Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Điều tra mô hình kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.38 KB, 85 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này trước tiên tôi xin trân trọng cảm ơn Ban
giám hiệu nhà trường, Ban Chủ nhiệm Khoa Kinh tế & PTNT, cảm ơn các
thầy cô đã truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình
học tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông Lâm.
Trong thời gian thực tập tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của
nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới thầy PGS. TS Dương Văn Sơn người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cán bộ Trạm Khuyến nông, các
khuyến nông viên tại các xã cùng toàn bộ các hộ gia đình đã giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian thực tập tại huyện Phù Ninh
Cuối cùng tôi xin bày tỏ sự biết ơn tới gia đình, người thân và bạn bè
đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập.
Trong quá trình nghiên cứu mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng vì những
lý do chủ quan và khách quan cho nên khóa luận không tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
thầy cô và các bạn sinh viên để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Minh Hải
i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ, cụm từ viết tắt Giải thích
1 KHKT Khoa học kỹ thuật
2 KTTT Kinh tế trang trại
3 ĐVT Đơn vị tính
4 SL Số lượng
5 CC Cơ cấu
6 BQ Bình quân


7 NN Nông nghiệp
8 LĐ Lao động
9 HQKT Hiệu quả kinh tế
10 trđ Triệu đồng
11 MH1 Mô hình 1
12 MH2 Mô hình 2
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 3
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 5
iii
DANH MỤC CÁC HÌNH
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 3
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 5
iv
MỤC LỤC
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 3
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 5
v
Phần I
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp với đa số dân số sống ở khu vực
nông thôn và đại bộ phận làm nông nghiệp. Do vậy, để phát triển chúng ta
phải lấy nông nghiệp làm nền tảng, phải bắt đầu từ nông nghiệp, phải thay đổi
nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất manh mún sang một nền nông nghiệp tiên
tiến, phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh phát triển công thương
nghiệp. Cụ thể như: phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, phát triển các
ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng, khai khoáng, sản xuất cây trồng,
vật nuôi theo hướng hàng hoá, chuyên canh các vùng cây công nghiệp, trồng

cây ăn quả, kinh tế trang trại, đánh bắt nuôi trồng thuỷ hải sản.
Quá khứ và hiện tại cho thấy chúng ta đang đi đúng hướng, mà nổi bật
lên là nền nông nghiệp của chúng ta đang có những khởi sắc đáng kể: Hàng
hóa xuất khẩu của nước ta chủ yếu là nông sản, chúng ta đứng tốp đầu về xuất
khẩu lúa gạo, cà phê, hồ tiêu. Chính nông nghiệp đã giúp đất nước ta không bị
ảnh hưởng nhiều trong thời kì khủng hoảng kinh tế vừa qua. Và một trong
những thành phần tạo nên tác động to lớn của nền nông nghiệp đến sự phát
triển của đất nước đó là mô hình trang trại. Mô hình trang trại hình thành và
phát triển là một điều tất yếu của sự hội nhập, của nền kinh tế thị trường, của
một nền nông nghiệp tiên tiến trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng.
Mô hình trang trại ở nước ta đã tồn tại từ lâu, nhưng chỉ phát triển
mạnh trong những năm gần đây. Có thể xem việc thực hiện Chỉ thị 100 của
Ban Bí thư TW (khóa IV), nghị quyết X của Bộ Chính trị (khóa VI) về phát
huy vai trò tự chủ của nền kinh tế hộ nông dân đã đặt nền móng cho sự ra đời
của nền kinh tế trang trại với những thành tựu của công cuộc đổi mới. Sau
1
Nghị quyết TW V khóa XII (năm 1993) quy định 5 quyền sử dụng đất, thì
kinh tế trang trại phát triển khá nhanh và đa dạng.
Mô hình trang trại phát triển bước đầu có hiệu quả góp phần chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp nông thôn. Theo xu hướng tăng nhanh tỷ trọng sản xuất
hàng hóa, tạo ra nhiều vùng sản xuất tập trung, tạo tiền đề cho công nghiệp chế
biến nông sản. Phát triển kinh tế trang trại góp phần tăng tốc độ phủ xanh đất
trống đồi núi trọc, khai thác thêm diện tích đất hoang hóa, cải thiện môi trường
sinh thái. Đồng thời huy động được vốn đầu tư lớn trong dân để đầu tư cho phát
triển nông - lâm - ngư nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển mô hình trang trại vẫn còn một số
tồn tại cần giải quyết như: Một số trang trại hình thành còn mang tính tự phát,
hoạt động sản xuất kinh doanh còn gặp khó khăn thiếu sự quan tâm của các
cơ quan, tổ chức kinh tế nhà nước trong việc thực hiện các chính sách như:
Tín dụng, đất đai, thị trường tiêu thụ sản phẩm, khuyến nông, ứng dụng các

