Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phần II chương 2 Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 5 trang )

27
Chương 2
Giáo dục
Phần này mô tả những nét tổng quát nhất về tình
hình đi học và kinh nghiệm học đường của thanh
thiếu niên bao gồm tuổi đến trường và rời nhà
trường, bậc học đã hoàn thành, lý do không đi học
hay bỏ học, môi trường xã hội ở trường học như
quan hệ thầy trò, việc đối xử với học sinh, sự hài
lòng và hứng thú học tập của học sinh, khối lượng
học tập. Kết quả của nghiên cứu này không được
dùng như thước đo hiệu quả của một số khía cạnh
cụ thể của chương trình học hay chuẩn của hệ
thống giáo dục, nhưng chúng cung cấp thông tin
quý giá về vai trò của giáo dục trong đời sống
thanh thiếu niên.
2.1. Tỷ lệ thanh thiếu niên đi học
Trong tổng số thanh thiếu niên tham gia điều tra,
96,2% đã từng được đi học. Tỷ lệ này ở thành thò là
98,6% so với 95,4% ở nông thôn. Kết quả này cũng
phù hợp với các số liệu trước đây về tỷ lệ đi học
1
.
Cuộc điều tra SAVY cho thấy mức độ tham gia tương
tự của hai giới ở bậc tiểu học: 97% nam và 95,4% nữ
đi học. Điều đáng quan tâm là cuộc điều tra SAVY
cho thấy tỷ lệ đi học và hoàn thành các cấp học ở
nam và nữ tương đối ngang nhau. Có 3,8% người
được hỏi chưa bao giờ đi học, tỷ lệ này tuy nhỏ
nhưng cũng đáng lưu tâm.
Vào thời điểm tiến hành cuộc điều tra, có 44,8%


trong tổng số thanh thiếu niên trong mẫu đang đi
học (kể cả trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và
đại học). Nhóm tuổi 14-17 có tỷ lệ đang đi học cao
nhất là 75,2%, kế đến là 27,7% ở nhóm thanh thiếu
niên tuổi 18-21 và 7% ở nhóm 22-25 tuổi. Tỷ lệ
thanh thiếu niên thành thò hiện đang đi học là 53,4%
so với 42% nông thôn. Tỷ lệ nam giới được đi học
cao hơn một chút, 48,1%, trong khi nữ đạt 41,5%.
Trình độ học vấn đã đạt được phổ biến nhất của
thanh thiếu niên trong mẫu điều tra là cấp trung học
cơ sở với tỷ lệ 49,7%, tỷ lệ này ở thành thò là 38,7%
và nông thôn là 53,7%. Tuy nhiên, thanh thiếu niên
thành thò có khuynh hướng đạt trung học phổ thông
cao hơn (30,7%) so với thanh thiếu niên nông thôn
(21,1%). Một điểm khác biệt rõ rệt nữa về trình độ
học vấn đạt được thể hiện ở tỷ lệ thanh thiếu niên
chỉ học hết tiểu học, con số này ở nông thôn gấp
đôi so với ở thành thò (20,2% và 9,0%).
Số liệu SAVY về tỷ lệ đến trường trên 95% là đáng
khích lệ mặc dù phân tích theo nhóm cho thấy
thanh thiếu niên ở các vùng nghèo, khu vực nông
thôn hoặc ở nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ đi học
thấp hơn. Tỷ lệ nữ thanh thiếu niên dân tộc thiểu số
chưa bao giờ đi học ở mức cao nhất (19%) và nam
thanh thiếu niên dân tộc thiểu số là 10%, trong khi
đó, tỷ lệ chưa bao giờ đi học đối với nam và nữ
thanh thiếu niên dân tộc Kinh đều là 2%. Tính trên
tổng số thanh thiếu niên chưa bao giờ đi học thì
thanh thiếu niên dân tộc thiểu số chiếm tới 52%.
Quyền được học hành được công nhận trong Luật

