Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phần II chương 7 Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.48 KB, 7 trang )

63
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
Chương 7
Sử dụng các chất
gây nghiện
Phần này của báo cáo tập trung tìm hiểu một số
lónh vực có liên quan tới hành vi sử dụng và lạm
dụng các chất gây nghiện gồm ma túy, thuốc lá,
rượu, bia với các nội dung cụ thể: tiếp cận và sử
dụng các chất gây nghiện, các yếu tố ảnh hưởng
và bối cảnh xã hội của các hành vi sử dụng chất
gây nghiện. Thanh thiếu niên còn được phỏng vấn
về việc sử dụng các chất gây nghiện của các thành
viên khác trong gia đình.
7.1. Sử dụng heroin và các chất ma
túy bất hợp pháp
Tỷ lệ thanh thiếu niên được phỏng vấn cho biết đã
từng sử dụng chất ma túy bất hợp pháp là rất thấp,
chỉ có 0,5% tương đương với 41 thanh niên gồm 35
nam và 6 nữ. Trong số đó, có 10 người cho biết đã
từng tiêm chích ma túy và 3 người đã từng dùng
chung kim tiêm. Một điểm hạn chế của cuộc điều tra
này là không thể dò tìm để phỏng vấn các đối tượng
không có ở nhà trong thời gian thực hiện cuộc điều
tra vì đang được điều trò tại các trung tâm cai nghiện.
Một số trường hợp không đến phỏng vấn ghi nhận
được là do đang tập trung cai nghiện.
Số liệu thống kê được trong cuộc điều tra này chắc
chắn còn thấp hơn số thực tế, tuy nhiên tỷ lệ nam
thanh niên sử dụng ma túy cao hơn nữ thanh niên
như trên là phù hợp với nhiều nghiên cứu trước


đây
1
. Các cuộc điều tra từ trước cũng thừa nhận kết
quả về tỷ lệ sử dụng ma túy bất hợp pháp thấp
hơn thực tế
2
với lý do người được phỏng vấn
không muốn thừa nhận với điều tra viên về việc có
sử dụng ma túy vì e ngại các thông tin đưa ra
không được tuyệt đối giữ bí mật và có thể dẫn đến
các hậu quả xấu về mặt pháp luật. May mắn là
hiện nay có một số nguồn dữ liệu từ một số
nghiên cứu đònh tính khác có thể phản ánh thực
trạng sử dụng các chất ma túy chi tiết và sát thực
hơn. Đây là vấn đề nổi cộm ảnh hưởng đến sức
khỏe thể chất và tinh thần của nam thanh niên, có
nguy cơ lây nhiễm HIV, là nguyên nhân gây ra
xung đột gia đình và stress ở Việt Nam
3
.
7.2. Nhận thức về ma túy và các đối
tượng sử dụng ma túy
Tỷ lệ thanh thiếu niên thừa nhận có sử dụng ma
túy trong cuộc điều tra là thấp, tuy nhiên đa số đối
tượng được phỏng vấn đều cho biết có nghe nói
về ma túy (81,8%). Tỷ lệ này cao hơn ở thanh
thiếu niên thành thò so với nông thôn (91,8% so với
78,6%). Thanh thiếu niên dân tộc thiểu số ít được
nghe nói về ma túy hơn (64%) so với thanh thiếu
niên dân tộc Kinh (84%). Ở các nhóm tuổi và các

