Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tóm tắt Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.58 KB, 4 trang )

9
Tóm tắt
Giới thiệu
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên
(SAVY) năm 2003 là cuộc điều tra lớn và toàn diện
nhất về thanh thiếu niên lần đầu tiên được thực
hiện ở Việt Nam. Điều tra sử dụng dàn mẫu hộ gia
đình của Tổng cục Thống kê được tiến hành với
7.584 thanh thiếu niên trong độ tuổi 14-25 ở 42 tỉnh,
thành phố từ những vùng thành thò lớn nhất cho tới
vùng nông thôn xa xôi, với sự phối hợp giữa Bộ Y
tế, Tổng cục Thống kê, Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF).
Thanh thiếu niên thuộc diện điều tra tại đòa bàn
được mời tới một đòa điểm, phỏng vấn trực tiếp và
tự điền vào một số câu hỏi tương đối nhạy cảm mà
họ muốn tự mình trả lời. Kết quả điều tra là nguồn
thông tin bổ ích về đời sống xã hội, thái độ và hoài
bão của thanh thiếu niên Việt Nam hôm nay.
SAVY cho thấy thanh thiếu niên Việt Nam đang phải
đối mặt với nhiều thử thách nhằm thích ứng với môi
trường kinh tế xã hội đang ngày một biến chuyển,
trong đó nhóm thanh thiếu niên các dân tộc thiểu
số, vùng sâu vùng xa phải đối mặt với nhiều thử
thách do điều kiện vật chất còn khó khăn, gây cản
trở tới học hành và việc làm. Tuy nhiên SAVY cũng
cho thấy thanh thiếu niên đã nhận được hỗ trợ lớn
lao từ gia đình, cộng đồng và bạn bè giúp họ tự
bảo vệ và vượt qua các thử thách.
Thanh thiếu niên trong gia
đình


Thanh thiếu niên Việt Nam thể hiện một sự gắn bó
chặt chẽ với gia đình. Với tỷ lệ tử vong và ly dò của
cha mẹ tương đối thấp, cấu trúc gia đình nhìn
chung ít bò ảnh hưởng. Ngay cả các cặp vợ chồng
mới cưới cũng vẫn duy trì xu hướng sống với gia
đình bên chồng. Thanh thiếu niên tham gia vào các
hoạt động trong gia đình, được người lớn lắng nghe
ý kiến và cảm thấy có giá trò với gia đình. Gia đình
chính là yếu tố bảo vệ cho thanh thiếu niên, cho dù
có một tỷ lệ nhỏ thanh thiếu niên cho biết có xung
đột trong gia đình.
Cũng cần lưu ý sự khác biệt đáng kể giữa các hộ
gia đình ở thành thò và nông thôn. Điều dễ nhận
thấy là các gia đình ở nông thôn có quy mô lớn hơn
nhưng lại có ít nguồn lực hơn. Thanh niên nông
thôn lập gia đình và có con sớm, tỷ lệ bỏ học cao,
trình độ học vấn thấp đặc biệt các dân tộc thiểu số.
Thanh thiếu niên nông thôn thường làm những việc
không cần trình độ cao, ít được tiếp cận với thông
tin và vì vậy họ thiếu kiến thức về sức khỏe sinh
sản. Số liệu SAVY cho thấy nhu cầu cần hỗ trợ cho
các vùng này.
Giáo dục
Số liệu về giáo dục rất đáng khích lệ cho thấy tỷ lệ
đi học và biết chữ cao cũng như thái độ tích cực
của thanh thiếu niên đối với thầy cô và trường lớp.
Môi trường giáo dục đã trở nên thuận lợi và mang
tính hỗ trợ hơn đối với thanh thiếu niên đặc biệt là
nữ giới trong những năm gần đây, học sinh có cơ
hội “được có tiếng nói” tại trường lớp và giáo viên