Giáo dục của Việt Nam thể hiện ưu tiên của Nhà
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
BẢNG 2 Trình độ học vấn đã đạt được (%)
100
28
nước cho sự nghiệp giáo dục, và Việt Nam đã tuyên
bố thực hiện phổ cập tiểu học. Giáo dục tiểu học
được miễn phí và Chính phủ thực hiện chính sách
ưu tiên đặc biệt cho trẻ em nghèo. Theo kết quả
điều tra lý do chính của việc thanh thiếu niên không
được đi học là do gia đình “không đủ tiền nộp học”
(44,1%, có thể bao gồm những chi phí liên quan đến
học tập như sách giáo khoa, văn phòng phẩm, đồng
phục, xây dựng cơ sở vật chất trường lớp), sau đó là
“phải làm việc cho gia đình” (21,2%). Những khó
khăn và hạn chế trong chi phí cho việc học và phải
làm việc để giúp đỡ gia đình càng trở nên nặng nề
hơn với những thanh thiếu niên từ các gia đình
nghèo, mà một phần đáng kể là thanh thiếu niên
dân tộc thiểu số. Điều này lý giải tại sao thanh thiếu
niên từ các vùng nghèo cũng như thanh thiếu niên
dân tộc thiểu số có tỷ lệ không đi học cao (Bảng 2).
2.2. Tỷ lệ bỏ học
Biểu đồ 3 cho thấy tỷ lệ bỏ học cao ở lứa tuổi từ
12-16, thấp hơn ở lứa tuổi từ 17-18, và lại tăng cao
ở lứa tuổi 19. Các mốc tuổi này đúng với thời điểm
chuyển cấp: tiểu học, trung học cơ sở và trung học
phổ thông. Biểu đồ 4 cho thấy 30% học sinh bỏ
học sau khi đã học xong lớp 5, tuy nhiên nếu cộng
dồn tỷ lệ bỏ học cho đến khi các em học xong lớp

9 thì tỷ lệ này tăng cao đến 75%.
Lý do chính của việc thanh thiếu niên bỏ học cũng
tương tự như lý do các em chưa bao giờ đến
trường, đó là: 25% không thể trang trải cho việc
học, gồm những chi phí liên quan như mua sách,
đồ dùng, quần áo, phương tiện để đi học, đóng
góp xây dựng cơ sở vật chất trường lớp, 20% phải
đi làm để giúp gia đình, 13,8% cho biết không
muốn tiếp tục học nữa.
Nhóm thanh thiếu niên dân tộc thiểu số có tỷ lệ
bỏ học cao hơn nhóm thanh thiếu niên dân tộc
Kinh. Ví dụ 28,8% thanh thiếu niên trong mẫu điều
tra đã bỏ học cho biết chỉ mới hoàn thành giáo
dục tiểu học, và tỷ lệ này ở thanh thiếu niên dân
tộc thiểu số là 53,3% so với 24,8% ở thanh thiếu
niên dân tộc Kinh. Sự thiệt thòi và điều kiện khó
khăn của học sinh dân tộc thiểu số cũng như tỷ lệ
bỏ học tương đối cao của nhóm này được ghi
nhận là những thách thức lớn cần được can thiệp
trong Chiến lược Phát triển Giáo dục của Việt Nam
2001-2010
2
.
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
BIỂU ĐỒ 3 Tỷ lệ bỏ học theo lứa tuổi
BẢNG 3 Nguyên nhân thanh thiếu niên chưa
bao giờ đi học
29
Ngoài ra còn có một nhóm nguyên nhân quan
trọng khác như 13,5% không thi đỗ và 6% có sức

học yếu. Cộng hai tỷ lệ này cho thấy một con số
tương đối cao: 20% thanh thiếu niên nêu lý do thôi
học là do không thi đỗ và sức học yếu. Vì thi
không đỗ và học lực yếu được coi là những yếu tố
dẫn đến hành vi nguy cơ ở thanh thiếu niên, phát
hiện này là một chỉ báo hữu ích giúp ngành giáo
dục tìm ra phương pháp khuyến khích thanh thiếu
niên tiếp tục đi học vì trường học là một môi
trường có tính bảo vệ tốt đối với các em.
Ở một mức độ nào đó, hệ thống giáo dục chưa thể
đáp ứng hết nhu cầu học hành cho tất cả thanh
thiếu niên Việt Nam. Rõ ràng điều này sẽ tác động
đến tỷ lệ bỏ học. Để tiếp tục học lên bậc trung
học, thanh thiếu niên dân tộc thiểu số phải đi học
ở các trường Phổ thông Dân tộc nội trú xa nhà do
tình trạng thiếu trường ở khu vực miền núi. Các
trường phổ thông ở vùng đồng bằng chỉ có thể
tiếp nhận một số lượng học sinh nhất đònh theo
kết quả kỳ thi tuyển sinh đầu vào để hạn chế
tuyển sinh. Thanh thiếu niên dân tộc thiểu số và
từ các vùng nghèo thiệt thòi về điều kiện kinh tế,
phải đi học xa và thường phải học bằng ngôn ngữ
không phải là tiếng mẹ đẻ. Họ cũng ít có điều
kiện chi trả các khoản phí phát sinh do học xa
nhà.
Chính phủ cũng đã có nhiều biện pháp nhằm cải
thiện tình trạng này bằng cách xây dựng các chuẩn
khác nhau cho từng vùng, trợ cấp khó khăn, lương
thưởng. Tuy nhiên khó có thể đạt được sự công
bằng trong một sớm một chiều.

