Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Hệ thống pháp luật của nhà nước đối với KTNN và thực tiễn áp dụng của hoạt động kiểm toán DNNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.04 KB, 46 trang )

Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
MỤC LỤC
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
Danh mục chữ viết tắt
KTNN : Kiểm toán nhà nước
KTHĐ : Kiểm toán hoạt động
KTTT : Kiểm toán tuân thủ
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
KTV : Kiểm toán viên
BCTC : Báo cáo tài chính
TSCĐ : Tài sản cố định
NSNN : Ngân sách nhà nước
KTV : Kiểm toán viên
CMKT : Chuẩn mực kiểm toán
QTKT : Quy trình kiểm toán
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TCT : Tổng Công ty
XDCB : Xây dựng cơ bản
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
Lời mở đầu
Cho đến nay kiểm KTNN Việt Nam đã đi được chặng đường hơn 15 năm.
Tuy không phải là một thời gian dài nhưng hoạt động kiểm toán Việt Nam đã và
đang có những đóng góp quan trọng trong việc lành mạnh hoá nền tài chính Việt
Nam, tạo đà cho sự phát triển kinh tế. Do sự đòi hỏi của thực tiễn, Việt Nam
đang dần hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước đối với KTNN dựa trên
những kinh nghiệm của quốc tế và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Sự ra đời của
hệ thống pháp luật của nhà nước đối với KTNN đã đóng góp vai trò quan trọng
cho sự phát triển của hoạt động kiểm toán Việt Nam.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi chọn đề tài : “Hệ thống pháp luật của


nhà nước đối với KTNN và thực tiễn áp dụng của hoạt động kiểm toán
DNNN”. Đề tài gồm 3 nội dung chính:
Chương 1: Tổng quan về KTNN và hệ thống pháp luật của nhà nước
đối với KTNN
Chương 2:Thực tiễn áp dụng của hoạt động kiểm toán DNNN ở Việt
Nam hiện nay
Chương 3: Một số kiến nghị về hệ thống pháp luật của KTNN
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
1
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
Chương 1
Tổng quan về KTNN và hệ thống pháp luật của
nhà nước đối với KTNN
1.1. Kiểm toán nhà nước
1.1.1.Khái niệm kiểm toán nhà nước
KTNN là bộ máy chuyên môn của nhà nước thực hiện chức năng kiểm
toán tài sản công. Lịch sử của nhiều nước trên thế giới cho thấy, Kiểm toán
Nhà nước (KTNN) ra đời rất sớm, đảm nhận những chức năng, nhiệm vụ có ý
nghĩa quan trọng và không thể thiếu được của Nhà nước pháp quyền hiện đại
theo thể chế kinh tế thị trường trong việc kiểm soát, quản lý việc sử dụng
nguồn lực tài chính công.
Để tăng cường sự ̣ kiểm soát của Nhà nước trong việc sử dụng NSNN
và công quỹ quốc gia, bảo đảm tính trung thực, chính xác, hợp pháp và hợp lệ
của việc sử dụng nguồn lực tài chính công; ngăn ngừa đối với sự xâm hại tài
sản Nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền có hiệu lực trong việc quản lý
kinh tế - xã hội, đòi hỏi phải thành lập một cơ quan độc lập với cơ quan trực
tiếp quản lý ngân sách và tài sản Nhà nước nhằm kiểm tra tính tuân thủ của
việc sử dụng tiền của của Nhà nước và nhân dân theo những quy định của
pháp luật hiện hành; đảm bảo sự minh bạch về tài chính và hiệu quả sử dụng
nguồn lực tài chính này. Chính vì vậy, ngày 11/7/1994, Chính phủ đã ban

hành Nghị định số 70/CP về việc thành lập cơ quan KTNN và Quyết định số
61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ
Tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước để "giúp Thủ tướng Chính
phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các
tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của cơ quan Nhà nước, các đơn
vị kinh tế Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử̉ dụng
kinh phí do NSNN cấp" đánh giá sự tuân thủ pháp luật và hiệu quả hoạt động
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
2
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
của các đơn vị được kiểm toán. Với tinh thần đó, hàng năm các số liệu, báo
cáo quyết toán ngân sách của các địa phương trước khi trình ra Hội đồng nhân
dân; Tổng quyết toán NSNN trước khi trình ra Quốc hội; báo cáo quyết toán
của các cơ quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách, các chương trình, dự̣ án, công
trình đầu tư -xây dựng cơ bản của Nhà nước, các DNNN cần phải được
KTNN tiến hành kiểm toán và xác nhận.
Với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công tối cao, KTNN phải thực
hiện 4 nhiệm vụ quan trọng:
Một là, KTNN phải báo cáo và tư vấn cho Quốc hội về những vấn đề
có liên quan trong quá trình ra các quyết định của Quốc hội, không những ở
chừng mực Quốc hội là cơ quan giám sát cơ quan hành pháp, mà cả trong việc
thực hiện nhiệm vụ của mình với tư cách là cơ quan ban hành Luật NSNN và
các đạo luật chuyên môn có hiệu lực tài chính.
Hai là, KTNN phải báo cáo, tư vấn và giải toả trách nhiệm cho Chính
phủ, cụ thể là cho các cấp quản lý hành chính Nhà nước, các Bộ, ban, ngành
trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, cũng như về tác động tài chính của
những biện pháp đề ra.
Ba là, KTNN thực hiện chức năng phòng ngừa và răn đe những biểu
hiện tham nhũng, lãng phhí và những hành vi lạm dụng nguồn lực tài chính
của Nhà nước

