Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

luận văn Niên luận Vấn đề Bình đẳng giới trên báo Phụ nữ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.47 KB, 74 trang )

Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới và phát triển đất nước ta bắt đầu từ năm 1986, từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, tính đến nay đã gần 30
năm. Đây là một bước nhảy vọt về tư duy lý luận của Đảng ta, chấm dứt
một thời kỳ dài nếp tư duy cũ gắn liền chế độ bao cấp, khởi nguồn cho sự ra
đời và phát triển của tư duy mới đúng quy luật, đầy sáng tạo. Trong đó, đổi
mới về kinh tế được coi là trọng tâm, là khâu đột phá để từng bước đổi mới
hệ thống chính trị. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế kế hoạch hoá, vận
hành theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp từng bước chuyển sang nền
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước và định hướng XHCN. Điều đó đã mang lại nhiều thành tựu quan
trọng trong phát triển KT-XH ổn định, liên tục trong những thập kỷ qua,
từng bước đưa Việt Nam phát triển và hội nhập với thế giới. Song song
với quá trình này, nền HCNN cũng có những bước thay đổi. CCHCNN
được đặt ra như một yêu cầu khách quan của thực tiễn, của quy luật sự phù
hợp giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng.
CCHCNN được xác định là một bộ phận quan trọng trong đường lối
của Đảng và Nhà nước, là nội dung cơ bản, nhiệm vụ trọng tâm trong đổi
mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
XHCN. Trong những năm qua dù có những khó khăn và tồn tại nhất định
song CCHC đã góp phần đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo tốc độ tăng
trưởng kinh tế, giữ vững và ổn định chính trị, tăng cường khả năng hội
nhập quốc tế của đất nước và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, nhất là khi Việt Nam tham gia vào WTO
(Tổ chức Thương mại thế giới), yêu cầu CCHC càng trở nên cấp thiết và
trở thành nhiệm vụ đặc biệt quan trọng nhằm xây dựng một nền hành
chính trong sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực, từng bước hiện
đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của nhà nước, thúc
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN


1
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống
nhân dân và các đường lối, chủ trương mở rộng giao lưu, hợp tác với các
quốc gia trên thế giới.
CCHC là một nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng của Đảng và
Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, lại diễn ra
trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về QLHCNN trong thời kỳ
mới, có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tòi rút kinh nghiệm. Thực hiện
nhiệm vụ CCHC không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước mà
đòi hỏi cần có sự đồng tình, tham gia tích cực của mọi cá nhân, tổ chức, cơ
quan và toàn xã hội, trong đó không thể không kể đến sự tham gia của hệ
thống các cơ quan báo chí và đội ngũ những nhà báo có năng lực. Tham
gia vào công cuộc CCHC, báo chí cả nước đều chung tay góp sức, bám sát
đời sống xã hội, thông tin nhanh chóng các tin tức sự kiện, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước tới quần chúng, góp phần củng cố, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tôi xin lựa chọn báo TPO và tạp chí QLNN làm đối tượng để khảo
sát về vai trò của báo chí trong công cuộc CCHC ở nước ta. Là một tờ báo
mạng, tin tức cập nhật từng giờ, TPO sẽ cho chúng ta những thông tin thời
sự nhất phản ánh chân thực hoạt động CCHC đang diễn; Song hành với đó
là những lý luận, là những chính sách, những giải pháp vĩ mô hay những
bài học kinh nghiệm để thực hiện cuộc CCHC đã được đề cập đến trong
tạp chí QLNN. Qua đó đưa ra một bức tranh toàn cảnh cả về chiều rộng và
chiều sâu của công cuộc CCHC để độc giả, đặc biệt là những nhà nghiên
cứu về khoa học quản lý có cái nhìn sát thực hơn và nhận thức đúng đắn
hơn về nhiệm vụ đặc biệt mà chúng ta đang thực hiện.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề của CCHC
được tuyên truyền, phổ biến, phản ánh trên báo TPO và tạp chí QLNN.

Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
2
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
- Phạm vi nghiên cứu: Do hạn chế về thời gian nên đề tài chỉ tập
trung tìm hiểu làm rõ vai trò và sự tham gia của báo TPO và Tạp chí
QLNN trong công tác CCHC chung của đất nước trong khoảng thời gian
từ tháng 1/2009 đến tháng 5/2010.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề CCHC trên TPO và tạp chí QLNN nhằm
mục đích:
- Góp phần làm sáng tỏ vai trò của báo chí trong hoạt động tuyên
truyền, phổ biến, trao đổi kinh nghiệm lý luận và thực tiễn về hoạt động
CCHC, cụ thể là qua báo TPO và tạp chí QLNN;
- Tìm hiểu những đóng góp của báo chí trong quá trình thực hiện
CCHC ở nước ta trong những năm qua.
- Thông qua quá trình nghiên cứu, người viết muốn đóng góp một vài
kiến nghị, đề xuất các giải pháp góp phần gợi mở hướng giải quyết những
vấn đề khó khăn đang đặt trong công tác tuyên truyền, phản ánh CCHC trên
báo chí, truyền thông, cụ thể là trên báo TPO và tạp chí QLNN.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về vai trò của báo chí, đặc biệt
trong công tác tuyên truyền, phản ánh công cuộc CCHC.
- Chỉ ra thực trạng CCHC và các hình thức phản ánh, thông tin về
vấn đề CCHC trên báo TPO và tạp chí QLNN.
- Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
thông tin tuyên tuyền về CCHC trên báo chí nói chung, và trên báo TPO
và tạp chí QLNN nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, dựa trên học thuyết Mác - Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà

nước về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; lý luận về vai
trò của báo chí với sự phát triển của xã hội.
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
3
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
Khoá luận còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như:
- Phương pháp phân tích tổng hợp;
- Phương pháp so sánh, khái quát hóa;
- Phương pháp thống kê.
6. Lịch sử nghiên cứu
Báo chí có vai trò rất quan trọng đối với công cuộc CCHC ở nước
ta, song cho tới nay tại khoa Khoa Báo chí và Truyền thông (Trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn) vẫn chưa có tác giả nào tiến hành
nghiên cứu về vấn đề này.
Nhận thức được sự cần thiết và tính cấp bách của vấn đề, tác giả đã
mạnh dạn tiên phong nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tế
vai trò của báo chí, truyền thông trong quá trình thực hiện công cuộc
CCHC ở nước ta hiện nay. Là đề tài mới và tương đối khó, trong phạm vi
của một khoá luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế trong
quá trình nghiên cứu nhưng tôi hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào
việc nâng cao chất lượng truyền thông về công cuộc CCHC ở nước ta
trong thời gian tới.
7. Kết cấu của khoá luận
Tên khoá luận: “Vai trò của báo chí trong công cuộc cải cách
hành chính ở Việt Nam hiện nay”.
Kết cấu khoá luận: Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu khoá
luận tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Tầm quan trọng của cải cách hành chính và vai trò của
báo chí – truyền thông trong cải cách hành chính;
Chương 2: Khảo sát vấn đề cải cách hành chính trên báo Tiền

phong Online và tạp chí Quản lý nhà nước;
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng
truyền thông cải cách hành chính trên Tiền phong Online và tạp chí Quản
lý nhà nước.
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
4
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
Chương 1:
TẦM QUAN TRỌNG CỦA CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ
VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Đây là chương tác giả tập trung làm rõ hệ thống các khái niệm,
những vấn đề lý luận chung nhất về CCHC và vai trò của báo chí đối với
việc tuyên truyền, phản ánh các nội dung của CCHC để có một cái nhìn
bao quát nhất về vấn đề.
1.1. Một số khái niệm cơ bản của CCHC
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (năm
1991) Đảng ta đã nhấn mạnh cần xây dựng một hệ thống hành chính và
QLHCNN thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả. Chính quan
điểm chỉ đạo đó đã tạo tiền đề cho hàng loạt các chủ trương, chính sách
mới được thực hiện nhằm cải tổ lại nền HCNN Việt Nam trong những
năm qua.
“Hành chính” là một thuật ngữ của Khoa học Hành chính và đến
nay vẫn chưa có một khái niệm đồng nhất. Trên thực tế, thuật ngữ này
xuất hiện trong cả khu vực công và khu vực tư.
Hành chính theo nghĩa rộng được hiểu “là những biện pháp tổ chức
và điều hành của các tổ chức, các nhóm, các đoàn thể hợp tác trong hoạt
động của mình để đạt được mục tiêu chung”
1
.
Hành chính còn được hiểu theo nghĩa hẹp “là hoạt động quản lý các