vùng khác nhau, đa số thanh thiếu niên đều biết
rằng không dùng chung bơm kim tiêm là một cách
ngăn chặn sự lây lan của HIV/AIDS (95,7%). Có
thể nói, kết quả trên là do các hoạt động thông tin
giáo dục truyền thông, đặc biệt là các chiến dòch
tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông
tin đại chúng về HIV và phòng chống ma túy trong
khoảng 3 - 5 năm qua đã đóng góp một vai trò
nhất đònh trong việc đạt được nhận thức cao như
vậy. Có rất ít thanh thiếu niên trong mẫu điều tra
cho biết đã từng sử dụng ma túy, tuy nhiên có 26%
trả lời biết một người nào đó sử dụng ma túy. Tỷ
lệ thanh thiếu niên thành thò biết một ai đó sử
dụng ma túy cao hơn gấp đôi so với ở khu vực
nông thôn (42,4% so với 20,8%). Mặc dù nghiên
cứu này không trực tiếp tìm hiểu nhóm tuổi của
các đối tượng mà thanh niên biết là đã sử dụng
ma túy, nhưng số liệu quốc gia về tình trạng sử
dụng ma túy cho biết phần lớn người sử dụng ma
túy là thanh thiếu niên
4
.
Khi được hỏi về việc có dễ dàng kiếm được heroin
và các chất ma túy tại nơi đang sống không, hầu
hết thanh thiếu niên trong cuộc điều tra cho biết
khó tiếp cận với nguồn cung cấp heroin tại cộng
đồng, với 66% nói là không thể hoặc rất khó kiếm
được. Khoảng 30% cho rằng việc tìm được chất ma
túy chỉ “hơi khó khăn”. Tuy nhiên, đáng chú ý là
16,3% nam thanh niên thành thò tuổi 22-25 cho biết

dễ dàng kiếm được ma túy. Nhìn chung, nhóm
thanh niên dân tộc thiểu số cho rằng khó tiếp cận
với ma túy hơn các nhóm khác. Các nghiên cứu về
thanh niên và vò thành niên trước đây ở Việt Nam
và ở các nước châu Á cho thấy nam thanh niên
thành thò là nhóm có nguy cơ cao hơn đối với việc
sử dụng ma túy
5
. Hạn chế tiếp cận với các chất
gây nghiện (cả bất hợp pháp và hợp pháp) là một
chiến lược cần thiết và cơ bản nhằm làm giảm tác
hại của việc lạm dụng chất gây nghiện.
64
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
7.3. Hút thuốc lá
Phân tích số liệu về hút thuốc lá tập trung vào đối
tượng nam thanh niên trong mẫu điều tra vì có rất
ít nữ thanh niên cho biết đã từng hút thuốc lá
(1,2%), và chỉ 1/3 trong số này cho biết hiện nay
họ vẫn còn đang hút thuốc. Mặc dù có rất ít nữ
thanh thiếu niên hút thuốc lá, nhưng tỷ lệ này ở
thành thò cao hơn ở nông thôn, với khoảng 2% nữ
thanh thiếu niên trong độ tuổi 18-21 tại thành thò
cho biết đã từng hút thuốc. Số liệu này cho thấy
hút thuốc lá hiện chưa phải là một vấn đề đáng lo
ngại đối với nữ thanh thiếu niên Việt Nam. Tuy
nhiên, tại một số quốc gia láng giềng trong khu
vực châu Á, với các hình ảnh quảng cáo tràn lan,
mô tả nét quyến rũ và hấp dẫn của hành động hút
thuốc và việc tiếp cận dễ dàng với các sản phẩm