Bốn là, KTNN cần thông báo công khai trước công luận về việc sử
dụng các nguồn lực tài chính của Nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm của KTNN.
KTNN là cơ quan công quyền thực thi theo quyền lực nhà nước không
cần có sự chấp thuận hay yêu cầu của đơn vị được kiểm toán. KTNN thực
hiện kiểm toán sẽ theo chương trình kế hoạch được Tổng KTNN quyết định,
nội dung, phạm vi kiểm toán cũng do Tổng KTNN quyết định.
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
3
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
Kiểm toán nhà nước không chỉ thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm
vụ như kiểm toán tư nhân mà còn có chức năng được đảm bảo bằng chính địa
vị pháp lý của nó là thúc đẩy việc thực thi các kiến nghị và điều chỉnh đã nêu
trong các báo cáo kiểm toán , trong việc kiểm soát và quản lý nền kinh tế đã
thấy rõ kiểm toán nhà nước có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các
chức năng kiểm tra, giám sát , kiểm soát và quản lý nền kinh tế.
Kiểm toán nhà nước là cơ quan chức năng của nhà nước hoạt động
không vì mục đích lợi nhuận cho bản thân cơ quan kiểm toán mà vì toàn bộ
nền kinh tế, nên hoạt động của kiểm toán nhà nước mang tính khach quan,
không trục lợi. Kiểm toán nhà nước là cơ quan có địa vị pháp lý đủ mạnh để
thực hiện các chức năng kiểm tra , kiểm soát , cảnh báo và trên giác độ vi
mô , có thể góp phần ngăn chặn các nguy cơ dẫn đến phá sản cho doanh
nghiệp được kiểm toán, và mở rộng hơn trên giác độ vĩ mô có thể cảnh báo cá
nguy cơ dẫn đến các khó khăn tài chính , khủng hoảng cho các nghành cũng
như cho toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa, kiểm toán nhà nước có thể liên kết với
các cơ quan hữu quan đẻ thuc đẩy quá trình thực thi các kiến nghị kiểm toán,
và trên phương diện nhất định có thẩm quyền pháp lý để buộc các đối tượng
kiểm toán và các bên liên quan thực hiện điều chỉnh quản lý , khắc phục các
vi phạm sửa sai và chấn chỉnh trong công tác tài chính .
1.1.3. Vai trò của kiểm toán nhà nước trong nền kinh tế.

Bất cứ một chế độ xã hội nào , ngân sách nhà nước cũng là nguồn lực
quan trọng nhất đảm bảo tài chính cho mọi lĩnh vực. Hoạt động của bộ máy
nhà nước, một trong những công cụ để góp phần quản lý và sử dụng có hiệu
lực nguồn lực ấy là cơ quan kiểm toán nhà nước nhất là trong điều kiện nền
kinh tế chuyển đổi như nước ta hiện nay. Kiểm toán nhà nước đã khẳng định
sự cần thiết và vai trò ngày càng lớn của mình trong việc góp phần quản lý
kinh tế vĩ mô nói chung vã trong lĩnh vực quản lý ngân sách nhà nước công
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
4
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
quỹ quốc gia nói riêng với chức năng kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính
đúng đắn chung thực, chính xác ,hợp pháp, hợp lệ của số liệu kiểm toán , báo
cáo kiểm toán của các đơn vị nhà nước, đơn vị kinh tế, đơn vị sự nghiệp , các
đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội.
Trong quá trình hoạt động vai trò của kiểm toán nhà nước không ngừng
được củng cố và tăng cường đáp ứng một phần yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn
trong việc quản lý điều hành đất nước, nó được thể hiện một số mặt chủ yếu sau.
* Thứ nhất góp phần kiểm tra việc chấp hành những quy định hiện
hành về nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước ,thực hiện nộp đúng, nộp đủ theo
quy định của pháp luật.
* Thứ hai kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng ngân sách nhà nước chống
thất thoát, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước.
* Thứ ba cung cấp cơ sở dữ liệu để thực hiện việc quyết định và quản
lý ngân sách nhà nước sát thực và có hiệu quả hơn. Một trong những vấn đề
quan trọng để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của việc sử dụng ngân sách nhà
nước và công quỹ quốc gia trong việc quản lý điều tiết nền kinh tế là dự toán
ngân sách nhà nước.
Thông qua việc kiêm tra tài chính. Kiểm toán nhà nước đã chỉ ra những
bất họp lý trong việc xác định những chỉ tiêu thu, chi ngân sách nhà nước,
góp phần tạo lập cơ sở, căn cứ để xây dựng dự toán ngân sách nhà nước cho

những năm sau, nhằm thu đúng thu đủ, chống thất thu cho ngân sách nhà
nước. Đồng thời kiến nghị việc phân bổ ngân sách nhà nước cho các ngành,
các địa phương một cách hợp lý. Ngoài ra ngành kiểm toán nhà nước đã góp
phần đánh giá một cách sát thực tình hình tài chính của các doanh nghiệp
trong khu vực kinh tế nhà nước làm căn cứ cải tiến quản lý doanh nghiệp,
điều chỉnh các chính sách kinh tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước
cùng với việc huy động vốn đầu tư phát triển.
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
5
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
* Thứ tư thông qua hoạt động kiểm toán, kiểm toán nhà nước đã đề xuất,
kiến nghi nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách về kinh tế tài chính
và ngân sách nhà nước ở các cơ quan, đơn vị trung ương và địa phương.
1.1.4. Hoạt động kiểm toán
Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là việc kiểm tra, đánh
giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính; việc tuân thủ
pháp luật; tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước do các kiểm toán viên nhà nước tiến hành.
Luật KTNN, Chương IV gồm bảy mục với 29 điều quy định chi tiết và
cụ thể nội dung liên quan hoạt động kiểm toán gồm: Quyết định kiểm toán;
Loại hình kiểm toán và nội dung của từng loại hình kiểm toán; Thời hạn kiểm
toán, địa điểm kiểm toán; Đoàn kiểm toán, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm
của Trưởng đoàn kiểm toán, Tổ trưởng kiểm toán và các thành viên khác của
đoàn kiểm toán; Quy trình kiểm toán; Công khai kết quả kiểm toán, theo dõi,
kiểm tra việc thực hiện kiến nghị kiểm toán và hồ sơ kiểm toán. Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định việc kiểm toán đối với một số hoạt động thuộc
lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Hoạt động kiểm toán có ý nghĩa nhằm đánh giá hiệu quả việc sử dụng hợp
lý, hợp lệ các nguồn tài chính của Nhà nước. Kết quả này góp phần làm lành
mạnh hóa nền tài chính quốc gia trong việc hoạch định chính sách tài chính

