
những bài nào, có nội dung gì. Cũng đến lúc báo môn thi tốt nghiệp các trường
mới lên kế hoạch ôn tập cho học sinh, có trường ôn theo tiết học, có trường ôn
thành một buổi học. Trước thực trạng đó người giáo viên phải có kế hoạch ôn
tập sao cho học sinh không chán học, vẫn đảm bảo được kiến thức. Bằng chút
kinh nghiệm của bản thân qua những lần ôn tốt nghiệp tôi thấy rằng, giáo viên
nên sử dụng Atlat ôn tập cùng kiến thức cơ bản theo chủ đề bám sát sách giáo
khoa. Cụ thế:
-Chủ đề 1: Địa lí tự nhiên
Trước hết, giáo viên cần củng cố kiến thức lí thuyết cho học sinh dưới dạng sơ
đồ như sau:
Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ
Đất nước nhiều đồi núi
Địa lí tự nhiên Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển
Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa
Thiên nhiên phân hóa đa dạng.
Sử dụng bảo vệ tự nhiên
Với mỗi bài giáo viên có thể nêu nhanh kiến thức cơ bản cho học sinh nắm
được. Ví dụ: bài Đất nước nhiều đồi núi học sinh cần nắm được:
+Đặc điểm chung của địa hình
6
+Có 2 dạng địa hình chính là đồi núi và đồng bằng.
+Những thuận lợi và khó khăn về tự nhiên của các khu vực đồi núi
và đồng bằng đối với phát triển kinh tế, xã hội.
Tức là với mỗi bài giáo viên cần nêu kiến thức cơ bản cho học sinh để học sinh
tự tái hiện lại kiến thức đã học từ đầu năm cho đến thời điểm thi. Sau khi hệ
thống hóa kiến thức cơ bản ở SGK( việc này mất rất ít thời gian), giáo viên cho
học sinh làm việc với Atlat bằng những câu hỏi cụ thể liên quan đến phần tự
nhiên.
Ví dụ 1:
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam trang hành chính và kiến thức đã học, hãy
xác định vị trí địa lí của nước ta. Trên đất liền , trên biển, nước ta giáp với các
nước nào?
Với câu hỏi này, giáo viên hướng dẫn cho học sinh xem bản đồ hành chính, ở
trang này còn có bản đồ Việt Nam trong Đông Nam Á. Như vậy muốn xác định
được câu trả lời của câu hỏi này, học sinh phải tìm kiếm dữ liệu ở cả trang hành
chính. Sau khi hướng dẫn học sinh xem qua Atlat, giáo viên chốt kiến thức cho
học sinh:
- Việt Nam nằm ở gần trung tâm của khu vực Đông Nam Á.
- Trên đất liền nước ta giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, giáp Lào,
Cămpuchia ở phía Tây.
- Trên biển nước ta tiếp giáp với vùng biển của các nước: Trung Quốc,
Campuchia, philippin, Malaixia, Brunay, Indonexia, Xingapo, Thái Lan.
Ví dụ 2:
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam trình bày và nhận xét sự phân bố các mỏ
dầu, khí ở vùng thềm lục địa nước ta.
Câu hỏi này, giáo viên hướng dẫn học sinh cần phải xem Atlat ở trang địa chất,
khoáng sản. Học sinh cần nắm vững các kí hiệu mỏ dầu là gì, mỏ khí là gì. Học
sinh tiếp tục làm việc với Atlat, sau khi học sinh có câu trả lời, giáo viên nêu
nhận xét đúng sai, sau đó chốt kiến thức đúng cho các em như sau:
7
-Các mỏ dầu, khí chủ yếu ở phía nam, nằm gần nhau, không quá xa đất
liền.
-Về các mỏ dầu có: Bể Cửu Long ( Hồng Ngọc, rạng Đông, Rồng, Bạch
Hổ). Bể Nam Côn Sơn ( Đại Hùng, Cái Nước).
-Mỏ khí: Bể sông Hồng ( Tiền Hải). Nam Côn Sơn ( ( Lan Tây, Lan Đỏ).