tiến bộ KHKT. Các trang trại còn gặp khó khăn trong vấn đề bảo vệ tài
nguyên môi trường, kỹ thuật, trình độ quản lý của các trang trại còn hạn chế.
Phù Ninh là một huyện trung du miền núi phía Bắc, có nhiều điều kiện
thuận lợi để hình thành và phát triển các mô hình trang trại như; đất đai rộng,
lao động dồi dào. Đặc biệt được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cũng như
chính quyền địa phương. Cùng với sự phát triển của loại hình kinh tế này trên
cả nước, mô hình trang trại trên địa bàn huyện Phù Ninh cũng đã có những
bước phát triển nhanh và mạnh. Hiện nay, trên địa bàn huyện có nhiều mô
hình trang trại, sau một thời gian hình thành và phát triển đã phát huy được
kết quả bước đầu. Nhưng sự phát triển các mô hình trang trại trong huyện
hiện nay còn gặp nhiều vấn đề khó khăn chưa được giải quyết như: trình độ
quản lý, hiểu biết về khoa học kỹ thuật, thông tin thị trường, vốn.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của địa phương, tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Điều tra mô hình kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Phù Ninh,
tỉnh Phú Thọ”.
2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Góp phần hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về kinh tế trang trại, điều
tra, đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh một số mô hình trang trại trên địa
bàn huyện Phù Ninh, từ đó đề xuất những biện pháp từng bước nâng cao hiệu
quả kinh tế.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng phát triển trang trại trên địa bàn nghiên cứu, bao
gồm thực trạng về sản xuất trang trại, thị trường và nghiên cứu một số nội
dung kinh tế.
- Phân tích kết quả sản xuất của một số mô hình trang trại tiêu biểu.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát
triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Phù Ninh - tỉnh Phú Thọ.
1.3. Ý nghĩa của đề tài

1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu
- Giúp sinh viên củng cố lại kiến thức lý thuyết đã được học trên lớp.
- Giúp sinh viên có phương pháp làm việc và nghiên cứu khoa học, tiếp
thu thực tế để thấy rõ được những việc mà một cán bộ khuyến nông phải làm.
- Bổ sung thêm kiến thức về các hoạt động khuyến nông cho sinh viên.
- Bổ sung thêm tài liệu cho khoa, trường, cán bộ khuyến nông và các cơ
quan trong ngành.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp một phần vào bản báo cáo điều tra,
đánh giá mô hình trang trại và kinh tế trang trại trên địa bàn xã và huyện.
Ngoài ra từ những phát hiện trong quá trình nghiên cứu, có thể cho địa
phương nơi đây một cái nhìn tổng thể cũng như chi tiết hơn về hiện trạng phát
triển mô hình trang trại và kinh tế trang trại qua đó phần nào giúp định hướng
3
những kiến nghị lên cơ quan quản lí cấp trên kịp thời đưa ra những phương
hướng chỉ đạo sát đúng nhằm mở rộng và phát triển mô hình trang trại và kinh
tế trang trại trên địa bàn huyện.
- Xác định được các yếu tố gây ảnh hưởng (thuận lợi và khó khăn) chủ yếu
trong phát triển mô hình trang trại và kinh tế trang trại. Góp phần thúc đẩy mở
rộng, phát triển về mô hình trang trại và kinh tế trang trại trên địa bàn huyện.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên của các lớp, khóa sau.
4
Chương II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1. Khái niệm về trang trại và kinh tế trang trại
Đến nay, đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề kinh tế trang
trại. Ở mỗi vùng, mỗi khu vực các tác giả đều có những nhận xét, những quan
điểm riêng về trang trại và KTTT. Họ nhìn nhận từ những góc độ khác nhau

và nhận thức cũng rất khác nhau. Trước hết họ đã phân biệt giữa KTTT và
kinh tế hộ nông dân, thấy được sự khác biệt giữa chúng. Trên cơ sở đó họ đã
có những khái niệm đầy đủ và đúng đắn về trang trại và KTTT.
- Theo Lê Trọng “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở là
doanh nghiệp trực tiếp tổ chức sản xuất ra nông sản hàng hoá dựa trên cơ sở
hiệp tác và phân công lao động xã hội, được chủ trang trại đầu tư vốn, thuê
mướn phần lớn hoặc hầu hết sức lao động và trang bị tư liệu sản xuất để hoạt
động kinh doanh theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường được Nhà nước bảo
hộ theo luật định”.
- Theo tác giả Trần Đức: “Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức
sản xuất cơ sở trong nước có mục đích chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng
hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người
chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô tập trung đủ lớn, với cách
thức tổ chức, quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và
luôn gắn với thị trường”
Nhận thức được vai trò của KTTT trong nền kinh tế đất nước. Nghị
quyết của Chính phủ số 03/2000/NQ - CP ngày 02/02/2000 về KTTT đã chỉ rõ
“Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp,
nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao
5
hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản,
trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản”.
* Đặc trưng của kinh tế trang trại
- Trang trại là một cơ sở sản xuất - kinh doanh hàng hóa trong nông,
lâm, ngư nghiệp.
- Có nguồn gốc hình thành và phát triển từ kinh tế nông hộ nhưng ở vào
giai đoạn có trình độ tổ chức quản lý sản xuất hàng hóa cao hơn.
- Khai thác và sử dụng các nguồn lực kinh tế ở địa phương (đất đai,
vốn, lao động, ứng dụng khoa học công nghệ).
- Hoạt động sản xuất - kinh doanh luôn gắn liền với nền kinh tế thị trường.