1.1.5. Tổ chức cơ quan.
KTNN được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất gồm bộ máy điều
hành, KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực và các đơn vị sự nghiệp. Hiện
nay KTNN có 25 đơn vị thuộc và trực thuộc.
Theo Luật KTNN, Tổng KTNN là người đứng đầu KTNN, chịu trách
nhiệm về tổ chức và hoạt động của KTNN trước pháp luật, Quốc hội, Uỷ Ban
thường vụ Quốc hội và Chính phủ do Quốc hội bầu với nhiệm kỳ 7 năm.
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
6
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
Hội đồng kiểm toán nhà nước do Tổng KTNN quyết định thành phần.
Hội đồng này có thẩm quyền không chỉ tư vấn thẩm định hoặc tái thẩm định
các báo cáo của KTNN bị khiếu nại mà cần thiết nên mở rộng đến việc thẩm
định, tái thẩm định cuối cùng các báo cáo kết luận liên quan hạch toán kế toán
NSNN của các cơ quan khác (Điều 25, 26 của Luật KTNN).
Tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm toán được thực hiện theo hình thức
Đoàn kiểm toán. Đoàn kiểm toán gồm Trưởng đoàn, phó đoàn, các tổ trưởng
và các thành viên khác. Hoạt động của đoàn phải đảm bảo nguyên tắc độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật, trung thực, khách quan.
1.1.6. Sự phát triển của KTNN ở Việt Nam.
Sự hình thành và phát triển KTNN ở Việt Nam là không có tiền lệ
trong cơ cấu tổ chức Nhà nước, không có tổ chức tiền thân nhưng phù hợp với
thông lệ quốc tế và tiến trình cải cách nền hành chính quốc gia. 15 năm qua,
với phương châm: "Vừa xây dựng tổ chức bộ máy, vừa phát triển lực lượng
kiểm toán viên, vừa đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, vừa triển khai kế hoạch
kiểm toán hàng năm được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt", KTNN đã chủ
động vươn lên và khẳng định sự cần thiết hình thành và phát triển KTNN ở
Việt Nam; đáp ứng yêu cầu không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. . Hoạt động KTNN đã có bước phát triển lớn
mạnh, nhất là từ khi Luật KTNN có hiệu lực thi hành từ 2006. Tổng hợp kết

quả kiểm toán 15 năm qua, KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý tài chính
với tổng số tiền 56.412 tỉ đồng, trong đó tăng thu về thuế và các khoản thu
khác 14.858 tỉ đồng, giảm chi NSNN 7.838 tỉ đồng, ghi thu-ghi chi để quản lý
qua NSNN 12.747 tỉ đồng và kiến nghị xử lý tài chính khác 20.969 tỉ đồng.
Tính riêng 5 năm gần đây, đã kiến nghị xử lý tài chính 46.455 tỉ đồng, trong
đó tăng thu về thuế và các khoản thu khác 10.020 tỉ đồng, giảm chi NSNN
6.465 tỉ đồng, ghi thu - ghi chi để quản lý qua NSNN 9.002 tỉ đồng, kiến nghị
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
7
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
xử lý tài chính khác 20.968 tỉ đồng; bình quân 1 đồng NSNN cấp cho KTNN
đã góp phần tiết kiệm cho NSNN 58 đồng, gồm thu về cho NSNN được 36
đồng và giảm chi cho NSNN 22 đồng.
Ngoài ra, KTNN đã kiến nghị hủy bỏ, sửa đổi hàng trăm văn bản quy
phạm pháp luật sai quy định hoặc không phù hợp thực tế. Chỉ tính riêng từ năm
2006 đến nay đã kiến nghị các Bộ, ngành, địa phương hủy bỏ 109 văn bản, sửa
đổi, bổ sung 25 văn bản (Nghị định, Nghị quyết, Quyết định, Thông tư ).
Đặc biệt, KTNN đã đề xuất nhiều ý kiến có giá trị để hoàn thiện nhiều
văn bản quy phạm pháp luật, nhất là Luật NSNN 1996, 2002, Luật Bảo hiểm
xã hội, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Phòng, chống tham
nhũng Đây là những đóng góp thiết thực của KTNN với chức năng tư vấn
của cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước
Tuy nhiên, quan trọng hơn cả là qua kiểm toán đã giúp các đơn vị thấy
được thực trạng tình hình tài chính, sự sai sót trong quản lí chi NSNN, quản lí
vốn và tài sản hạch toán chi phí giá thành và kết quả sản xuất kinh doanh, thấy
được những yếu kém sơ hở trong quản lí kinh tế và sản xuất kinh doanh, chấn
chỉnh sai sót, ngăn ngừa các hành vi tham ô lãng phí từ đó đơn vị chấn chỉnh
công tác tài chính kế toán, thiết lập kỉ cương trong việc chấp hành các chính sách
chế độ nhà nước; đề xuất các giải pháp với các cơ quan chức năng trong việc
hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính, lập và giao kế hoạch ngân sách, tăng

cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện NSNN, xử lí các vi phạm trong thu chi
điều hành và quyết toán NSNN. Những số liệu kiểm toán còn cung cấp cho cơ
quan quản lí nhà nước tình hình quản lí và sử dụng các nguồn lực NSNN trong
từng địa phương và đơn vị; cung cấp các thông tin xác thực cho các cơ quan
quản lí nhà nước về thực trạng thu chi, điều hành và quyết toán NSNN Nó
cũng là một trong những căn cứ để quốc hội xem xét quyết định phân bổ và phê
chuẩn quyết toán NSNN, đồng thời giúp chính phủ hoạch định chính sách và đề
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
8
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
ra các biện pháp tăng cường quản lí vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động
thực tiễn, KTNN đã xứng đáng là công cụ bảo vệ sự minh bạch của nền tài chính
quốc gia, góp phần quan trọng vào quá trình quản lý, điều hành và sử dụng
NSNN; đặc biệt là vai trò phòng ngừa và răn đe.
Hiện nay, các khu vực trên thế giới đều hình thành Tổ chức các Cơ
quan Kiểm toán tối cao và đều ra nhập Tổ chức Quốc tế các Cơ quan Kiểm
toán tối cao (International Organization of Supreme Audit Institutions -
INTOSAI) với 178 thành viên.
Năm 1996, KTNN Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức
Quốc tế các Cơ quan Kiểm toán tối cao - INTOSAI).
Năm 1997, KTNN Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức các
Cơ quan Kiểm toán tối cao châu á (Asian Organization of Supreme Audit
Institutions - ASOSAI).
1.2. Hệ thống pháp luật của nhà nước đối với KTNN.
1.2.1. Vai trò của hệ thống pháp luật của KTNN đối với hoạt động của
KTNN
Các văn bản liên quan đến hoạt động kiểm toán cuả kiểm toán nhà
nước bao gồm:
Luật Kiểm toán Nhà nước, các văn bản pháp luật về quản lý kinh tế, tài
chính, kế toán và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước đối với doanh