Chủ đề 2: Địa lí dân cư
Đặc điểm dân số và phân bố dân cư.
Địa lí dân cư
Lao động và việc làm.
Đô thị hóa.
Với mỗi bài giáo viên lại hệ thống những kiến thức cơ bản để học sinh tái hiện
kiến thức như phần trên. Sau đó giáo viên tiếp tục nêu các câu hỏi Atlat liên
quan đến nội dung dân cư.
Ví dụ 1:
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, nhận xét sự phân bố
các đô thị có quy mô từ 100000 người trở lên ở nước ta. Kể tên 5 thành phố trực
thuộc trung ương?
Muốn trả lời câu hỏi này, học sinh cần xác định trang Atlat cần xem là trang dân
cư ( Trang 15 ), đọc kĩ bảng chú giải, màu sắc trên bản đồ để nêu nhận xét sau:
-Phần lớn các đô thị có quy mô từ 100000 người trở lên ở nước ta tập
trung chủ yếu ở các đồng bằng, duyên hải. ĐBSH, ĐBSCL, ĐNB là những nơi
có dân cư tập trung đông nhất.
- 5 thành phố trực thuộc trung ương gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,
TP HCM, Cần Thơ.
Ví dụ 2:
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, trình bày sự phân bố
dân cư của nước ta. Giải thích nguyên nhân.
8
Câu hỏi này vẫn thuộc phần dân cư, học sinh tiếp tục khai thác kiến thức trang
15 để trả lời:
-Dân cư nước ta phân bố không đều, tập trung ở đồng bằng, thưa thớt ở
mền núi. Đồng bằng phía bắc mật độ lớn hơn phía Nam. Tây Bắc, Tây Nguyên
là những vùng có mật độ dân cư thấp.
-Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên, lịch sử khai thác
Chủ đề 3: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế .
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ kinh tế.
Ví dụ:
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và những kiến thức đã học, hãy nêu sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta.
Với câu hỏi này, đương nhiên học sinh sẽ xem Atlat liên quan đến sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, câu này khác với câu khác là học sinh nên xem biểu đồ có
sẵn trong Atlat để nêu. Nhìn vào biểu đồ miền ở trang này, học sinh sẽ thấy cơ
cấu GDP phân theo khu vực kinh tế của nước ta có sự chuyển dịc theo hướng
tăng tỉ trọng khu vực II, giảm tỉ trọng khu I, khu vực III có tỉ trọng khá cao
nhưng chưa ổn định. Sự chuyển dịch này là tích cực, phù hợp với xu hướng đổi
mới. Học sinh láy dẫn chứng ngay ở biểu đồ có sẵn trong Atlat mà không phải
học thuộc.
Chủ đề 4: Các ngành kinh tế
Đặc điểm nền nông nghiệp nước ta.
Ngành nông
nghiệp Vấn đề phát triển nông nghiệp.
9
Vấn đề phát triển ngành thủy sản và lâm nghiệp.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.
Ví dụ:
Dựa vào Atlat và kiến thức đã học, hãy nhận xét tình hình sản xuất và
phân bố cây lúa nước ở nước ta.
Ở trang này có 3 bản đồ liên quan đến 3 lĩnh vực của ngành nông nghiệp, vì vậy
giáo viên phải hướng dẫn các em chọn đúng biểu đồ liên quan đến lúa nước, sau
khi học sinh tìm hiểu có thể đưa ra câu trả lời sau:
-Lúa chiếm phần lớn trong cây lương thực, mà cây lương thực lại chiếm
trên 50% giá trị sản xuất ngành trồng trọt.
-Diện tích gieo trồng năm 2007 đạt 7,2 triệu ha ( có biến động nhỏ).
-Sản lượng lúa năm 2007 đạt 35,9 triệu tấn, tăng hơn 3,3 triệu tấn so với
năm 2000.
-ĐBSCL và ĐBSH là hai vùng trọng điểm trồng lúa ở nước ta, sau đó đến
các tỉnh duyên hải miền trung.