thuốc lá, tỷ lệ phụ nữ trẻ hút thuốc lá đang gia
tăng nhanh chóng
6
. Việc ngăn chặn xu hướng này
tại Việt Nam và duy trì được hành vi không hút
thuốc ở nữ thanh thiếu niên như hiện nay sẽ là
một thách thức lớn đối với các chiến dòch truyền
thông về y tế công cộng trong tương lai.
Nhìn chung, 43,6% nam thanh thiếu niên cho biết
đã từng hút thuốc, với tỷ lệ hút thuốc lá tăng theo
tuổi. Tỷ lệ và xu hướng hút thuốc của nam thanh
thiếu niên ở thành thò và nông thôn tương đối
giống nhau, tuy ở khu vực thành thò có cao hơn
một chút. Có khoảng 1/5 số nam thành thò 14-17
tuổi đã từng hút thuốc (21,7%), tỷ lệ này tăng lên
đáng kể ở nhóm tuổi 18-21 (57,7 %) và hơn 3/4
(tương đương với 77%) nam tuổi 22-25 có hút
thuốc. Độ tuổi trung bình của thanh thiếu niên khi
hút điếu thuốc lá đầu tiên là 16,9 tuổi. Vì tỷ lệ hút
thuốc lá gia tăng theo độ tuổi trong quá trình thanh
thiếu niên trưởng thành và tham gia nhiều hơn vào
các hoạt động xã hội, cho nên các hoạt động can
thiệp phòng tránh hút thuốc lá cần tập trung vào
thanh thiếu niên ở độ tuổi sớm hơn để giúp họ
không có hành vi này.
Có tới 71,7% nam thanh niên đã từng hút thuốc lá
cho biết hiện nay vẫn đang hút, mặc dù tỷ lệ này
thấp hơn nhiều ở nhóm tuổi trẻ hơn (14-17), với
45% ở khu vực thành thò và 51,3% ở khu vực nông
thôn. Tỷ lệ hiện còn đang hút thuốc lá ở nhóm

tuổi 14-17 là khoảng 10%. Xu hướng này tăng lên
theo tuổi. Trong số nam thanh niên thành thò 18-21
tuổi đã từng hút thuốc 42,4% hiện nay vẫn đang
hút. Trong nhóm 22-25 tuổi đã từng hút thì số vẫn
đang hút là 60,2%. Số liệu này đáng được quan
tâm hơn khi tính đến các chi phí y tế cần phải chi
trả do bệnh tật và hậu quả do hút thuốc lá mang
lại cho bản thân người hút, gia đình họ và xã hội.
Theo dự đoán của Tổ chức Y tế Thế giới, có tới
2/3 số vò thành niên hiện đang sống ở khu vực
châu Á sẽ tử vong do các nguyên nhân liên quan
đến thuốc lá. Các kết quả nghiên cứu nêu lên việc
cần bắt đầu các can thiệp trước độ tuổi 16 (nếu
chúng ta muốn ngăn ngừa việc hút thuốc lá) nhưng
cũng cần có can thiệp nhằm giúp đỡ những người
mới hút. Kết quả điều tra cho thấy một điều hết
sức thú vò và có ý nghóa đối với các sáng kiến sức
khỏe cộng đồng đó là 70% nam thanh niên hút
thuốc lá đã từng cố gắng bỏ thuốc ít nhất 1 lần, và
80% nữ thanh niên hút thuốc lá cũng đã từng cố
gắng bỏ thuốc. Gần đây các chương trình cai thuốc
lá không được quan tâm nhiều lắm, nhưng xét về
số thanh thiếu niên hiện đang nghiện thuốc lá cao
như hiện nay thì đây là một vấn đề đáng được
quan tâm.
BIỂU ĐỒ 34 Nam thanh niên thành thò đã
từng và hiện còn hút thuốc
BIỂU ĐỒ 35 Nam thanh niên nông thôn đã
từng và hiện còn hút thuốc
18-21

Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
65
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
7.4. Lý do hút thuốc lá
Lý do phổ biến nhất của việc bắt đầu hút thuốc là
“vì các bạn em đều hút” (54%). Trong nhóm tuổi
14-17, có nhiều nam thanh niên nông thôn (57,2%)
bò ảnh hưởng bởi bạn bè hơn là nam thanh niên ở
khu vực thành thò (42,5%). Có 13% nam thanh niên
cho biết họ bắt đầu hút thuốc "vì cảm thấy quá
căng thẳng” và 11,3% bắt đầu hút do “mọi người
xung quanh đều hút thuốc”. Chỉ có 3,4% nam thanh
niên cho biết bắt đầu hút thuốc để chứng tỏ mình
là người lớn. Đã có nhiều nghiên cứu quan trọng
cho thấy quảng cáo thuốc lá có tác động nhất đònh
đối với lý do hút thuốc cũng như sự ảnh hưởng
của các giá trò văn hóa và thái độ vốn có
7
.
Khi được hỏi về việc có dễ tìm mua được thuốc lá
không, đa số (98,1%) nam thanh niên trong cuộc
điều tra cho biết có thể mua được thuốc lá “dễ
dàng”. Mặc dù luật pháp hiện hành cấm bán thuốc
lá cho trẻ em dưới 16 tuổi, nhưng thực tế điều luật
này chưa được thực hiện nghiêm chỉnh. Hiện nay
môi trường ở Việt Nam vẫn là một môi trường khá
thuận lợi và dễ dàng để nam thanh thiếu niên tiếp
cận và hút thuốc lá.
Hơn một nửa (57,8%) thanh niên hút thuốc lá cho