nghiệp nhà nước;
Luật kiểm toán nhà nước ra đời đáp ứng được đòi hỏi về hoàn thiện hệ
thống pháp luât để củng cố và phát triển Kiểm toán Nhà nước
- Thực tế, điều chỉnh hoạt động của Kiểm toán Nhà nước của nhiều
nước trên thế giới đã khẳng định hiệu lực hoạt động của cơ quan Kiểm toán
Nhà nước tuỳ thuộc vào địa vị pháp lý, chức năng và tính độc lập của cơ quan
Kiểm toán Nhà nước. Luật kiểm toán nhà nước có giá trị pháp lý cao hơn các
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
9
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
văn bản dưới luật để quy định một cách phù hợp về tổ chức và hoạt động của
Kiểm toán Nhà nước.
Việc ban hành Luật kiểm toán nhà nước xác định rõ ràng, hợp lý hơn
địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước để tăng cường vị thế và vai trò của
Kiểm toán Nhà nước trong việc trợ giúp Quốc hội, Chính phủ quản lý, giám
sát tài chính nhà nước và tài sản công.
- Nhiều vần đề liên quan đến Kiểm toán Nhà nước trong Luật ngân
sách nhà nước, Luật ngân hàng nhà nước và các luật khác chỉ dừng ở mức
quy định chung, chưa được cụ thể hoá dẫn tới khó khăn trong quá trình thực
hiện như quy định thời hạn gửi báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước; kiểm
toán quyết toán ngân sách sau khi Quốc hội, Hội đồng nhân dân phê chuẩn;
trách nhiệm cụ thể của kiểm toán nhà nước trong báo cáo kết quả kiểm toán.
ban hành Luật kiểm toán nhà nước nhằm giải quyết những vướng mắc phát
sinh trong thực tiễn hoạt động kiểm toán và khắc phục những hạn chế của hệ
thống pháp luật hiện hành về Kiểm toán Nhà nước,
Hệ thống Chuẩn mực trong hoạt động kiểm toán nói chung và Hệ thống
Chuẩn mực của KTNN nói riêng có vai trò và tác dụng rất lớn, đó là:
- Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán là đường lối, là thước đo giúp cho
các kiểm toán viên hoàn thành trách nhiệm nghề nghiệp của mình trong quá
trình kiểm toán.

- Dựa vào Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán, tổ chức kiểm toán nói
chung và KTNN nói riêng xây dựng quy trình, nội dung và tổ chức các cuộc
kiểm toán đạt hiệu quả mong muốn.
- Dựa vào Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán, KTNN có thể kiểm tra,
kiểm soát một cách chặt chẽ các hoạt động kiểm toán của từng kiểm toán
viên, của các Đoàn kiểm toán, Tổ kiểm toán, giảm thiểu rủi ro trong hoạt
động kiểm toán của KTNN.
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
10
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
- Dựa vào Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán và mức độ tuân thủ chuẩn
mực kiểm toán của các kiểm toán viên, Chính phủ, Quốc hội và công chúng
có được mức độ tin cậy đối với các kết quả kiểm toán của KTNN và sự minh
bạch hoá các thông tin tài chính công khai đã được kiểm toán của KTNN.
Sự giám sát của nhân dân về việc quản lý và sử dụng tài chính công của
Chính phủ và các cơ quan, tổ chức quản lý và sử dụng tài chính công thông
qua quyền giám sát tối cao của Quốc hội. KTNN là một công cụ của Quốc
hội, của nhân dân để thực hiện các quyền năng này. Trong khi đó toàn bộ hoạt
động kiểm toán của KTNN phải bám sát Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán.
Điều này cho thấy vai trò quan trọng của Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán
trong hoạt động của KTNN.
1.2.2. Thực trạng hệ thống pháp luật của kiểm toán nhà nước đối với KTNN.
Ở Việt Nam trước đây, Kiểm toán Nhà nước được thành lập và hoạt
động theo Nghị định số 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ,
Quyết định số 61/TTg ngày 24 tháng 01 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước, Luật
ngân sách nhà nước, Luật ngân hàng nhà nước và một số văn bản pháp luật
khác. Hoạt động kiểm toán của kiểm toán Nhà nước trong giai đoạn đầu chủ
yếu được thực hiện dựa trên các quy định hiện hành của Nhà nước và vận
dụng các Chuẩn mực kiểm toán của INTOSAI (Tổ chức Quốc tế các Cơ quan

Kiểm toán tối cao), ASOSAI (Tổ chức các cơ quan Kiểm toán tối cao Châu
Á) và của IFAC (Liên đoàn Kế toán quốc tế); do các Chuẩn mực này thường
mang tính định hướng và khuyến cáo chung, thiếu tính cụ thể khi áp dụng vào
tình hình thực tế của mõi quốc gia nên các cuộc kiểm toán của kiểm toán Nhà
nước được thực hiện dựa trên kinh nghiệm về kiểm tra kế tóan và thanh tra là
chủ yếu (với đội ngũ Kiểm toán viên ban đầu được xét tuyển chủ yếu là đã có
kinh nghiệm về công tác kiểm tra, thanh tra thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
11
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
trong nền kinh tế). Hạn chế của việc vận dụng này là các cuộc kiểm toán được
thực hiện thiếu sự thống nhất về trình tự và các bước tác nghiệp; kiểm toán
viên lúng túng khi tác nghiệp kiểm toán; báo cáo kiểm toán thiếu tính thống
nhất, thể hiện dưới nhiều dạng mẫu biểu, nhận xét và kết luận khác nhau;
chất lượng và hiệu quả của hoạt động kiểm toán hạn chế và thiếu ổn định -
đây chính là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến kết luận và kiến nghị của
Kiểm toán Nhà nước đôi khi chưa chính xác, chứa đựng nhiều sai sót và rủi
ro, đồng thời thiếu cơ sở pháp lí để kiểm soát chất lượng và đạo đức hành
nghề của kiểm toán viên nhà nước.
Để khắc phục tình trạng trên, từ năm 1996, Kiểm toán Nhà nước đã
triển khai nhiều công trình nghiên cứu nhằm vận dụng các kinh nghiệmc ủa
các nước và các khuyến cáo của INTOSAI, ASOSAI để xây dựng Hệ thống
Chuẩn mực của KIểM TOÁN Nhà nước phù hợp với trình độ của Kiểm toán
viên nhà nước, mức độ phát triển của Kiểm toán Nhà nước, đặc điểm, điều
kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam và các thông lệ quốc tế. Trên cơ sở các kết
quả nghiên cứu, ngày 24/12/1999, Tổng Kiểm toán Nhà nước đã ban hành Hệ
thống Chuẩn mực kiểm toán nhà nước theo Quyết định số 06/1999/QĐ-
KTNN làm cơ sở cho việc ban hành các quy định trong tổ chức quản lý và
thực hiện kiểm toán một cách thống nhất. Hệ thống Chuẩn mực được ban
hành năm 1999 gồm 14 chuẩn mực và chia làm 3 nhóm, mỗi nhóm gồm các