-Một số tỉnh có diện tích và sản lượng lúa nhiều: An Giang, Kiên Giang,
Long An, Đồng Tháp, Thanh Hóa, Thái Bình
Cơ cấu nghành công nghiệp
Công nghiệp
Vấn đề phát triển một số ngành công nghiệp trọng điểm.
Vấn đề tổ chức lãnh thổ công nghiệp.
Ví dụ:
10
Dựa vào Atlat trang bản đồ công nghiệp năng lượng, hãy nêu tên các
nhà máy điện có công suất trên 100000MW ở nước ta và giải thích sự phân bố
của chúng.
Câu hỏi này nêu rất rõ ràng, đó là: dựa vào Atlat trang công nghiệp năng lượng,
học sinh chỉ việc giở đúng trang này ( trang 22), quan sát kĩ các kí hiệu sau đó
nêu các nhà máy có công suất như đề bài yêu cầu.
Giao thông vận tải Hệ thống GTVT, các tuyến chính
Thương mại Nội thương, ngoại thương
Du lịch Hai nhóm tài nguyên du lịch, tình hình phát triển
Với những nội dung này, học sinh học qua Atlat khá dễ vì gần như các
kiến thức cơ bản đều đầy đủ như hệ thống giao thông đường bộ, tài nguyên du
lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn
Ví dụ:
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy:
a- Kể tên các trung tâm du lịch quốc gia ở nước ta.
b- Các di sản thiên nhiên thế giới và di sản văn hóa thế giới ở nước ta.
Học sinh sử dụng toàn bộ trang du lịch để trả lời với các kí hiệu rất chi tiết. Cụ
thể:
a- Các trung tâm du lịch quốc gia gồm: Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, TP HCM.
b- Các di sản thiên nhiên thế giới như: Vịnh Hạ Long Các di sản văn
hóa thế giới: cố đô Huế, phố cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn
Chủ đề 5: Địa lí các vùng kinh tế
Vùng TDMNBB
Vùng Đồng bằng sông Hồng
Vùng Bắc Trung Bộ
11
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ
Vùng Tây Nguyên
Vùng Đông Nam Bộ
Vùng ĐBSCL
Vấn đề phát triển kinh tế, an ninh QP ở BĐ
Các vùng kinh tế trọng điểm.
Đây là chủ đề xuất hiện khá nhiều trong các kì thi tốt nghiệp môn Địa.
Cũng tương tự như các chủ đề trên, với mỗi vùng giáo viên cũng hệ thống lại
kiến thức cơ bản nhất để học sinh nắm được, sau đó vận dụng các câu hỏi liên
quan đến Atlat.
Khi xem Atlat ở các vùng, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh tùy vào từng
câu hỏi để khai thác Atlat phần tự nhiên hay phần kinh tế, vì trong Atlat mỗi
vùng đều có bản đồ tự nhiên và bản đồ kinh tế. Nhiều học sinh không được
hướng dẫn các em rất dễ nhầm lẫn.
Ví dụ: trong đợt thi thử tốt nghiệp do Sở GD & ĐT ra đề có câu:
Kể tên các cảng biển đã và đang xây dựng của vùng Bắc Trung Bộ.
Trong quá trình chấm bài, tôi đã phát hiện rất nhiều em có câu trả lời là: cửa
Đáy, cửa Hội, của Nhượng thay cho câu trả lời đúng phải là: Vũng Áng, Chân
Mây, Nghi Sơn. Như vậy số học sinh này đã nhầm lẫn nội dung khi xem Atlat.
Ví dụ 1:
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam ( trang 21):
12
a-Cho biết Trung du và miền núi Bắc Bộ có các trung tâm công nghiệp
nào, nêu tên ngành công nghiệp từng trung tâm.
b-Nhận xét về sự phân bố các trung tâm ccoong nghiệp của vùng
TDMNBB.
c-Nêu tên các của khẩu quan trọng của TDMNBB và cho biết các cửa
khẩu đó thuộc tỉnh nào?