biết có cha hút thuốc, và đây có thể là hình mẫu
của họ. 20% thanh thiếu niên có anh trai hút thuốc,
trong khi đó chỉ có rất ít (3%) có mẹ hút thuốc. Rõ
ràng môi trường xung quanh và những mẫu hình
có ảnh hưởng tới hành vi hút thuốc của thanh
thiếu niên, mặc dù điều này dường như không
đúng khi xét từ khía cạnh giới vì nữ thanh thiếu
niên cũng sống và làm việc trong môi trường có rất
nhiều người hút thuốc lá xung quanh nhưng họ
không hình thành thói quen này. Hình như hiện
nay có sự gắn kết hình tượng đàn ông với thói
quen hút thuốc lá ở Việt Nam. Xét về khía cạnh
văn hóa và lòch sử, xã hội luôn có cái nhìn tiêu
cực đối với hình ảnh phụ nữ hút thuốc và uống
rượu hơn so với nam giới, và những áp lực xã hội
cũng như và biện pháp kiểm soát mạnh mẽ đã
góp phần làm giảm hành vi này. Thực tế những áp
lực từ phía xã hội chính là những yếu tố bảo vệ
nữ thanh niên không tiếp cận với thuốc lá và rượu
mặc dù họ dó nhiên vẫn phải chòu hậu quả của
việc hút thuốc và uống rượu của đàn ông, bao gồm
cả việc phải ngửi khói thuốc lá của người khác.
7.5. Hút thuốc lá và ảnh hưởng của
nhóm bạn
Nam thanh niên cho biết họ bò ảnh hưởng từ bạn
bè về hành vi hút thuốc cả mặt tích cực và tiêu
cực. Ảnh hưởng tiêu cực thường được biết đến như
là sự dụ dỗ của nhóm bạn bè khiến thanh thiếu
niên có hành vi có hại cho sức khỏe (trường hợp
này là hút thuốc). Ảnh hưởng tích cực là trường

hợp bạn bè trong nhóm khuyến khích nhau tránh
những hành vi không tốt như hút thuốc lá. Nhìn
chung, (77%) nam thanh niên cho biết bạn bè
khuyến khích họ không hút thuốc. Nhóm nam
thanh niên thành thò 14-17 tuổi cho biết họ có
nhiều ảnh hưởng tích cực của bạn bè nhất trong
việc kiềm chế hành vi hút thuốc (79,7%). Đồng
thời gần 1/4 nam thanh niên (24,3%) cho biết bò
ảnh hưởng tiêu cực của bạn bè như bò thúc ép dụ
dỗ hút thuốc. Ảnh hưởng tiêu cực này tăng lên
theo độ tuổi: nhóm nam 14-17 tuổi tương đối ít bò
ảnh hưởng từ nhóm bạn bè về chuyện hút thuốc
(16% ở thành thò, 15,4% ở nông thôn), tuy nhiên ở
nhóm thanh niên 22-25 tuổi, tỷ lệ này cao hơn gấp
2 lần (32,7% ở thanh niên thành thò, 34,4% ở thanh
niên nông thôn).
Nữ thanh niên cho biết họ ít bò bạn bè rủ rê hút
thuốc (0,5%). Tuy nhiên, điều thú vò là tỷ lệ nữ
thanh niên cho rằng họ được bạn bè động viên
không hút thuốc thấp hơn so với nam (73,5% ở nữ
so với 77% ở nam). Sự chênh lệch này có thể do
cách thiết kế các phương án trả lời cho các câu
hỏi, ví dụ như mỗi câu hỏi về ảnh hưởng tích cực
của nhóm bạn chỉ có 2 lựa chọn (hoặc là bạn bè
“Khuyến khích” hay là “Không khuyến khích”) hoặc
có thể do các quan niệm văn hóa xã hội không
chấp nhận phụ nữ hút thuốc.
BIỂU ĐỒ 36 Ảnh hưởng tiêu cực của bạn bè đối
với hành vi hút thuốc
Tỷ lệ %