hướng dẫn và quy định riêng. Cụ thể:
- Nhóm chuẩn mực chung đưa ra các hướng dẫn về tính độc lập và yêu
cầu về khả năng trình độ chuyên môn của các Kiểm toán viên làm cơ sở cho
việc tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng nhằm trang bị cho các kiểm toán viên
những kiến thức chuyên môn cần thiết đáp ứng được công việc đòi hỏi
chuyên môn cao. Đồng thời đưa ra các hướng dẫn về tính thận trọng và bảo
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
12
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
mật nhằm tránh rủi ro và sai sót có thể có trong quá trình nhận xét, đánh giá
và kết luận về các vấn đề kinh tế - tài chính của đối tượng kiểm toán.
- Nhóm chuẩn mực thực hành, đưa ra các hướng dẫn về các quy định và
nguyên tắc cần tuân thủ cho các bước kiểm toán từ khâu lập kế hoạch, nghiên
cứu đánh giá về hệ thống kiểm soát của đối tượng sao cho tiết kiệm thời gian,
chi phí cho một cuộc kiểm toán trong khi kết quả kiểm toán hạn chế được các
rủi ro và sai sót có thể có. Đưa ra các hướng dẫn về đánh giá các trọng yếu và
rủi ro, các kỹ thuật thu thập bằng chứng làm cơ sở dẫn liệu đó trên cơ sở đó
kiểm toán viên đưa ra các nhận xét, đánh giá, tránh suy luận mang tính chủ
quan. Đồng thời đưa ra các hướng dẫn về việc kiểm tra và soát xét chất lượng
kiểm toán đảm bảo sản phẩm của kiểm toán Nhà nước là các Báo cáo kiểm
toán có chất lượng cao.
- Nhóm chuẩn mực báo cáo đưa ra được các quy định cụ thể làm hướng
dẫn về việc các Kiểm toán viên cần làm để lập các Báo cáo kiểm toán với nội
dung và thể thức phù hợp theo yêu cầu của Kiểm toán Nhà nước đáp ứng các
yêu cầu về quản lý.
- Hệ thống chuẩn mực chính là căn cứ pháp lý quan trọng để Kiểm toán
Nhà nước ban hành các quy định, quy chế hoạt động và biểu mẫu báo cáo kiểm
toán, đảm bảo việc điều chỉnh hoạt động kiểm toán đạt hiệu lực và hiệu quả cao.
Đồng thời điều chỉnh các hoạt động của Kiểm toán Nhà nước, phương pháp
nghiệm vụ do các kiểm toán viên thực hiện đi vào nề nếp, quy chuẩn hóa các

công việc cần phải làm của một cụoc kiểm toán, làm cơ sở để đánh giá, so sánh
và nâng cao chất lượng các cuộc kiểm toán, rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí
và giảm thiểu các sai sót, rủi ro trong hoạt động kiểm toán.
Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Nhà nước được ban hành và thực hiện,
bên cạnh những mặt tích cực đang phát huy tác dụng cũng còn tồn tại nhiều
hạn chế cần phải nhanh chóng khắc phục. Cụ thể:
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
13
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
- Hệ thống chuẩn mực áp dụng hiện nay mới chỉ điều chỉnh một chức
năng của kiểm toán Nhà nước là kiểm toán báo cáo tài chính, chưa có được
một hệ thống các chuẩn mực để điều chỉnh các chức năng kiểm toán khác như
kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ. Trong khi đó đây là các loại hình
kiểm toán tương đối phổ biến trên thế giới và đang đan xen trong hoạt động
của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam.
- Nhiều chuẩn mực của chúng ta được dịch từ các chuẩn mực quốc tế,
chưa được Việt hóa hoặc hướng dẫn kỹ do đó rất khó hiểu, làm cho các kiểm
toán viên lúng túng khi áp dụng như các chuẩn mực về lập kế hoạch kiểm
toán, khảo sát hệ thống kiểm soát nội bộ, về trọng yếu và rủi ro kiểm toán.
Hoặc có nữhng chuẩn mực bị trùng về nội dung như Chuẩn mực 08 về phân
tích tình hình kinh tế và Chuẩn mực số 12 về kiểm tra, phân tích tổng hợp
tổng quát báo cáo tài chính của đối tượng kiểm toán.
- Từ Chuẩn mực 01 đến Chuẩn mực số 15 còn có một số điểm tương
đồng với các nước và quốc tế, riêng Chuẩn mực số 14 là rất khác biệt. Chuẩn
mực này quy định về việc lập Báo cáo kiểm toán, tuy nhiên có nhiều điểm
giống như là các quy định về việc xét duyệt quyết toán hàng năm về báo cáo
tài chính.
- Hệ thống chuẩn mực này còn rất chung chung, không có các hướng
dẫn cụ thể cho từng lĩnh vực các đối tượng kiểm toán khác nhau như các đơn
vị hành chính sự nghiệp, các dự án đầu tư, các doanh nghiệp nhà nước, , do