Học sinh quan sát Atlat(bản đồ kinh tế) vùng TDMNBB, sau đó giáo viên có thể
gọi học sinh cầm Atlat lên bảng làm để thay đổi không khí lớp học với câu trả
lời chính xác như sau:
a-Các trung tâm CN và các ngành CN của vùng:
+ Việt Trì: hóa chất, vật liệu xây dựng, dệt may, chế biến nông sản, sản
xuất giấy.
+ Thái Nguyên: Khai thác sắt, cơ khí, luyện kim đen, luyên kim màu, sản
xuất vật liệu xây dựng.
+ Hạ Long: cơ khí, chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng.
+ Cẩm Phả: cơ khí, khai thác than.
b- Nhận xét
Các trung tâm CN phân bố ở trung du, nơi có địa hình thấp, vị trí thuận lợi đẻ
giao lưu với bên ngoài, sẵn nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ.
c-Các cửa khẩu: Tây Trang (Điện Biên), Lào Cai (Lào Cai), Thanh Thủy (Hà
Giang), Trà Lĩnh và Tà Lùng (Cao Bằng), Hữu Nghị (Lạng Sơn), Móng Cái
(Quảng Ninh).
Ví dụ 2:
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam, kể tên( ở vùng Đông Nam Bộ ).
a. Các nhà máy thủy điện, nhiệt điện.
b. Các vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển.
c. Các mỏ dầu
Với câu hỏi nay học sinh cần xem bản đồ kinh tế của vùng Đông Nam Bộ để trả
lời:
13
a.Các nhà máy thủy điện: Trị An, Thác Mơ, Cần Đơn.
b.Các vườn quốc gia: Cát Tiên, Bù Gia Mập, Là Gò Xa Mát. Các khu dự
trữ sinh quyển: Cần Giờ, Cát Tiên.
c. Các mỏ dầu: Hồng Ngọc, Rồng, Bạch Hổ, Rạng Đông.
Trên đây là những hướng dẫn cụ thể cách sử dụng Atlat theo từng chủ đề. Ngoài
ra để sử dụng Atlat có hiệu quả giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh khai thác
các dạng biểu đồ có trong Atlat
Các dạng biểu đồ đều được thể hiện trong Atlat. Vì vậy, đây là một kênh thông
tin không thể thiếu được đối với thí sinh. Bởi lẽ, bài tập kĩ năng vẽ biểu đồ là
một câu bắt buộc trong các kỳ tuyển sinh và chiếm 2 điểm, nhưng nhiều thí sinh
còn lúng túng với các dạng biểu đồ cần vẽ, thập chí vẽ sai so với yêu cầu. Vì
vậy, cần dựa vào các dạng biểu đồ trong Atlat so với yêu cầu đề bài để vẽ chính
xác. Ngoài ra các biểu đồ trong Atlat còn giúp thí sinh có được số liệu để chứng
minh cho các câu hỏi của đề bài (việc nhớ số liệu là”nỗi sợ” của học sinh).
Ví dụ:
Hãy nêu dẫn chứng để chứng minh Việt Nam là nước có dân số đông?
Với câu này học sinh cần phải có số liệu để chứng minh, giáo viên nên hướng
dẫn cho học sinh xem số liệu ở trang dân số, ở đó có biểu đồ cột thể hiện số dân
của Việt Nam. Tất nhiên chỉ số liệu ở Atlat là không đủ, nhưng ít ra học sinh
cũng đỡ “ngán” với số liệu không phải là ít của môn Địa. Việc lấy dẫn chứng
cho các ngành kinh tế, GDP, các vùng, thành phần kinh tế hầu hết đều có trong
Atlat. Trong quá trình ôn tập thi tốt nghiệp giáo viên không nên bỏ qua khâu
hướng dẫn học sinh khai thác các biểu đồ ở Atlat.