khen ngợi học sinh khi học sinh học tốt. Một phát
hiện ngạc nhiên là chỉ có một số ít học sinh cho
rằng chương trình học quá nặng mặc dù tỷ lệ học
thêm ngoài giờ rất cao.
Lý do chính khiến một số thanh thiếu niên không
được đến trường hoặc phải bỏ học là vì gia đình
không có khả năng chi trả các chi phí liên quan
đến học tập. Điều này làm cho phần đông thanh
thiếu niên chỉ đạt học vấn cao nhất ở cấp trung học
cơ sở. Đây là một phát hiện đáng quan tâm vì thanh
thiếu niên sẽ tái mù chữ khi bỏ học sớm. Đại đa số
thanh thiếu niên muốn vào đại học mặc dù thực tế
chỉ có một số rất ít có thể tiếp tục ở cấp học này.
Lao động, việc làm và giáo
dục dạy nghề
Thanh thiếu niên cho rằng công việc và cơ hội làm
việc là những ước vọng chính trong tương lai. Tuy
vậy các nhóm thanh thiếu niên đều cho rằng tìm
việc không phải điều đơn giản, mặc dù hơn nửa số
được phỏng vấn đang hoặc đã từng đi làm kiếm
tiền tại một thời điểm nào đó với một tỷ lệ hài lòng
với công việc tương đối cao. Chỉ có một phần tương
đối nhỏ thanh thiếu niên tham gia các lớp dạy
nghề.
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
10
Tình bạn, hẹn hò, tình dục
và sức khỏe sinh sản
Thái độ và lối sống truyền thống vẫn là chuẩn mực
ở Việt Nam với tình dục trước hôn nhân vẫn được

coi là không đứng đắn, nhóm bạn chơi thân chủ
yếu là cùng giới và rất ít người chấp nhận vấn đề
tình dục đồng giới. Với các mối quan hệ trở nên
thân mật, thì vấn đề hôn, đụng chạm vào những
vùng kín và quan hệ tình dục (QHTD) cũng không
phổ biến. Khi đã có quan hệ tình dục thì quyết
đònh này dường như cũng được cân nhắc kỹ với
mối quan hệ tương đối bền chặt trong một môi
trường tương đối an toàn. Khuynh hướng này cho
thấy giá trò đạo đức trong tình yêu vẫn được duy
trì.
Có khoảng 1/3 nam thanh niên thành thò độc thân
và 1/4 nam thanh niên nông thôn độc thân tuổi
22-25 có quan hệ tình dục trước hôn nhân trong
khi chỉ có rất ít nữ thanh niên trả lời là có. Phần
đông thanh thiếu niên không chấp nhận tình dục
trước hôn nhân, tuy nhiên tỷ lệ nữ đã có gia đình,
thông báo có QHTD trước hôn nhân tương đối cao
so với nữ chưa có gia đình. Nhiều phát hiện từ
SAVY cho thấy xã hội nhìn nhận vấn đề tình dục
trước hôn nhân ở nam và nữ có khác nhau.
Mặc dù thanh thiếu niên biết được hiệu quả của
bao cao su (BCS) nhưng thái độ đối với BCS còn
khá tiêu cực, đồng nhất BCS với những quan hệ
không đàng hoàng như mại dâm. Các phương tiện
tránh thai được các cặp vợ chồng sử dụng nhiều
nhưng những người độc thân có QHTD thì sử dụng
không thường xuyên. 2/3 nữ thanh thiếu niên còn
hiểu biết hạn chế về thời điểm dễ có thai nhất
trong chu kỳ kinh nguyệt. Nói chung mại dâm

được giới trẻ nhìn nhận với thái độ không đồng
tình. Tuy nhiên thanh thiếu niên cũng tỏ thái độ
thông cảm nhất đònh với các yếu tố phức tạp đưa
đẩy một số người vào con đường mại dâm. Nam
thanh niên có QHTD với gái mại dâm thông báo
có sử dụng BCS khá thường xuyên.
Có thai và nạo hút thai
Số có thai và phá thai chủ yếu tập trung ở những
nữ thanh niên đã lập gia đình, số liệu cho thấy
vẫn còn những đònh kiến đối với những người
chưa lập gia đình mà có thai. Về chăm sóc thai
phụ, phần lớn nữ thanh niên cho biết đã đi khám
thai trong lần có thai đầu tiên. Tình hình tiếp cận
các dòch vụ y tế công ở các trung tâm y tế xã nhìn
chung còn rất thấp ở nhóm nữ dân tộc thiểu số.
Phá thai xuất hiện trong cả 2 nhóm có gia đình và
chưa lập gia đình nhưng so sánh với các nghiên
cứu khác, tỷ lệ phá thai tìm thấy ở SAVY có vẻ rất
thấp. Rõ ràng rằng vấn đề phá thai là một vấn đề
nhạy cảm đặc biệt ở nữ thanh niên chưa lập gia
đình.
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
11
Nhận thức, kiến thức và
nguồn thông tin về sức
khỏe sinh sản
Các chương trình truyền thông cũng như việc tiếp
cận tốt với các nguồn thông tin cho thấy thanh
thiếu niên Việt Nam được cung cấp nhiều thông tin
về sức khỏe sinh sản, đặc biệt là các biện pháp