đó khó áp dụng trong thực tiễn hoạt động kiểm toán. Kiểm toán viên chủ yếu
vẫn dựa trên kinh nghiệm bản thân.
Hệ thống chuẩn mực kiểm toán nhà nước ban hành năm 1999 đã có
nữhng đóng góp tích cực trong việc nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động
kiểm toán, tăng cường hiệu lực của Kiểm toán Nhà nước
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
14
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
Luật KTNN ra đời đã xác định chức năng, nhiệm vụ quan trọng của
hoạt động KTNN và kiểm toán tính kinh tế, tính hiệu quả của việc quản lý và
sử dụng các nguồn lực tài chính công. Bên cạnh đó, theo luật KTNN thì địa vị
pháp lý và phạm vi kiểm toán của KTNN đã có điều chỉnh theo hướng tăng
cường và mở rộng rất nhiều. Mặt khác, Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán của
INTOSAI đã được sửa đổi, điều chỉnh nhiều lần so với hệ thống chuẩn mực
kiểm toán ban hành lần đầu năm 1992, là một thành viên của INTOSAI,
KTNN Việt Nam cần phải sửa đổi Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán của mình
đáp ứng các yêu cầu mới cũng như phù hợp với Hệ thống Chuẩn mực Kiểm
toán của INTOSAI.
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
15
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
Chương 2
Thực trạng áp dụng hệ thống pháp luật
đối với KTNN
2.1. Khái quát kết quả kiểm toán hoạt động của KTNN mấy năm qua.
Tạo lập khuôn khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt động KTNN đã từng
bước tạo lập môi trường pháp lý cho tổ chức và hoạt động kiểm toán. Trước
năm 2006, KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ, được tổ chức và hoạt động
theo Nghị định số 70/CP và Quyết định số 61/TTg của Thủ tướng Chính phủ,
thực hiện kiểm toán theo chương trình, kế hoạch kiểm toán do Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt. Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13-8-2003 của
Chính phủ là một bước tiến quan trọng, mở rộng quy mô, hoàn thiện cơ cấu tổ
chức, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của KTNN. Luật Kiểm toán Nhà nước có
hiệu lực từ ngày 1-1-2006 là một dấu son trong chặng đường 15 năm xây
dựng và phát triển KTNN, đánh dấu giai đoạn phát triển mới của KTNN, với
vị thế là cơ quan kiểm tra tài chính Nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt
động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Trên cơ sở Luật KTNN, cơ quan
KTNN đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ,
trong một thời gian ngắn đã xây dựng, trình các cơ quan có thẩm quyền ban
hành tất cả các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật KTNN (gồm 7 Nghị quyết
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 2 Nghị định của Chính phủ, 4 Thông tư và
Thông tư liên tịch). Tổng KTNN cũng đã ban hành theo thẩm quyền 63 văn
bản, trong đó có 19 văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa đồng bộ Luật
KTNN và quy chế hóa hầu hết các mặt liên quan đến tổ chức, hoạt động
KTNN, là cơ sở để quản lý, điều hành hoạt động kiểm toán theo hướng công
khai, minh bạch, chuyên nghiệp, chính quy và từng bước hiện đại. Từ khi
Luật KTNN đi vào cuộc sống, KTNN cũng đã chú trọng xây dựng và thực
hiện các quy chế phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ và các
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
16
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
ngành như: Quy chế phối hợp với Ủy ban Tài chính - Ngân sách, Ủy ban
Kinh tế của Quốc hội; Quy chế phối hợp công tác trong hoạt động kiểm toán
giữa KTNN với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; Quy chế phối hợp trong công
tác phòng, chống tham nhũng giữa KTNN với Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung
ương về phòng, chống tham nhũng, Bộ Công an, Tòa án Nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao và Thanh tra Chính phủ; Thỏa thuận hợp tác
giữa KTNN và Thông tấn xã Việt Nam trong phối hợp tuyên truyền, thông tin
về hoạt động KTNN. Cùng với công tác xây dựng, ban hành, công tác phổ
biến, tuyên truyền pháp luật cũng hết sức được chú trọng. Bằng nhiều nguồn

lực khác nhau, trong ba năm từ khi Luật KTNN có hiệu lực, KTNN tổ chức
biên soạn, in và phát hành hàng vạn tài liệu hướng dẫn, hỏi đáp và phổ biến
Luật KTNN và các văn bản hướng dẫn đến tất cả các bộ, ngành, cơ quan
Trung ương, HĐND và UBND các cấp chính quyền tỉnh, huyện, xã. Tổ chức
và phối hợp tổ chức hơn 40 lớp nghiên cứu, phổ biến Luật KTNN cho hơn
6.000 học viên ngoài ngành, kể cả cho đội ngũ cán bộ quản lý báo chí, các
biên tập viên, phóng viên của các cơ quan truyền thông để góp phần tuyên
truyền, phổ biến thông tin về tổ chức và hoạt động KTNN.
KTNN đã hình thành bộ máy theo mô hình tập trung thống nhất gồm
25 đơn vị cấp vụ trực thuộc, trong đó có 6 đơn vị tham mưu, giúp việc, bảy
KTNN chuyên ngành, chín KTNN khu vực và ba đơn vị sự nghiệp, với hơn
1.300 cán bộ, công chức. Có thể nói, KTNN đã tạo lập được môi trường, xây
dựng được cơ chế, kế hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng liên tục, đa
dạng, khá đồng bộ và toàn diện cả về đào tạo bằng cấp và chuyên gia; trong
và ngoài nước; chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ và kiến thức, kỹ
năng quản lý, văn hóa và ứng xử nghề nghiệp; bồi dưỡng cập nhật kiến thức
và đào tạo theo ngạch, bậc công chức, kết hợp với thi và cấp chứng chỉ KTV
Nhà nước. Công tác quy hoạch, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, luân
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
17
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
chuyển, bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ luôn được thực hiện bài bản, khoa
học, công khai, minh bạch, theo đúng quy định của Đảng, Nhà nước, phù
hợp điều kiện đặc thù và khả năng của ngành. Nhờ vậy, chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức không ngừng được nâng cao, đến nay hơn 97,5% có trình
độ đại học trở lên, 100% KTV có trình độ đại học trở lên, nhiều người có từ
hai đến ba văn bằng đại học, hơn 17% số cán bộ, công chức có trình độ sau
và trên đại học, trong đó có năm giáo sư, phó giáo sư, hơn 200 tiến sĩ, thạc
sĩ. KTNN đã chọn cử và đào tạo thành công một số giảng viên có trình độ
quốc tế của INTOSAI, đào tạo 40 người đầu tiên có trình độ KTV quốc tế