Giáo viên lưu ý học sinh: Khi học đến bài nào, học sinh cần đối chiếu với
trang Atlat liên quan để hiểu và nhớ bài hơn. Qua việc đối chiếu, học sinh biết
được các địa danh, số liệu nào đã được thể hiện trong Atlat để khi cần thì huy
động mà không cần mất nhiều thời gian, việc học như vậy sẽ nhàn hơn. Hầu hết
các số liệu về các ngành kinh tế và các vùng kinh tế đều có trong Atlat. Nắm
vững các vấn đề được thể hiện trong Atlat, thí sinh sẽ tự tin hơn. Vấn đề quan
14
trọng ở đây là các em cần phải hiểu và biết cách phân tích các số liệu đó như thế
nào.
Để có kết quả cao đối với bộ môn Địa, không chỉ sử dụng mình Atlat.
Atlat không phải là câu thần chú “ Vừng ơi, mở cửa ra” mà còn phải kết hợp
nhiều phương tiện, nhiều kiến thức khác nhau. Trong khuôn khổ của đề tài, tác
giả không thể tham vọng nêu hết ý tưởng của mình mà chỉ nêu một khía cạnh
của việc ôn thi tốt nghiệp đó là sử dụng Atlat. Trong quá trình ôn tập cho học
sinh tôi thường phân chia thời gian như sau, thời gian một buổi là 3 tiết: Củng cố
kiến thức lí thuyết(đã nêu), lấy dẫn chứng bằng các câu hỏi sử dụng Atlat và
cuối cùng là các bài tập thực hành liên quan cũng theo chủ đề. Giáo viên cũng
không nên ôn cho học sinh nhiều loại biểu đồ phức tạp, không cần thiết như biểu
đồ đường chỉ số, tính bán kính đối với biểu đồ hình tròn( chỉ thi Đại học) vì
thực tế trong các đề thi tốt nghiệp câu hỏi vẽ biểu đồ rất dễ, không đánh đố học
sinh và nêu cụ thể dạng biểu đồ.
Ví dụ: Dựa vào bảng số liệu vẽ biểu đồ hình tròn, vẽ biểu đồ cột chỉ cần giáo
viên dạy để học sinh nhận dạng biểu đồ là được, dạy cách nhận xét cơ bản từ
chung đến riêng, lấy dẫn chứng năm đầu, năm cuối
4. Kiểm nghiệm
Đề tài này tôi thực hiện từ năm học 2010 đến nay, đặc biệt trong năm học
2012-2013 tôi tiến hành thực hiện ở 4 lớp là: 12C1, 12C6, 12C8,12C9. Trong
quá trình ôn thi tốt nghiệp tôi đã làm phiếu thăm dò học sinh với câu hỏi:
Em thấy việc sử dụng Atlat để ôn thi tốt nghiệp như thế nào:
Thích :
Không thích :
Tạm được :
Đánh dấu x vào câu trả lời của em, chỉ được chọn một đáp án.
Kết quả mà tôi thu được như sau: Tổng số học sinh được hỏi ở 4 lớp là 165
Thích: 102 học sinh
Tạm được: 50 học sinh
15
Không thích: 13 học sinh.
Kết quả này theo tôi phản ánh đúng tâm lí của học sinh vì thực tế các em
được ôn thi qua kênh hình nhiều màu sắc rất hiệu quả như Atlat, lại được biết
nhiều thông tin về đất nước, con người Việt Nam, nhiều kiến thức ở Atlat học
sinh tỏ ra thích thú ví dụ các điểm du lịch, các cửa khẩu, các đường giao thông
mà em sẽ đi trong kì thi Đại học đỡ phải học kiến thức lí thuyết, ít nhất nắm
vững Atlat+ kĩ năng vẽ biểu đồ chắc chắn các em sẽ được 5 điểm, với học sinh
khá giỏi kết quả này còn cao hơn. Trước đây nhiều em không dám bỏ tiền ra để
mua cuốn Atlat, thì hiện nay các em sẵn sàng xin gia đình hơn 30.000 đồng để
mua, có em còn nói Atlat không chỉ phục vụ cho thi tốt nghiệp mà các em còn
xem như một cuốn sách hay để dùng sau này.