tránh thai, mặc dù lại hơi ít thông tin về các bệnh
lây truyền qua đường tình dục. Tuy nhiên mức độ
chính xác của thông tin nắêm được nhìn chung vẫn
chưa đạt được như mong muốn.
Phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt Tivi, là
nguồn thông tin phổ biết nhất về sức khỏe sinh
sản. Các nhà chuyên môn (thầy thuốc, giáo viên)
xếp thứ hai, nhóm thiếu niên ở trường thường
nhận được thông tin từ giáo viên. Nhóm thanh
niên nam 22-25 tuổi thường nhận được thông tin từ
bạn bè. Thanh thiếu niên nữ thường kiếm tìm
nguồn thông tin từ gia đình đặc biệt từ cha mẹ
nhiều hơn thanh thiếu niên nam. Nhóm nữ 14-17
tuổi kể hoặc hỏi người khác về hiện tượng dậy thì
của mình nhiều hơn các chò lớn đã từng hỏi/kể;
đây là một điều đáng khích lệ cho thấy nhận thức
đã tăng lên và có sự cởi mở hơn trong việc trao
đổi những vấn đề thầm kín.
HIV/AIDS
Các chiến dòch truyền thông về HIV/AIDS đã thành
công trong việc nâng cao nhận thức của đông đảo
thanh thiếu niên. Tuy kiến thức có tăng nhưng mức
độ chính xác của kiến thức lại chưa cao. Đáng lưu
ý là gần 3/4 nhóm chưa bao giờ đến trường được
hỏi nói rằng chưa từng nghe nói về AIDS. SAVY
cũng cho thấy các cuộc thảo luận về HIV/AIDS với
thanh thiếu niên trong gia đình thường chưa thực
sự gắn liền với những vấn đề SKSS, giới tính và
tình dục.
Nhìn chung, thanh thiếu niên có thái độ tích cực

và ít sợ hãi đối với người nhiễm HIV. Phần lớn nói
rằng họ sẽ giúp đỡ và vẫn tiếp xúc bình thường
với người nhiễm HIV. Tuy nhiên tỷ lệ nói sẽ không
giúp đỡ người nhiễm HIV ở thanh thiếu niên dân
tộc thiểu số nhiều gấp 3 lần so với thanh thiếu
niên dân tộc Kinh.
Sử dụng các chất gây nghiện
Thanh thiếu niên vẫn còn quá dễ dàng kiếm được
các chất gây nghiện hợp pháp: tới 98,6% cho rằng
rất dễ dàng kiếm được rượu, bia. Thanh thiếu niên
nam còn dễ dàng bò bạn bè lôi kéo. Trái lại thanh
thiếu niên nữ chòu ảnh hưởng bởi văn hóa theo
chiều hướng tích cực. Vì vậy rất ít nữ hút thuốc
hoặc bò bạn bè lôi kéo hút thuốc. Có khoảng gần
1/2 nam thanh niên có hút thuốc ở các mức độ
khác nhau. Uống rượu cũng có một mẫu hình
tương tự. Tuy tỷ lệ thanh thiếu niên đã có uống
rượu, bia rất cao nhưng số đã từng say không
nhiều và chủ yếu là nam, trong đó có một nhóm
nhỏ say bia, rượu thường xuyên.
Số liệu sử dụng ma túy rất thấp, có thể do số liệu
không được thống kê đầy đủ, hoặc có khả năng là
thanh thiếu niên không nói thật với người phỏng
vấn. Vì vậy SAVY sẽ không phân tích nhóm thanh
thiếu niên có sử dụng ma túy. Tuy nhiên gần 1/3
người được hỏi trả lời có biết một người cụ thể
đang sử dụng ma túy. Trong đó thanh thiếu niên
thành thò biết nhiều gấp đôi so với nông thôn.
Những hành vi có hại cho
sức khỏe

Thanh thiếu niên nam rõ ràng có nhiều hành vi
nguy cơ hơn so với nhóm nữ. Tuy tỷ lệ can dự vào
các hành vi nguy cơ như: quan hệ tình dục ngẫu
hứng, đua xe máy, tụ tập gây rối, bạo lực và mang
vũ khí... tương đối thấp, nhưng cũng có thể thấy
đối tượng này tập trung ở nam thanh niên đặc biệt
nhóm sống ở thành thò. Khi xếp các nhóm hút
thuốc, uống rượu, bia, dùng ma túy và tai nạn ta
thấy đối tượng ở các nhóm trên đại đa số là nam
và rõ ràng nam thanh niên ở đô thò có nguy cơ
cao hơn hẳn về các hành vi nguy cơ so với nhóm
nam ở nông thôn.
Thanh thiếu niên nam cũng có một tỷ lệ tự gây
thương tích cho bản thân cao hơn nữ tuy rằng tỷ lệ
này ở hai giới nhìn chung là không cao. Trên tổng
số được hỏi có 3,4% đã nghó đến chuyện tự tử
trong đó số nữ nghó đến chuyện nghiêm trọng này
cao hơn đáng kể so với nam. Cũng cần kể đến
một tỷ lệ lớn thanh thiếu niên chơi với các nhóm
bạn và nhóm bạn đã có những tác động tích cực
giúp thanh thiếu niên tránh được các hành vi nguy
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
12
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
cơ như uống bia, rượu, gây rối, xem phim ảnh
khiêu dâm.
Tai nạn, thương tích và
bệnh tật
Một nửa số thanh thiếu niên được hỏi đã từng đi
xe máy, tỷ lệ đặc biệt cao ở thành thò và ở nhóm