của Hiệp hội Kế toán viên công chứng Vương quốc Anh (ACCA), và Ca-na-
đa (CCAF) để làm nòng cốt xây dựng đội ngũ KTV chuyên nghiệp, có trình
độ tiếp cận khu vực và thế giới.
Kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao Với khuôn khổ pháp
lý dần hoàn thiện, năng lực được tăng cường, hoạt động KTNN ngày càng
rộng về quy mô, đa dạng về loại hình và phương thức kiểm toán, tiến bộ về
chất lượng kiểm toán, và hiệu quả kiểm toán.
Về quy mô, đã tăng dần số lượng cuộc kiểm toán theo từng năm; từ
năm 2006 quy mô kiểm toán bình quân gấp hai lần so với giai đoạn trước,
riêng lĩnh vực đầu tư XDCB gấp bốn lần. Ngoài việc kiểm toán theo kế hoạch
hằng năm, KTNN còn thực hiện nhiều cuộc kiểm toán phục vụ công tác giám
sát theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội như: Chương trình trồng
mới 5 triệu ha rừng, Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí, Tổng công ty
Thuốc lá Việt Nam ; kiểm toán theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, như:
kiểm toán để giải quyết tồn đọng tài chính tại 35 nhà máy đường, Xí nghiệp
liên doanh dầu khí Vietsovpetro, Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ
FPT, Dự án Trung tâm Hội nghị quốc gia, Dự án Cầu Vĩnh Tuy, Dự án
Đường 5 kéo dài, v.v. Việc thực hiện kiểm toán các chương trình mục tiêu
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
18
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
quốc gia (MTQG) theo đề nghị của các nhà tài trợ như: Chương trình 135,
Chương trình MTQG nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Chương
trình MTQG về giáo dục và đào tạo ngày nay đã trở thành hoạt động thường
xuyên được các bộ, ngành, nhà tài trợ quốc tế tín nhiệm, đánh giá cao.
- Về loại hình và phương thức kiểm toán, từ khi có Luật KTNN,
KTNN đã tăng cường kiểm toán cả về diện và chiều sâu, thực hiện đầy đủ cả
ba loại hình kiểm toán: báo cáo tài chính, tuân thủ và hoạt động, chú trọng
đánh giá tình hình thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí.

Trong những năm gần đây, nền kinh tế từng bước phát triển theo chiều
sâu, chất lượng tăng trưởng được chú trọng, KTNN đã có những tiến bộ mới
trong kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả
trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước, trước hết là đối
với các dự án đầu tư, chương trình MTQG. Năm 2008 và 2009, trước diễn
biến nhanh của nền kinh tế, để hỗ trợ tăng cường kiểm soát, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, KTNN đã điều chỉnh
mục tiêu, trọng tâm kiểm toán, chú trọng kiểm tra phân tích nguyên nhân lạm
phát, đánh giá việc thực hiện trên thực tế các giải pháp của Chính phủ chống
lạm phát, kích cầu theo kết luận của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc hội.
Cùng với sự đa dạng các loại hình kiểm toán, các phương thức kiểm toán
quyết toán (hậu kiểm), bắt đầu từ năm 2006, thực hiện quy định của Luật
KTNN, KTNN đã thực hiện thẩm định và trình bày ý kiến về dự toán NSNN
hằng năm Chính phủ trình Quốc hội. Nhiều dự án trọng điểm quốc gia cũng
được kiểm toán từ khi khởi công đến khi kết thúc đầu tư như: Trung tâm Hội
nghị quốc gia, Dự án Cầu Vĩnh Tuy, Dự án Đường 5 kéo dài, Dự án Nhà máy
xi-măng Thái Nguyên, Dự án Điện Cà Mau 1, Cà Mau 2 theo chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ và đề nghị của một số bộ, địa phương. Phương thức
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
19
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
kiểm toán chuyên đề cũng được triển khai mở rộng từ khi thực hiện Luật
KTNN nhằm đi sâu kiểm toán, giải đáp các vấn đề thực tiễn trong công tác
quản lý ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước đang được dư luận quan tâm và
đã đề xuất được nhiều ý kiến có giá trị để hoàn thiện hệ thống luật pháp,
chính sách, chế độ quản lý. Điển hình là các cuộc kiểm toán chuyên đề quản
lý và sử dụng ngân sách chi cho khoa học - công nghệ giai đoạn 2003 - 2006;
chuyên đề chi sự nghiệp môi trường giai đoạn 2006 - 2008; chuyên đề bù lỗ
mặt hàng dầu giai đoạn 2006 - 2008; chuyên đề quản lý và sử dụng phí, lệ phí
giao thông đường bộ hay chuyên đề mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản của

các ban quản lý dự án của các bộ, ngành và địa phương
Về chất lượng kiểm toán, ngày càng có tiến bộ hơn, đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu của thực tiễn quản lý. Những kiến nghị của KTNN ngày càng
đa dạng, phong phú, sắc sảo và có chất lượng hơn, được Chính phủ, Quốc hội,
các bộ, ngành, địa phương sử dụng ngày càng nhiều trong xem xét, phê chuẩn
dự toán và quyết toán ngân sách, giám sát ngân sách và thực hiện chính sách
pháp luật; trong quản lý và xây dựng chính sách tài chính - ngân sách; các
đơn vị được kiểm toán khắc phục những yếu kém, bất cập, hoàn thiện hệ
thống kiểm soát nội bộ.
Tông hợp kết quả sau 5 năm kể từ khi Luật KTNN có hiệu lực, Kiểm
toán Nhà nước đã kiến nghị xử lý tài chính hơn 53.500 tỷ đồng (bằng 74,12%
tổng số kiến nghị tài chính trong cả 15 năm); tăng thu về thuế và các khoản
thu khác hơn 12 nghìn tỷ đồng, giảm chi gần 8.500 tỷ đồng.
Khoảng cách bình quân giữa hai lần kiểm toán ở mỗi đơn vị được kiểm
toán cũng đã rút ngắn 2-3 năm một lần (trước đây tần suất kiểm toán từ 4-5
năm/lần/đơn vị).
Đối với lĩnh vực ngân sách Nhà nước, số lượng đầu mối và tổng thu,
chi ngân sách Nhà nước được kiểm toán tăng nhanh. Sau 5 năm thực hiện
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
20
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
Luật, đến nay trung bình mỗi năm Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán
báo các quyết toán ngân sách Nhà nước của 60% số tỉnh, thành phố; báo cáo
tài chính của 60% số Bộ, ngành trung ương và 12% số doanh nghiệp do
Trung ương quản lý (5/60 đầu mối).
Kết quả hoạt động Kiểm toán Nhà nước còn thể hiện ở những kiến nghị
kiểm toán mang tính tư vấn, xử lý sai phạm…, đã giúp các đơn vị được kiểm
toán, các cơ quan quản lý nhà nước chấn chỉnh công tác quản lý tài chính-
ngân sách-kế toán, ngăn ngừa những hành vi tiêu cực,tham ô, lãng phí, thất
thoát tiền, tài sản nhà nước.