Như tác giả đã nói, Atlat không phải là câu thần chú “ Vừng ơi mở của
ra”, chỉ là một phương tiện hỗ trợ để thực hiện ôn thi tốt nghiệp với môn Địa, vì
vậy người giáo viên phải tìm tòi, sáng tạo để các em lĩnh hội kiến thức 1 cách tự
nhiên, không nhàm chán . Năm học 2011-2012 khi thực hiện ôn tốt nghiệp dạy
theo cách này, kết quả bộ môn Địa ở trường tôi khá cao( cả trường đậu tốt
nghiệp là 99,8%). Cụ thể:
-80% học sinh đạt từ 5 điểm trở lên trong đó: + Điểm 10: không
+ Điểm 9: 0,8 %
+ Điểm 7-8: 50 %
+ Điểm 5-6: 20,2%
- 20% số học sinh còn lại điểm dưới 5.
Năm học 2012-2013, hi vọng với cách dạy này, kết quả điểm thi tốt nghiệp của
các em sẽ cao hơn năm ngoái.
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Điểm của một bài thi tốt nghiệp bao gồm nhiều nội dung, trong đó có nội
dung sử dụng Atlat. Bản thân tôi, năm nào có thi tốt nghiệp môn Địa tôi đều
tham gia ôn tập cho các em, tôi nhận thấy nếu người giáo viên chỉ dạy đối phó,
không tìm tòi, sáng tạo thì những tiết ôn tập của các em sẽ trở thành” cực hình”,
16
thậm chí trước đây có những buổi ôn thi tốt nghiệp tôi dạy thì chỉ có 17 em theo
học, trong khi sĩ số lớp là 40. Tôi đã từng rơi vào trường hợp này, tôi trăn trở rất
nhiều. Nếu cứ dạy theo kiểu truyền thống( đưa câu hỏi, đọc cho học sinh chép-
tôi biết nhiều giáo viên viên còn áp dụng cách này, có sử dụng Atlat thì qua loa),
học sinh sẽ không hứng thú, dựa dẫm vào tài liệu để mang vào phòng. Bản thân
giáo viên dạy cũng sẽ rất mệt mỏi. Vì vậy, bản thân mỗi người giáo viên nói
chung, dạy môn Địa nói riêng, nhất là khi ôn thi tốt nghiệp luôn luôn phải tìm
tòi, sáng tạo để lôi cuốn học sinh yêu thích bộ môn của mình hơn.
Trên đây chỉ là những kinh nghiệm nhỏ của bản thân khi thực hiện việc
ôn thi tốt nghiệp môn Địa cho học sinh lớp 12 qua Atlat. Đề tài tôi chọn chắc
cũng không mới với nhiều đồng nghiệp, và chắc chắn còn nhiều thiếu sót, nhưng
tôi hi vọng sẽ góp 1 phần nhỏ nào đó cho bộ môn Địa nói chung và việc ôn thi
tốt nghiệp qua Atlat nói riêng ngày càng tốt hơn. Rất mong nhận được những
đóng góp quý báu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Kiến nghị
- Sở GD&ĐT cần mở các lớp tập huấn cho giáo viên kỹ năng sử dựng Atlat
trong dạy và học.
- Tổ chức các hội thảo chuyên đề về sử dụng Atlát Việt Nam để GV các
trường cùng trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau.
- Mỗi năm học nhà trường nên mua cho giáo viên 1 cuốn Atlat xuất bản mới
nhất để giáo viên cập nhật thông tin.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa ngày 25 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
17
Lê Thị Hương
IV- PHẦN PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục trung học phổ thông môn Địa
( NXB giáo dục năm 2007).
18
2. Đổi mới phương pháp dạy học Địa lí ở THPT-Nhà xuất bản Gíao Dục-
Năm 2004
3. Atlat Địa lí Việt Nam của Bộ Gíao Dục và Đào Tạo (Nhà xuất bản
GDVN-2009).
4. Sách giáo khoa Địa lí 12.
5. Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp THPT năm học 2011-2012 môn Địa lí
( Phạm Thị Sen chủ biên)
6. Một số tư liệu khác như báo
19
20