- Nguồn gốc sở hữu của trang trại là thành phần kinh tế tư nhân là chủ
yếu, song do sự tác động của kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế nên
nó ngày càng mở rộng ra nhiều hình thức sở hữu, từ một thành phần kinh tế
đến nhiều thành phần kinh tế.
Xuất phát từ những cơ sở thực tiễn trên, tôi đưa ra khái niệm về trang
trại và kinh tế trang trại như sau:
Trang trại là một tổ chức kinh tế cơ sở lấy hoạt động sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp làm mục đích sản xuất kinh doanh chính, trong đó có kết hợp
thêm ngành nghề, dịch vụ phụ trợ phi nông nghiệp của các thành phần kinh tế
khác nhau trong nông thôn, được hình thành chủ yếu trên cơ sở kinh doanh
nông hộ, có quy mô sản xuất, thu nhập, giá trị và tỷ suất hàng hóa cao vượt
trội kinh tế nông hộ, có năng lực tổ chức quản lý và ứng dụng cá tiến bộ khoa
học công nghệ mới vào hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả kinh
tế cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.
2.1.2. Vị trí, vai trò của kinh tế trang trại
Trên thế giới, trải qua hàng thế kỷ đến nay trang trại gia đình đã xuất
hiện, đã tồn tại, phát triển ở các nước công nghiệp phát triển và đang được mở
6
rộng khuyến khích phát triển trên toàn thế giới. Trang trại gia đình đã có được
vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi đất nước.
Ở nước ta, kinh tế trang trại mà chủ yếu là trang trại gia đình mới phát
triển trong những năm gần đây, song các nghiên cứu đã cho thấy vai trò tích
cực của nó đã thể hiện rõ nét cả về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
a. Về mặt kinh tế
Kinh tế trang trại có ý nghĩa quan trọng nhất đối với nền kinh tế đất
nước nói chung và trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Các trang trại góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra những sản phẩm có giá trị hàng hóa
cao, khắc phục dần tình trạng sản xuất phân tán, góp phần từng bước tạo nên
những vùng chuyên môn hóa thâm canh cao góp phần thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Từ đó góp phần thúc đẩy

công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn.
b. Về mặt xã hội
Kinh tế trang trại phát triển làm tăng số hộ giàu trong nông thôn, tạo
thêm việc làm, tăng thu nhập cho lao động, điều này có ý nghĩa rất quan trọng
về mặt xã hội trong nông thôn. Hơn nữa kinh tế trang trại phát triển sẽ góp
phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, tạo tấm gương cho các hộ
nông dân về mặt tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh.
c. Về mặt môi trường
Do sản xuất kinh doanh tự chủ và vì lợi ích thiết thực lâu dài của mình
mà các chủ trang trại luôn có ý thức khai thác hợp lý và quan tâm bảo vệ môi
trường trước hết là trong phạm vi trang trại. Các trang trại vùng núi, đồi gò đã
góp phần tích cực vào việc trồng và bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi núi
trọc, cải tạo và bảo vệ môi trường sinh thái.
2.1.3. Những tiêu chí để xác định hộ là trang trại
7
Tuỳ theo từng vùng, từng khu vực mà có các mức, cách nhìn nhận khác
nhau. Để phân biệt giữa KTTT và kinh tế hộ nông dân cần dựa trên những căn
cứ về trang trại.
Ngày 13 tháng 4 năm 2011, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
ban hành Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT Quy định về tiêu chí và thủ tục
cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại. Về tiêu chí xác định kinh tế trang trại,
Điều 5 quy định như sau:
Cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản đạt tiêu chuẩn kinh tế trang trại phải thỏa mãn điều kiện sau:
1. Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp phải đạt:
a) Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu:
- 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long;
- 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại.
b) Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm.
2. Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu

đồng/năm trở lên;
3. Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện tích tối thiểu 31 ha và giá
trị sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên.
* Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm
- Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng
trở lên.
- Đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
* Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ
tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế:
a. Đối với trang trại trồng trọt
- Trang trại trồng cây hàng năm:
+ Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải Miền trung.
8
+ Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên.
- Trang trại trồng cây lâu năm:
+ Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải Miền trung.
+ Từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên.
+ Trang trại trồng hồ tiêu từ 0,5 ha trở lên.
- Trang trại lâm nghiệp:
+ Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước.
b. Đối với trang trại chăn nuôi
- Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò.
+ Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên.
+ Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên.
- Chăn nuôi tiểu gia súc: lợn, dê.
+ Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn 20 con trở lên, đối
với dê, cừu từ 100 con trở lên.
+ Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn
sữa) dê thịt từ 200 con trở lên.
- Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, có thường xuyên 2000 con

trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi).
c. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản
- Diện tích mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối
với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
d. Đối với các loại sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có
tính chất đặc thự thì tiêu chí xác định là giá trị sản lượng hàng hoá (tiêu chí 1).
2.1.4. Phát triển kinh tế trang trại
* Vấn đề cơ bản của lý thuyết phát triển:
Có nhiều quan niệm khác nhau về phát triển. Theo Raaman Weitz
“Phát triển là một quá trình thay đổi liên tục làm tăng trưởng mức sống của
9
con người và phân phối công bằng những thành quả tăng trưởng trong xã
hội”. Ngân hàng thế giới đã đưa ra khái niệm phát triển với ý nghĩa rộng hơn
bao gồm cả những thuộc tính quan trọng có liên quan đến hệ thống giá trị của
con người, đó là “Sự bình đẳng hơn về cơ hội, sự tự do về chính trị và các
quyền tự do công dân để củng cố niềm tin trong cuộc sống của con người trong
các mối quan hệ với nhà nước, với cộng đồng”. Nhìn chung các ý kiến đều nhất
trí cho rằng mục tiêu chung của phát triển là nâng cao các quyền lợi về kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội và quyền tự do công dân của mọi người dân.
Phát triển kinh tế hiểu một cách chung nhất là một quá trình lớn lên hay
tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao
gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội.
Từ các quan niệm trên ta thấy vấn đề cơ bản nhất của phát triển kinh tế
là: Sự tăng thêm về khối lượng sản phẩm, dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ
cấu kinh tế - xã hội; Sự tăng thêm về quy mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu
kinh tế - xã hội là hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc vừa độc lập tương
đối của lượng và chất. Sự phát triển là một quá trình tiến hoá theo thời gian do
những nhân tố nội tại của bản thân nền kinh tế quyết định.
* Phát triển kinh tế trang trại:
Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của trang trại và những

mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
của trang trại. Như vậy có thể hiểu phát triển kinh tế trang trại là quá trình
tăng cường các yếu tố vật chất của trang trại cả về mặt số lượng và chất
lượng, đồng thời là quá trình giải quyết hài hoà hơn các mối quan hệ kinh tế
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Phát triển kinh tế
trang trại phải được đặt trong mối quan hệ hài hoà với yếu tố xã hội và bảo vệ
môi trường là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển bền vững của kinh tế trang trại.
10
Phát triển kinh tế trang trại là hình thức phát triển nông nghiệp hàng
hoá. Phát triển kinh tế trang trại không chỉ tăng về số lượng mà còn tăng cả về
chất lượng các trang trại, bảo đảm sự phát triển kinh tế theo hướng chuyên
môn hoá, ở đó diễn ra sự phân công lao động mạnh mẽ, mang lại hiệu quả
kinh tế cao, cũng như bảo đảm việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên
một cách hợp lý và có hiệu quả. Phát triển kinh tế trang trại là phát triển nền
nông nghiệp hợp lý, tiên tiến và hiện đại.
2.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả phát triển kinh tế trang trại
2.1.5.1. Các yếu tố mang tính chủ đạo
* Yếu tố chính sách:
Yếu tố chính sách bao gồm các chính sách của Nhà nước trung ương và
chính quyền địa phương với mục đích xác định vai trò, vị trí của kinh tế trang
trại trong nền kinh tế của đất nước, những chính sách tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại phát triển.
Các chính sách về đất đai, khoa học kỹ thuật, công nghệ, chính sách tín
dụng, chính sách về lao động, chính sách về thị trường, chính sách bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững kinh tế trang trại là những chính sách hết sức
quan trọng trực tiếp tác động vào quá trình hình thành và phát triển của các
trang trại. Sự tác động của các chính sách bao giờ cũng có mặt tích cực và rủi
ro do sự nhận thức của con người về các quy luật kinh tế và vận dụng vào
những điều kiện cụ thể.
* Yếu tố kinh tế nông hộ:

Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, kinh tế nông hộ ngày càng
phát triển. Quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất, vốn, lao động, tri thức khoa
học kỹ thuật đến một quy mô nhất định sẽ hình thành kinh tế trang trại.
* Yếu tố kinh tế thị trường:
11
Đây là yếu tố có tính chất quyết định đến sự phát triển của kinh tế trang
trại. Trang trại sản xuất và kinh doanh cái gì, sản xuất kinh doanh bằng cách
nào và sản phẩm làm ra tiêu thụ ở đâu lại phụ thuộc vào việc sản phẩm của
các trang trại làm ra có đáp ứng được nhu cầu thị trường hay không? Rõ ràng
kinh tế thị trường tạo ra những thách thức, những đòi hỏi khắt khe, đồng thời
cũng tạo ra những cơ hội đối với kinh tế trang trại.
2.1.5.2. Các yếu tố khác
* Sự phát triển của khoa học kỹ thuật:
Khoa học kỹ thuật có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến sự phát triển của
kinh tế trang trại. Trong những năm qua nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật đã
được áp dụng mạnh mẽ và nhanh chóng vào trong nông nghiệp. Nhờ sự phát
triển của khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá như là yếu tố
đầu vào cho sản xuất của các trang trại đó là các loại vật tư, phân bón, giống
cây con các loại, máy móc thiết bị. Chính những yếu tố đầu vào có chất lượng
tốt đã tạo ra một khả năng to lớn góp phần tăng năng suất, sản lượng và chất
lượng của sản phẩm nông nghiệp.
Số lượng trang trại ngày càng tăng lên trong đó có nhiều trang trại đã
mạnh dạn ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh những loại
cây trồng vật nuôi, những loại sản phẩm mới có năng suất và chất lượng cao
hơn và do đó làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại một
cách rõ rệt.
* Trình độ của chủ trang trại:
Việc quản lý sản xuất kinh doanh của kinh tế trang trại trên thực tế là
quản lý một doanh nghiệp. Vì vậy, chủ trang trại phải có trình độ quản lý,
điều hành sản xuất kinh doanh để đảm bảo cho trang trại hoạt động có hiệu

quả. Trong nền kinh tế tiểu nông, chỉ cần có những người nông dân, chủ hộ
cần cù lao động, còn trong kinh tế thị trường lại cần có những chủ trang trại
12
đồng thời là chủ doanh nghiệp năng động, đủ năng lực điều hành quản lý
trang trại đạt hiệu quả cao.
Năng lực quản lý điều hành của chủ trang trại thể hiện ở khả năng về quản
lý tư liệu sản xuất, quản lý lao động, quản lý vốn sản xuất kinh doanh, quản lý
điều hành, xây dựng kế hoạch, quy hoạch sản xuất, tiêu thụ nông sản phẩm.
Tài liệu thống kê ở các nước trong khu vực cũng cho thấy trình độ học
vấn chuyên môn của chủ trang trại tỷ lệ thuận với hiệu quả sản xuất kinh
doanh, thu nhập của các trang trại.
2.1.6. Ý nghĩa kinh tế, xã hội và môi trường của kinh tế trang trại
- KTTT là hình thức doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra sản phẩm hàng
hoá cho xã hội, phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp và quy luật sinh
học của cây trồng vật nuôi.
- KTTT góp phần phát triển kinh tế của nhiều vùng, tập trung khai thác
những vùng đất trống, đồi trọc, những vùng hoang hoá tạo vai trò to lớn về
mặt xã hội. Đồng thời sử dụng lao động dư thừa đặc biệt là lao động thời vụ ở
nông thôn góp phần cải thiện đời sống, tránh những tệ nạn xã hội.
- KTTT có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, xây dựng
và phát triển nông thôn mới tiến tới phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, nền
nông nghiệp sinh thái bền vững.
+ Khái niệm thuật ngữ khác có liên quan:
- Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính
trị Marx - Lenin dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản
phẩm được sản xuất ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính
người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người
khác, thông qua việc trao đổi, mua bán. Hay nói một cách khác, sản xuất hàng
hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm sản xuất ra là để bán.
13

2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
Kinh tế trang trại phát triển đầu tiên ở Tây Âu trong cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất. Tiếp đó, kinh tế trang trại phát triển ở hầu hết các
nước công nghiệp hoá ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Đại Dương cho đến ngày
nay. Ở Châu Á, kinh tế trang trại được hình thành và phát triển muộn hơn,
chủ yếu ở những nước công nghiệp đầu tiên và những năm 50.
Nước Mỹ là nơi có kinh tế trang trại rất phát triển. Năm 1950 ở Mỹ có
5.648.000 trang trại và có xu hướng giảm dần về số lượng. Năm 1960 còn
3.962.000 trang trại, năm 1970 còn 2.954.000 trang trại và năm 1992 còn
1.925.000 trang trại. Như vậy số lượng trang trại từ năm 1950 đến năm 1992
giảm bình quân là 2,6%. Trong khi đó diện tích bình quân của trang trại cũng
tăng lên, năm 1950 là 86 ha, năm 1960 là 120 ha, năm 1970 là 151 ha và năm
1992 là 198,7 ha, diện tích trang trại tăng bình quân hàng năm 2%.
Ở Châu Âu, năm 1950 có 453.000 trang trại, đến năm 1987 giảm xuống
254.000 trang trại. Tốc độ giảm bình quân hàng năm là 2,1%. Nước Pháp năm
1955 có 2.285.000 trang trại, năm 1993 còn 801.400 trang trại, tốc độ trang trại
giảm bình quân hàng năm là 2,7%. Diện tích bình quân của trang trại qua các
năm có xu hướng tăng lên nước Anh năm 1950 là 36 ha, năm 1987 là 71 ha, ở
Pháp 1955 là 14 ha, năm 1985 là 35,1 ha, ở Cộng hoà Liên bang Đức năm 1949
là 11 ha, năm 1985 là 15 ha, Hà Lan 1950 là 7 ha, năm 1987 là 16 ha.
Như vậy, ở các nước tư bản Tây Âu và Mỹ, số lượng trang trại đều có
xu hướng giảm, quy mô trang trại lại tăng lên.
Các nước Châu Á bước vào công nghiệp hoá muộn hơn các nước Âu
Mỹ hàng trăm năm. Vì vậy, kinh tế trang trại sản xuất nông sản hàng hoá
phục vụ công nghiệp hoá cũng xuất hiện muộn hơn.
14
Ở Nhật Bản, năm 1950 số trang trại là 6.176.000, năm 1993 là
3.691.000 trang trại. Số lượng trang trại giảm bình quân hàng năm là 1,2%.
Diện tích trang trại bình quân năm 1950 là 0,8 ha, năm 1993 là 1,38 ha, tốc độ