2.2. Thực trạng tổ chức kiểm toán của KNNN.
2.2.1. Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán.
Trước khi có luật KTNN, trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, công việc
thu thập, khảo sát những thông tin có liên quan đến đơn vị được kiểm toán,
tìm hiểu sơ bộ về hệ thống kiểm soát nội bộ để từ đó lập kế hoạch kiểm toán
trình tổng kiểm toán nhà nước phê duyệt và ra quyết định thành lập đoàn kiểm
toán, do kiểm toán nhà nước chuyên ngành ( khu vực ) tổ chức thực hiện.
Nhưng đến nay theo luật KTNN thì những công việc nêu trên trong giai đoạn
chuẩn bị kiểm toán có thể được chia ra những bước sau:
- Bước 1: Khảo sát, thu thập thông tin về hệ thống kiểm soát nội bộ,
tình hình tài chính và các thong tin về đơn vị được kiểm toán, đánh giá hệ
thống kiểm soát nội bộ, tình hình tài chính và các thong tin về đơn vị được
kiểm toán; đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ để xác định mục tiêu và nội
dung phạm vi kiểm toán và phương pháp kiểm toán; từ đó trình tổng kiểm
toán nhà nước ra quyết định kiểm toán. Bước này do trương Trưởng kiểm
toán chuyên nghành ( khu vực ) tổ chức thực hiện trực tiếp.
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
21
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
- Bước 2: Lập kế hoạch kiểm toán do trưởng đoàn kiểm toán có nhiệm
vụ thực hiện trình kiểm toán trưởng để trình Tổng kiểm toán nhà nước phê
duyệt kế hoạch kiểm toán của cuộc kiểm toán.
Tuy vậy, trong 2 năm đầu sau khi luật KTNN có hiệu lực, do chưa có
hướng dẫn cụ thể nên giai đoạn chuẩn bị kiểm toán vẫn được tiến hành như
cũ.
Thực hiện đúng luật, nhà nước đã có hướng dẫn lại và bổ sung, điều
chỉnh mẫu, biểu kiểm toán phù hợp với hai bước của giai đoạn trên bao gồm:
- Nội dung và biểu mẫu khảo sát thu thập thông tin và đánh giá hệ
thống kiểm soát nội bộ có liên quan về đơn vị được kiểm toán.
- Tờ trình phê duyệt các nội dung của quyết định kiểm toán để tổng

KTNN ra quyết định kiểm toán.
Trong lĩnh vực kiểm toán ngân sách nhà nước, kế hoạch kiểm toán cụ
thể đối với từng đối tượng kiểm toán NSNN, NSĐP, ngân sách của các đơn vị
dự toán cấp 1 thuộc NSTW, báo cáo quyết toán NSNN đang được thực hiện
thao hướng dẫn của KTNN quy định tại quyết định số 02/2007/QĐ-KTNN
ngày 26/6/2007 của Tổng KTNN.
Đối với các DNNN nội dung cơ bản của công tác lập kế hoạch kiểm
toán được thực hiện cụ thể theo Quy trình kiểm toán ban hành theo Quyết
định số 03/1999/QĐ-KTNN ngày 6/10/1999 của Tổng KTNN.
Trên thực tế, sau khi có thông báo và kế hoạch kiểm toán thì KTNN đã
tích cực triển khai công tác khảo sát, sưu tầm những thông tin khái quát
nhưng khá xác thực về đơn vị được kiểm toán và đã hoàn thành khá tốt khâu
chuẩn bị trước khi kiểm toán. Lập kế hoạch kiểm toán liên quan chặt chẽ đến
việc triển khai một cuộc kiểm toán, giúp cho công việc kiểm toán tiến hành có
hiệu quả, đúng thời gian vì nó có ảnh hưởng đến quy mô, chất lượng của cuộc
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
22
Đề án môn học GVHD: Tạ Thu Trang
kiểm toán, nếu có sai sót hoặc không đầy đủ sẽ dẫn đến các sai sót khó sửa
chữa trong khi tiến hành kiểm toán.
Khâu hậu cần trong công tác chuẩn bị kiểm toán phục vụ cho các Đoàn
kiểm toán tuy còn lúng túng song cơ bản đảm bảo được các nhu cầu tối thiểu
của các cuộc kiểm toán.
Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán của KTNN còn nhiều hạn chế.
Theo quy trình kiểm toán chung của KTNN thì việc khảo sát xong mới
thành lập đoàn kiểm toán có tác dụng là nắm được đầy đủ các thông tin đối
với đơn vị được kiểm toán làm căn cứ cho việc ra Quyết định kiểm toán.
Quyết định kiểm toán sẽ ít phải điều chỉnh và công tác kế hoạch cũng ít phải
quan tâm nhiều.
Nhưng cách làm này đôi khi tách rời giữa người khảo sát, lập kế hoạch

kiểm toán với người thực hiện kiểm toán do vậy nhiều thông tin, ý tưởng của
người khảo sát lập kế hoạch không đồng nhất với người thực hiện kiểm toán.
Nhiều thông tin về đơn vị được kiểm toán thu thập sẽ không được sử dụng
nhiều trong quá trình kiểm toán; các giai đoạn của quy trình kiểm toán bị xé
lẻ, cắt khúc.
Kế hoạch kiểm toán mà Kiểm toán DNNN lập cho cuộc kiểm toán
DNNN còn hạn chế vì bao gồm nội dung về "Giới hạn Kiểm toán", trong đó
loại trừ một số lĩnh vực hoặc nhóm giao dịch kế toán nhất định (như tiền mặt,
vốn đầu tư) trong đợt kiểm toán. Điều này đã làm hạn chế giá trị của cuộc
kiểm toán được tiến hành (Tham khảo Phụ biểu 01. Kế hoạch kiểm toán, phần
Giới hạn kiểm toán). Như đã nêu, KTNN chưa có cơ chế để đảm bảo rằng tất
cả các hoạt động lĩnh vực được kiểm toán trong một khoảng thời gian “có thể
chấp nhận được”. Một cơ quan Kiểm toán Tối cao có thể quyết định tập trung
vào kiểm toán một số nội dung cụ thể của các giao dịch kế toán trong phạm vi
một số mẫu có trước và bỏ qua các mẫu khác. Tuy nhiên, cơ quan đó phải
SV:Nguyễn Thị Hoài Lớp: Kiểm toán 49C
23

×