nam. Trong số đã đi xe máy, chỉ có 25% nói có
đội mũ bảo hiểm theo quy đònh và có tới 1/4
thanh thiếu niên ở thành thò nói đã từng bò tai nạn
giao thông. Nguy cơ tai nạn và thương tích ở thanh
thiếu niên cao nhất do việc đi lại bằng xe máy và
tai nạn giao thông chính là nguy cơ thường trực
đối với thanh thiếu niên ở khu vực thành thò.
SAVY đồng thời cũng phác họa nên một bức tranh
về cảm nhận của thanh thiếu niên đối với sức
khỏe thể chất của mình. Các vấn đề về tiêu hóa
thường được đề cập nhiều nhất ở các nhóm thanh
thiếu niên; nhóm thiếu niên thành thò có tỷ lệ các
tật về mắt cao nhất. Phần đông thanh thiếu niên
có bệnh tật đã tìm kiếm dòch vụ khám chữa bệnh
trong đó phổ biến nhất là tự mua thuốc.
Lòng tự trọng, ước muốn và
hoài bão
SAVY cho thấy một bức tranh lạc quan về thanh
thiếu niên Việt Nam vững vàng, lao động cần cù,
lạc quan và gắn bó với gia đình. Họ kỳ vọng về
tương lai, tự tin, đánh giá cao bản thân và cảm
thấy có giá trò đối với gia đình. Họ không những
cảm thấy tiếng nói của họ được tôn trọng trong gia
đình mà còn thấy vai trò của mình trong xã hội.
Tuy nhiên điều tra cũng cho thấy một số thanh
thiếu niên còn lo lắng về tương lai: 1/5 thanh thiếu
niên đã từng có cảm giác thất vọng, chán chường
về tương lai. Đương nhiên những thanh thiếu niên
sống trong hoàn cảnh khó khăn sẽ cảm thấy ít lạc
quan hơn nhóm có cuộc sống sung túc hơn.

Nhìn chung nam giới lạc quan hơn nữ giới về bản
thân, gia đình và tương lai. Ước vọng hàng đầu của
thanh thiếu niên về tương lai là thu nhập, việc làm
và thành đạt về kinh tế. Gia đình và hạnh phúc
đứng hàng thứ hai. Đại đa số thanh thiếu niên
được hỏi cho rằng cuộc sống của họ sẽ khá hơn
bố mẹ mình.
Kết luận
Thanh thiếu niên Việt Nam ngày nay lạc quan và
tràn đầy hi vọng. Họ nhìn thấy tương lai với những
cơ hội rọâng mở hơn cha mẹ mình ngày trước. Họ
thấy được giá trò của nhà trường, công việc và
phần lớn không có những hành vi gây hại cho bản
thân. Việt Nam đang trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội mạnh mẽ với những cơ hội và
thách thức. Sự thònh vượng khá giả sẽ kéo theo
những vấn đề về ma túy, mại dâm, xung đột giữa
các cá nhân và căng thẳng tâm lý. Nguy cơ tiềm
tàng này có thể nhận thấy được khi so sánh sức
khỏe và tình trạng lành mạnh của thanh thiếu niên
Việt Nam với thanh thiếu niên các nước lân cận:
Thanh thiếu niên Việt Nam hiện có tỷ lệ sử dụng
thuốc lá và các chất gây nghiện khác tương đối
thấp, ít bạo lực giữa các cá nhân, vấn đề tự tử
không phổ biến và hành vi tình dục nguy cơ cao
cũng không nhiều. Thanh thiếu niên Việt Nam
đồng thời cũng có nhiều hoài bão về học tập và
làm việc. Vậy mục tiêu trong thời gian tới phải là
tiếp tục duy trì sức khỏe và hạnh phúc của lực
lượng này đồng thời cải thiện các cơ hội kinh tế và

xã hội nói chung cho họ.

×