tăng diện tích bình quân hàng năm 1,3%, ở Đài Loan, năm 1955 số trang trại
là 744,000 năm 1988 là 739.000. Tốc độ trang trại giảm bình quân 0,02%.
Diện tích trang trại bình quân năm 1955 là 1,12 ha năm 1988 là 1,21 ha. Tốc
độ tăng diện tích trang trại bình quân hàng năm 0,2%, ở Hàn Quốc, năm 1953
có 2.249.000 trang trại, năm 1979 giảm xuống 1.172.000 trang trại. Số lượng
trang trại giảm bình quân hàng năm 0,7%, diện tích bình quân của trang trại
tăng bình quân hàng năm là 0,9%.
Do bình quân ruộng đất thấp nên Nhà nước đã quy định mức hạn điền
với nông dân như ở Nhật Bản, Hàn Quốc (không quá 3 ha) Ấn Độ (không quá
7,2 ha). Ở Nhật bản năm 1990 số trang trại dưới 0,5 ha chiếm 41,9%, từ 0,5%
ha đến 1 ha chiếm 30,7% trên 1 ha chiếm 25,6%. Ở Hàn Quốc năm 1985 diện
tích trang trại dưới 0,5 ha chiếm 29,7%; từ 0,5 đến 1 ha chiếm 34,7% trên 1
ha chiếm 35,6% .
Như vậy ở Châu Á nói chung hiện tượng tích tụ ruộng đất diễn ra chậm
nên tình trạng phân tán manh mún ruộng đất cũng là một trong những trở ngại
trong vấn đề phát triển kinh tế trang trại. Trong sự phát triển kinh tế trang trại
gia đình, vấn đề tích tụ ruộng đất để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh
không chỉ chịu sự tác động từ cạnh tranh, phân hoá mà còn chịu tác động từ
chính sách luật pháp của Nhà nước.
2.2.2. Tình hình phát triển trang trại ở Việt Nam
* Thời kỳ trước năm 1986:
Trang trại ở nước ta hình thành từ thời nhà Lý. Lúc đầu hình thức trang
trại là các điền trang thái ấp, tồn tại đến thời Pháp thuộc. Điền trang thời Lý
Trần là các quý tộc họ Mạc được triều đình ban bổng lộc, đồn điền thời phong
15
kiến do Nhà nước phong kiến tạo lập nên. Đồn điền thời Pháp thuộc chủ yếu
do hình thức bóc lột của thực dân Pháp đối với nông dân ta.
Trong giai đoạn từ 1955 - 1986, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước và được giao cho các
nông trường quốc doanh, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất quản lý. Hộ nông dân

không được coi là đơn vị kinh tế tự chủ nên không được giao quyền sử dụng
đất. Các chính sách của Nhà nước ban hành nhằm hạn chế thị trường tự do,
ngăn cấm tự do giao lưu kinh tế nói chung, đặc biệt là trong lĩnh vực nông
nghiệp. Điều này làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành và phát triển của kinh
tế trang trại, làm cho nền nông nghiệp của nước ta trì trệ, lạc hậu. Trước tình
hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã phần nào nhận thấy sai lầm trong quản lý
kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, sửa sai bằng việc ban hành chỉ
thị 100/CT/TW. Đây được coi là bước đột phá của Đảng và Nhà nước ta. Tuy
nhiên, quá trình phát triển nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn.
Tóm lại, trước năm 1986, kinh tế nông nghiệp mang tính tập trung quan
liêu bao cấp, chỉ có hai thành phần kinh tế chủ yếu là nông trường quốc doanh
và hợp tác xã nông nghiệp.
* Sau năm 1986:
Trước những sai lầm trong quản lý kinh tế, ở Đại hội VI tháng 12/1986,
Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương “phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Tiếp đó, đến tháng 4 năm 1988, trong nông nghiệp có Nghị quyết 10
của Bộ Chính trị về “Đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp”. Đặc biệt là từ
Nghị quyết 6 khoá VI năm 1989, Đảng chỉ ra rằng gia đình xã viên trở thành
đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời luật kinh tế tư nhân cũng được công bố trên
báo Nhân dân ngày 3/1/1991. Đây chính là những cơ sở để kinh tế trang trại
phát triển với quy mô ngày càng lớn, chất lượng hoạt động ngày càng cao.
16
Từ sau cơ chế đổi mới, đặc biệt là từ sau năm 1989, kinh tế trang trại
phát triển rất nhanh ở các vùng Nam Bộ, Đồng Tháp Mười, Đồng bằng sông
Cửu Long, Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung, Đồng bằng Bắc Bộ, các tỉnh
miền núi phía Bắc. Theo số liệu điều tra, năm 1989 nước ta có 5.125 trang
trại, đến năm 1992 tăng lên 13.246 trang trại (tăng gấp 2,53 lần). Cùng thời
gian đó, quy mô đất đai tăng từ 22.946 ha lên 58.282 ha (tăng gấp 2,5 lần),
đến năm 1999 tăng lên 396.286 ha (tăng gấp 6,81 lần so với năm 1992). Cùng