66
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
7.6. Uống rượu, bia
Nhằm mục đích tìm hiểu việc uống rượu, bia, cuộc
điều tra đã hỏi tất cả các đối tượng được phỏng
vấn xem họ đã từng bao giờ uống hết một cốc bia
hoặc bất kỳ một loại thức uống có cồn. Kết quả
cho thấy mặc dù uống rượu, bia là hiện tượng phổ
biến ở đa số nam thanh niên (69%), và ít phổ biến
hơn ở nữ thanh niên, tuy nhiên đây vẫn là một
hành vi đang trở nên phổ biến hơn với 28,1% nữ
cho biết họ đã từng uống rượu, bia. Hành vi uống
rượu, bia phổ biến hơn ở thành thò (56,9%) so với
nông thôn (46%). Như được dự đoán, tỷ lệ thanh
niên đã từng uống rượu, bia tăng lên theo độ tuổi,
34,9% ở nhóm tuổi 14-17 đã từng uống rượu bia
một lần, tăng lên đến 57,9% ở nhóm tuổi 18-21, và
tăng hơn nữa đến 62,2% ở nhóm tuổi 22-25.
Trong số thanh niên đã từng uống hết một cốc
rượu hay bia, có 58% nam thanh niên và 30% nữ
thanh niên cho biết đã từng bò say ít nhất một
lần. Bò say rượu, bia được đònh nghóa là cơ thể bò
ảnh hưởng bởi bia, rượu ít nhất một lần.
Nếu tính theo tổng cỡ mẫu nghiên cứu, 39,7% nam
và 8,5% nữ đã từng bò say. Con số này tương đối
thấp và chắc chắn là thấp hơn so với các nước như
Mỹ, Úc, Anh, Pháp vì các tỷ lệ này bao gồm cả
nhóm vò thành niên 14-17 tuổi là nhóm có rất
nhiều người chưa uống được rượu, bia. Số liệu này
nhấn mạnh việc cần thiết tính tách riêng số liệu để

xác đònh rõ ràng nhóm nào là nhóm uống rượu,
bia, tần suất và các hình thức uống như thế nào.
Các hoạt động truyền thông phòng tránh uống
rượu, bia có thể bao gồm các thông điệp về tác hại
của rượu, bia đối với sức khỏe hoặc đã uống thì
uống bớt đi hoặc bỏ hẳn.
Biểu đồ 38 cho thấy mặc dù có nhiều thanh niên
đã từng uống rượu bia, nhưng tỷ lệ thật sự bò say
tương đối thấp. Như vậy có thể là do nhiều thanh
niên chỉ uống rượu bia một cách vừa phải, hoặc
việc uống rượu bia không phải là một vấn đề đối
với phần lớn thanh niên. Tuy nhiên, có sự khác
BIỂU ĐỒ 38 Hành vi uống rượu, bia của
nam, nữ thanh niên
Tỷ lệ %
BIỂU ĐỒ 37 Thanh thiếu niên đã từng uống hết một cốc bia hoặc rượu
theo nhóm tuổi, đòa bàn và giới tính
biệt đáng kể về giới với số nam thanh thiếu niên
đã từng say rượu nhiều hơn nữ và có một bộ phận
nhỏ nam thanh thiếu niên thường xuyên uống tới
say xỉn.
Xét trên góc độ y tế công cộng và sức khỏe vò
thành niên, đây đúng là lúc cần đi sâu tìm hiểu
nhóm nghiện rượu bia và xác đònh các nguy cơ họ
phải đối mặt, đồng thời xây dựng các chiến lược
và thông điệp phòng tránh để giúp bảo vệ họ
không trở nên nghiện ngập nặng. Biểu đồ 39 cho
thấy trong nhóm đã uống bia, rượu, số đã từng bò
say là khá cao, và tỷ lệ này ở nam gấp đôi ở nữ.
Thực tế việc 30% nữ thanh niên uống rượu, bia đã