Mặc dù ở nhiều nước, tình trạng hăm dọa, ức hiếp
trong trường học là nguyên nhân phổ biến dẫn
đến tình trạng bỏ học nhưng theo điều tra SAVY
thì việc này dường như không xảy ra ở Việt Nam.
2.3. Tỷ lệ biết chữ
Những người tham gia điều tra được hỏi về mức độ
biết chữ và kỹ năng đọc viết tại trường mà họ theo
học. Tỷ lệ biết chữ ở vùng thành thò là 96,9% và ở
nông thôn là 91,5%. Trong số 96,2% thanh thiếu
niên đã từng đi học có 92,8% biết đọc và viết, có
nghóa là còn 3,4% đã từng đi học nhưng vẫn mù
chữ. Những người chưa học hết tiểu học (16,4%
của tổng số học sinh bỏ học, và 8,7% tổng số
thanh thiếu niên được điều tra) càng dễ có nguy
cơ tái mù chữ.
2.4. Học thêm
Tỷ lệ học thêm ngoài giờ rất cao, lên đến 69%
tổng số được hỏi đang đi học chính quy. Do có rất
ít người được hỏi trong độ tuổi 22-25 đang đi học
(14 người) nên thảo luận ở đây chỉ tập trung vào
những người trong nhóm tuổi 14-21 mà trong đó có
tới 70% người được hỏi cho biết có học thêm. Tỷ
lệ này cao hơn ở khu vực thành thò và thanh thiếu
niên dân tộc Kinh (78% thành thò, 66% nông thôn;
Kinh 74,3%, dân tộc thiểu số 31,7%).
Hiện tượng học thêm ở mức độ cao này đã được
một số tài liệu lý giải là do sự cải thiện điều kiện
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
BIỂU ĐỒ 4 Tỷ lệ bỏ học theo lớp học
30

kinh tế của gia đình, sự gia tăng sức ép cạnh tranh
về thành tích học tập ở trường, chất lượng học của
học sinh và dạy thêm là một cách để tăng thu nhập
cho giáo viên. Lý do của sự khác nhau giữa thành
thò và nông thôn, giữa thanh thiếu niên dân tộc thiểu
số và thanh thiếu niên dân tộc Kinh trong việc học
thêm có thể bao gồm các yếu tố kinh tế, sự sẵn có
thầy cô dạy thêm, và sự khác nhau trong mức độ ưu
tiên và nhận thức về giá trò của học tập chính quy.
2.5. Quan niệm về trường học và giáo
viên
Những thanh thiếu niên hiện đang còn đi học văn
hóa, trung học, cao đẳng và đại học được hỏi một
số câu hỏi để tìm hiểu thái độ, quan niệm của họ
về trường học và giáo viên. Nhìn chung, họ có suy
nghó rất tích cực và tỷ lệ này đồng đều ở tất cả
các vùng, lứa tuổi, dân tộc và giới. 90% đồng ý với
nhận đònh rằng giáo viên đối xử công bằng với tất
cả học sinh và sinh viên, trong đó tỷ lệ nam đồng
ý cao hơn nữ (92% so với 87%). Tuy nhiên 25% nữ
sinh viên 22-25 tuổi không đồng ý với nhận đònh
này.
90% học sinh, sinh viên cho biết họ có cơ hội “có
tiếng nói” ở trường. Tỷ lệ cao này cũng tương tự
như kết quả của một nghiên cứu trong khu vực do
UNICEF tiến hành gần đây về sự tham gia của giới
trẻ và cơ hội bày tỏ ý kiến trong trường học cũng
như tại cộng đồng
3
. Mặc dù tỷ lệ này cũng tương

đối cao ở thanh thiếu niên dân tộc thiểu số (83%),
nhưng so với thanh thiếu niên dân tộc Kinh, họ có
ít cơ hội bày tỏ suy nghó của mình hơn. Đương
nhiên khả năng nói lên quan điểm của mình là
tổng hợp của cơ hội thực tế có được, cá tính từng
người cũng như quan niệm xã hội về việc nói ra
chính kiến của mình. Ngoài ra, 85% thanh thiếu
niên đồng ý rằng được giáo viên khen ngợi khi
học tốt. Tỷ lệ này tương đối đồng nhất ở các
nhóm, cao nhất là nhóm thanh thiếu niên nông
thôn (87,7%) và thấp nhất là nhóm sinh viên tuổi
từ 22-25 (78,4%).
Trong số các thanh thiếu niên được phỏng vấn, chỉ
có một số ít thanh thiếu niên đã từng bò nhà
trường kỷ luật và những học sinh, sinh viên bò kỷ
luật thường là nam sinh (7,9% so với nữ 1,9%).
Điều này phù hợp với các nghiên cứu khác về
trường học cho thấy nam sinh thường làm giáo
viên mất thời gian hơn nữ sinh về vấn đề kỷ luật.
Cũng có thể giáo viên tập trung hơn vào những
hành vi vi phạm kỷ luật của nam sinh
4
.
Phần đông những thanh thiếu niên đang đi học
cho biết họ đã cố gắng trong học tập (90,8%).
Đáng lưu ý là có đến 73,9% không đồng ý rằng
chương trình học quá tải, 10% không có ý kiến và
16,2% cho rằng như vậy là quá nặng. Đã có nhiều
ý kiến trong ngành giáo dục và trong cộng đồng
xoay quanh áp lực đối với học sinh do khối lượng