với sự gia tăng của quy mô đất đai, quy mô vốn bình quân 1 trang trại cũng
tăng đáng kể. Năm 1989, bình quân 1 trang trại có số vốn là 100,23 triệu đồng
và tăng lên 199,96 triệu đồng (tăng khoảng 2 lần) năm 1999. Nhờ quy mô
vốn, đất đai tăng nên tổng giá trị sản phẩm bình quân của các trang trại trong
những năm 1997 - 1999 khoảng 9.575 tỷ đồng, chiếm khoảng 7,98% tổng giá
trị sản phẩm nông nghiệp. Đặc biệt là tỷ suất nông sản hàng hoá của các trang
trại năm 1999 là 86,74%, tăng 1,1 lần so với năm 1992 (78,6%). Ngày
02/02/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP về
kinh tế trang trại. Sau 12 năm thực hiện (2000 - 2012), tình hình kinh tế trang
trại đã có bước phát triển mới cả về số lượng, quy mô và kết quả.
Gần đây các mô hình kinh tế trang trại phát triển nhanh chóng và ngày
một gia tăng về quy mô và số lượng, hình thức hoạt động sản xuất kinh doanh
ngày một phong phú. Phạm vi hoạt động của các trang trại phân bố rộng khắp
trên tất cả vùng sinh thái. Kinh tế trang trại đã phát triển thêm một bước cao
hơn đó là hình thức trang trại sản xuất kinh doanh kết hợp với du lịch sinh
thái. Loại hình này đang được phát triển mạnh ở ven các trung tâm thành phố
lớn, ven các khu danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Tuy chưa có số liệu cụ thể
nhưng chúng ta phải ghi nhận rằng loại hình trang trại này đang hình thành và
phát triển nhanh chóng là điều tất yếu khách quan.
17
S phỏt trin nhanh chúng ca kinh t trang tri v nhng thnh qu m
nú t c trong nhng nm gn õy cho thy ch trng khuyn khớch kinh
t trang tri l hon ton ỳng n, hp lũng dõn v to iu kin thỳc y sn
xut nụng, lõm, ng nghip v thu sn phỏt trin theo hng sn xut hng
hoỏ gn vi th trng.
Bờn cnh nhng thnh tu trờn, hin nay kinh t trang tri nc ta
ang gp phi mt s khú khn ch yu l: Phn ln ch trang tri cha c
cp s nờn cha yờn tõm u t sn xut; thiu vn sn xut; th trng v
giỏ c nụng sn vn cha ng b v cha thc s khuyn khớch cỏc ch trang
tri u t m rng sn xut kinh doanh.

2.2.3. iu kin t nhiờn, kinh t xó hi ca huyn Phự Ninh cú liờn quan
n sn xut nụng nghip v mụ hỡnh kinh t trang tri
2.2.3.1 iu kin t nhiờn
* V trớ a lý
Phù Ninh là một huyện miền núi đợc tái lập tháng 9/1999, nằm ở phía
Đông bắc của tỉnh Phú Thọ, có toạ độ từ 21
0
15 - 21
0
33 độ vĩ bắc, 105
0
13 -
105
0
24 độ kinh đông.
Có vị trí rỏp ranh:
- Phía Bắc giáp huyện Đoan Hùng.
- Phía Nam giáp thành phố Việt Trì và huyện Lâm Thao.
- Phía Tây giáp thị xã Phú Thọ và huyện Thanh Ba.
- Phía Đông giáp huyện Lập Thạch - tỉnh Vĩnh Phúc.
Huyn Phự Ninh cú huyn l l th trn Phong Chõu v bao gm 18 xó
(Trm Thn, Tiờn Phỳ, Liờn Hoa, Vnh Phỳ, Trung Giỏp, Bo Thanh, Tr
Qun, H Giỏp, Gia Thanh, Phỳ Nham, Tiờn Du, Phự Ninh, An o, T ,
Bỡnh B, Phỳ M, L M) vi tng din tớch t t nhiờn l 16.724,05 ha v
dõn s l 110.660 ngi (thỏng 1/2013).
18
* a hỡnh
Huyện Phù Ninh trải dài theo dòng sông Lô về phía Đông bắc, địa hình
của huyện phức tạp, có địa hình dốc, bậc thang và lòng chảo, tạo cho huyện có
hệ thống núi thấp, đồi bát úp, có vùng bán địa, hình thành những sờn đồi,