bò say cho thấy việc phụ nữ uống rượu, bia là hiện
tượng ngày càng phổ biến trong xã hội và được
chấp nhận, thậm chí xuất hiện việc khuyến khích
nữ thanh niên uống rượu, bia như là một sản phẩm
phụ của quá trình phát triển kinh tế và toàn cầu
hóa như đã thấy ở nhiều quốc gia khác. Các hình
thái uống rượu, bia của người lớn thường đã được
hình thành từ giai đoạn vò thành niên. Tình trạng
uống rượu, bia ngày một gia tăng và các vấn đề về
sức khỏe và xã hội đi kèm theo nó là các kết quả
dự đoán được của một nước có mức thu nhập ngày
càng tăng và dễ dàng tiếp cận với rượu, bia.
7.7. Tiếp cận với các thức uống có
rượu/cồn
Thanh thiếu niên trong cuộc điều tra cũng được
hỏi về việc có dễ dàng tìm mua được rượu, bia tại
đòa phương mình không. Ở các nước khác việc dễ
dàng tìm mua được rượu, bia được xem là yếu tố
nguy cơ liên quan đến việc uống rượu bia, sử dụng
ma túy, bạo lực và thử nghiệm quan hệ tình dục
sớm
8
. Điều tra SAVY cho thấy đại đa số thanh
thiếu niên cho biết rất dễ dàng mua rượu, bia
(98,6%) và tỷ lệ này giống nhau ở tất cả các nhóm.
Nếu so sánh với các quốc gia châu Á khác thì
thanh thiếu niên ở Việt Nam tiếp cận với rượu, bia
dễ dàng hơn. Rượu, bia thường có sẵn và được tiêu
thụ trong các hàng quán và tiệm cà-phê, cũng như
tại nhà và ở một số nơi làm việc. Tập quán phổ

biến ở Việt Nam là dùng rượu, bia để ăn mừng các
sự kiện, như một phần trong các giao tiếp xã hội,
để tạo thuận lợi cho việc làm ăn, đôi khi để giải
sầu, nhưng thường là để người ta vui vẻ với nhau.
Vì vậy, phong tục tập quán và bối cảnh xã hội khá
thuận lợi đối với việc uống rượu, bia, có lẽ vô tình
tạo nên thói quen uống rượu, bia trong thanh thiếu
niên. Mặc dù luật pháp quy đònh cấm bán rượu,
bia cho trẻ em dưới 16 tuổi, nhưng nhìn chung các
điều luật này vẫn chưa được thực thi. Người Việt
Nam có câu “Nam vô tửu như kỳ vô phong” điều
này càng làm cho việc uống rượu, bia được chấp
nhận thậm chí được xem như là một phần của
cuộc sống. Mặc dù theo truyền thống phụ nữ uống
rượu bia không được chấp nhận, tuy nhiên theo
quan sát hiện nay thì hiện tượng uống rượu, bia ở
phụ nữ ngày càng có xu hướng được chấp nhận
hơn, kể cả ở nữ thanh niên. Xu hướng này cũng
được quan sát thấy ở một số quốc gia châu Á
khác
9
.
67
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
Nam
BIỂU ĐỒ 39 Tỷ lệ đã uống rượu, bia và bò say
Nữ

×