học tập quá tải. Tuy nhiên những phát hiện của
nghiên cứu này có vẻ như không khớp với các
nhận đònh trước đây. Chỉ có 15% thanh thiếu niên
14-17 tuổi đồng ý khối lượng học tập là quá tải so
với tỷ lệ 25,2% ở nhóm 22-25 tuổi. Tỷ lệ cho biết
tình trạng quá tải trong học tập không cao có thể
do thanh thiếu niên xem khối lượng học tập nặng
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
BIỂU ĐỒ 5 Học thêm phân theo giới tính, nhóm tuổi, thành thò nông thôn
31
nề là một nền tảng cho sự thành công, hoặc sợ
rằng việc đồng ý chương trình học tập quá tải
chứng tỏ họ có học lực yếu. Tỷ lệ này không nhất
quán với những bức xúc gần đây về tình trạng quá
tải, nhưng cũng có thể do cha mẹ và các phương
tiện thông tin đại chúng đã cường điệu hóa tình
trạng quá tải trong học tập, cũng có thể là học
sinh, sinh viên không muốn phê bình chương trình
học và cho rằng khối lượng như vậy là phù hợp.
Cần lưu ý là SAVY điều tra thanh thiếu niên 14-25
tuổi hiện đang đi học, tức là từ lớp 9 trở lên, vì
vậy không phản ánh tình trạng học quá tải thường
phổ biến ở học sinh từ lớp 1-8 ở thành thò thường
là do học thêm.
Đại đa số thanh thiếu niên hiện đang đi học cho
biết họ thực sự muốn vào đại học (90%) trong khi
thực tế chỉ có khoảng 10% vào được đại học hoặc
cao đẳng
5
. Tỷ lệ mong muốn học đại học cao có

thể dẫn đến việc nhiều học sinh cảm thấy thất
vọng khi không thể đạt được nguyện vọng của
mình, và tạo ra sự cạnh tranh ngày càng lớn để
vào đại học. Tuy nhiên, mong muốn học đại học
cũng là động lực giúp thanh thiếu niên phấn đấu
học tập. Nghiên cứu về giáo dục dạy nghề cho
thấy kỳ vọng vào đại học quá lớn có thể tác động
tiêu cực lên mong muốn theo học nghề của thanh
thiếu niên
6
. Theo kết quả nghiên cứu này, tỷ lệ
học nghề rất thấp, chỉ đạt 18,9%. Vấn đề học nghề
cần được nghiên cứu sâu thêm đặc biệt là nhu cầu
và các thể loại đào tạo hiện có, nhất là để chương
trình đào tạo gắn với thò trường lao động.
70% thanh thiếu niên hiện đang đi học cho rằng
trường học đã tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh,
sinh viên khuyết tật. Quan niệm này xem ra không
sát với thực tế, vì tỷ lệ người khuyết tật tiếp cận
với giáo dục còn hạn chế, đặc biệt là giáo dục sau
đại học. Tỷ lệ cao này cũng có thể do thanh thiếu
niên thể hiện sự cảm thông và mong muốn tạo
điều kiện cho học sinh khuyết tật trong khi cơ sở
vật chất chưa đáp ứng được ngay.
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
1 Liên hợp quốc tại Việt Nam, Đưa các Mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ đến gần hơn với người dân, Hà Nội, 2002.
2 Chiến lược Phát triển Giáo dục 2001-2010, Hà Nội, 2001.
3. UNICEF Văn phòng khu vực, “Hãy nói lên! Tiếng nói của trẻ
em và vò thành niên ở Đông Á và Thái bình dương” - Báo

cáo Khảo sát trong khu vực về quan điểm, Bangkok, 2001.
4 Điều tra về Sự Bất bình đẳng trong trường học, Chính phủ
Úc 1996. AGPS.
5 Quyên và các tác giả, chương 5: Giáo dục và Thu nhập –
Mức sống trong thời kỳ phát triển kinh tế - Việt Nam,
Haughton D, Haughton J và Nguyễn Phong biên tập, Nhà
Xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2001.
6 Bàn về vấn đề việc làm cho thanh niên, Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO), 2003.

×