ruộng bậc thang, có vùng đồng bằng và hồ đầm.
Địa hình của Phù Ninh đợc phân thành 6 cấp độ dốc:
- Cấp I (dới 3
0
), diện tích 6.559,17 ha, chiếm 39,22% tổng diện tích.
- Cấp II (từ 3
0
- 8
0
), diện tích 1.072,01 ha, chiếm 6,41% tổng diện tích.
- Cấp III (từ 8
0
- 15
0
), diện tích 3.846,53 ha, chiếm 23% tổng diện tích.
- Cấp IV (từ 15
0
- 20
0
), diện tích 4.348,25 ha, chiếm 26% tổng diện tích.
- Cấp V (từ 20
0
- 25
0
), diện tích 667,29 ha, chiếm 3,99% tổng diện tích.
- Cấp VI (trên 25
0
), diện tích 230,79 ha, chiếm 1,38% tổng diện tích.
Từ những phân tích trên cho thấy địa hình Phù Ninh tuy phong phú đa
dạng nhng ít phức tạp, độ cao trung bình không lớn (không quá 50 - 60 m).

Địa hình ít phức tạp rất thuận lợi trong việc sử dụng đất vào sản xuất nông,
lâm nghiệp, thuận lợi cho việc bố trí quy hoạch, xây dựng các công trình công
cộng nh: giao thông, thuỷ lợi.
* Khớ hu
Phù Ninh nằm ở vùng núi phía bắc Việt Nam nên mang đặc điểm chung
của khí hậu miền Bắc Việt Nam là nhiệt đới gió mùa, một năm chia làm 2
mùa rõ rệt là mùa nóng và mùa lạnh.
Mùa nóng bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 10. Đặc điểm của
mùa này là nhiệt độ cao, gió thịnh hành là gió Đông nam và ma nhiều. Mùa
nóng có nhiệt độ trung bình ngày là 26,87
0
C, lợng ma trung bình tháng là
197,7 mm, số ngày ma trung bình là 12,3 ngày/tháng, số giờ nắng trung bình
là 4,22 giờ/ngày, tổng tích ôn toàn mùa là 5.752,5
0
C.
Mùa lạnh bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc trong tháng 3 của năm sau.
Mùa lạnh có nhiệt độ trung bình là 19
0
C, lợng ma trung bình tháng là 66,2
19
mm, số ngày ma trung bình là 7,8 ngày/tháng, số giờ nắng trung bình là 1,62
giờ/ngày, tổng tích ôn toàn mùa là 2.873,3
0
C. Nhiệt độ trung bình ngày là
23,6
0
C, lợng ma hàng năm là 1715 mm, độ ẩm trung bình là 85,5%, tổng tích
ôn trong năm là 8.625,8
0

C.
* Ch thy vn
Địa phận huyện Phù Ninh có sông Lô chảy qua, tổng chiều dài phần
sông chảy qua là 32 km. Theo kết quả tính toán lợng nớc sông Lô chảy qua
huyện Phù Ninh hàng năm là khá lớn. Trong các tháng mùa ma, lu lợng dòng
chảy trung bình khoảng 1.647 m
3
/giây, trong các tháng mùa khô lu lợng dòng
chảy trung bình khoảng 520 m
3
/giây.
2.2.3.2.iu kin kinh t - xó hi
* Tỡnh hỡnh t ai
Trong sản xuất nông nghiệp đất đai vừa là đối tợng sản xuất và là t liệu
sản xuất chủ yếu. Do đó việc khai thác và sử dụng tài nguyên này đòi hỏi phải
hợp lý trên cơ sở bảo vệ và cải tạo rất cần đợc quan tâm.
+ Tỡnh hỡnh s dng t: C cu t ca huyn Phự Ninh thay i qua
cỏc nm theo s phỏt trin kinh t ca huyn.
Với tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 16.724,05 ha. Trong đó, diện
tích đất nông nghiệp chiếm một tỷ lệ cao, năm 2013 là 12.181,07 ha (chiếm
72,84% tổng diện tích). Diện tích đất nông nghiệp giảm dần qua 3 năm là
120,52 ha (bình quân qua 3 năm giảm là 0,49%). Trong ú, din tớch t sn
xut nụng nghip v t lõm nghiệp giảm là: 34,62 ha và103,64 ha (tơng ứng
BQ qua 3 năm giảm là 0,2% và 1,56%), diện tích đất nuôi trồng thuỷ sản tăng
qua 3 năm là 17,74 ha tơng ứng tăng là 6,77%.
Diện tích đất phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ hơn với diện tích năm
2005 là 3.764,53 ha, chiếm 22,51% tổng diện tích. Qua 3 năm diện tích đất phi
nông nghiệp tăng 81,96 ha (BQ qua 3 năm tăng là 1,67%). Diện tích đất phi
20

×