công việc của nhà nước, xuất hiện cùng với nhà nước”
2
. Song trên thực tế,
không chỉ có hành chính của nhà nước mà còn có hành chính ở khu vực
ngoài nhà nước, hành chính của các tổ chức phi Chính phủ. Do đó xuất
1
Đoàn Trọng Truyến (Chủ biên): Hành chính học đại cương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997,
tr.7.
2
Đoàn Trọng Truyến (Chủ biên): Hành chính học đại cương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997,
tr.9.
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
5
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
hiện các khái niệm “hành chính công” và “hành chính tư”. Khoa học hành
chính là một ngành khoa học còn non trẻ và khá mới mẻ ở Việt Nam nên
khái niệm hành chính thường được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là hành chính
của nhà nước – nền HCNN hay còn gọi là hành chính công.
Nền HCNN là hệ thống tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
mà cụ thể là bộ máy hành pháp thực thi các nhiệm vụ, chính sách do cơ
quan quyền lực nhà nước và các nhà cầm quyền đề ra. Do đó, HCNN chủ
yếu bao trùm lên các hoạt động hàng ngày của Chính phủ và bộ máy
HCNN từ TW đến Địa phương dưới sự quản lý thống nhất của Chính phủ
để tiến hành các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối
quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thoả mãn các nhu cầu hợp pháp của
công dân.
Nền HCNN bao gồm các yếu tố: Thể chế hành chính, tổ chức bộ
máy hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức và tài chính công.
Hình 1: Các yếu tố cấu thành nền HCNN
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN

Đội ngũ cán
bộ, công chức
Bộ máy
hành chính
Tài chính
công
6
Hệ thống thể
chế hành chính
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
“Cải cách” được hiểu một cách chung nhất là việc sửa đổi cho hợp lí,
cho phù hợp với tình hình mới. CCHC là một khái niệm chưa có sự thống
nhất chung của các học giả nghiên cứu về hành chính.
Theo nghĩa rộng nhất, “CCHC là những thay đổi được thiết kế có chủ
định nhằm cải tiến một cách cơ bản các khâu trong hoạt động quản lý của bộ
máy Nhà nước: Lập kế hoạch, định thể chế, tổ chức, công tác cán bộ, tài
chính, chỉ huy, phối hợp, kiểm tra, thông tin và đánh giá”
1
.
Theo nghĩa hẹp, “CCHC là một quá trình thay đổi nhằm nâng cao
hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương pháp
hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong lĩnh
vực quản lý của bộ máy HCNN”
2
.
Ở nước ta, CCHC được hiểu theo nghĩa hẹp, tức là cải cách bộ máy
hành chính, chức năng và phương thức quản lý của nền hành chính, chế độ
công vụ, sự phân chia quyền lực hành pháp giữa Trung ương và Địa
phương, những nguyên tắc hành chính trọng yếu và phương thức hoạt động
của nền hành chính phục vụ tốt nhất đời sống nhân dân và sự phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về CCHC
Ngay trong Đại hội VI (1986), Đảng ta đã xác định nguyên nhân
của mọi nguyên nhân dẫn đến tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội lúc
bấy giờ là do công tác tổ chức và đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải
cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Đây chính là cơ sở đầu
tiên để Đảng và Nhà nước ta thực hiện một cuộc cải cách lớn và căn bản
về tổ chức và hoạt động của bộ máy HCNN.
Quan điểm về cải cách nền HCNN đã được thể hiện nhất quán trong
các văn kiện Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và IX và trong
1
Đoàn Trọng Truyến (Chủ biên): Hành chính học đại cương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997,
tr.256.
2
Đoàn Trọng Truyến (Chủ biên): Hành chính học đại cương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997,
tr.257.
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
7
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 2 và 8 (khóa VII), 3 và 7 (khóa
VIII), 6 và 9 (khóa IX). Tuy nhiên, trong Đại hội VI, thuật ngữ “Cải cách
hành chính nhà nước” vẫn chưa xuất hiện, Đảng ta mới xác định nhiệm
vụ chính trị của công cuộc đổi mới đất nước trước hết là phải tiến hành cải
cách bộ máy nhà nước.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và Chiến
lược ổn định, phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 được Đại hội VII
thông qua đã khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền HCNN của
Đảng ta. Cương lĩnh đã nêu: Về nhà nước,“phải có đủ quyền lực và có đủ
khả năng định ra luật pháp về tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng
pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính,

kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý
của Nhà nước”. Chiến lược cũng nêu trọng tâm của cải cách là nhằm vào hệ
thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành chính
thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu lực.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta luôn xác định “Cải cách một bước
nền HCNN được xác định là trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước…” (Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khoá VII). Do đó,
CCHC luôn được đặt trong đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà
nước nói chung. CCHC phải được thực hiện đồng thời với cải cách về lập
pháp và cải cách về tư pháp, trong đó cải cách nền hành chính được coi là
cuộc cải cách trọng tâm.
Ngoài ra, Đảng cũng chỉ rõ CCHC phải thúc đẩy đổi mới kinh tế,
phát triển kinh tế - xã hội. Công cuộc đổi mới được xác định là toàn diện,
trong đó đổi mới kinh tế được coi là khởi đầu và là khâu đột phá. Nếu
không tiến hành CCHC thì bộ máy nhà nước sẽ trở thành lực cản cho công
cuộc đổi mới kinh tế. Đảng ta đã xác định phải kết hợp chặt chẽ đổi mới
kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị và CCHC phải phục vụ
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
8
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
cho phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, Nghị quyết TW 6, khoá X,
Đảng ta đã xây dựng 5 giải pháp phát triển kinh tế xã hội, trong đó đẩy
mạnh CCHC được coi là giải pháp quan trọng, là khâu đột phá.
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo CCHC, Nhà nước ta từng bước hiện
thực hoá chủ trương, đường lối của Đảng vào đời sống. Phải kể đến đầu
tiên là việc Quốc hội thông qua bản Hiến pháp mới thay thế cho Hiến pháp
năm 1980. Hiến pháp 1992 đã xác định rõ hơn: Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội, là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; từng bước xây dựng và thực hiện

một cơ chế QLNN thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở
tất cả các cấp; tăng cường bộ máy nhà nước từ TW đến Địa phương và cơ
sở hình thành một hệ thống, có sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ; phân biệt
chức năng QLHC – kinh tế với quản lý sản xuất – kinh doanh; kết hợp
quản lý theo ngành, theo địa phương và lãnh thổ, phù hợp với đặc điểm
tình hình kinh tế - xã hội. Kết quả là bộ máy nhà nước từng bước chuyển
sang thực hiện các chức năng QLNN và tổ chức bộ máy nhà nước được
sắp lại theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối.
Để cụ thể hoá CCHC, Chính phủ đã ban hành một loạt các văn bản
quy phạm pháp luật như: Nghị quyết số 38/1994/NQ-CP ngày 04/5/1994
của Chính phủ về cải cách một bước TTHC trong việc giải quyết công việc
của công dân và tổ chức; Quyết định số 136/2001/QĐ – TTg ngày
17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình Tổng
thể CCHC nhà nước giai đoạn 2001-2010; Quyết định số 181/2003/QĐ –
TTg ngày 04/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế
thực hiện “một cửa” tại CQHCNN ở địa phương… Và mới đây nhất Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 10/01/2007
phê duyệt Đề án Đơn giản hoá TTHC trên các lĩnh vực QLNN giai đoạn
2007-2010 (gọi tắt là Đề án 30) và Quyết định số 07/QĐ-TTg ngày
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
9
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
04/01/2008 ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án 30, đưa ra một hệ thống
giải pháp tổng thể, công khai, minh bạch nhằm thống kê, rà soát, đơn giản
hoá TTHC…
CCHC là một vấn đề chủ yếu đang được nhiều quốc gia quan tâm.
Dù ở chế độ chính trị nào, tư bản chủ nghĩa hay XHCN, CCHC cũng được
tiến hành nhằm củng cố bộ máy của chế độ hiện hành, giữ vững chế độ
chính trị - xã hội và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự quan tâm và

chỉ đạo đúng đắn của Đảng cầm quyền là điều kiện tiên quyết để định
hướng cho cuộc cải cách đạt được mục tiêu chính trị đã đặt ra.
1.3. Thực trạng CCHC ở nước ta thời gian qua
CCHC có vai trò đặc biệt quan trọng trong xã hội, là một biện pháp
để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là quá trình
thực hiện Chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2001 – 2010 CCHC đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ phát triển và ổn định kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và
trật tự xã hội. Trong những năm qua, CCHC đã đạt được những kết quả
quan trọng sau:
- Chức năng và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính
từ Chính phủ, các Bộ, ngành TW đến UBND các cấp đã có nhiều thay đổi
tiến bộ, tập trung nhiều hơn vào QLNN;
- Từng bước đổi mới thể chế hành chính trên các lĩnh vực, phù hợp
với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mô hình “Một cửa, một
dấu”, “Một cửa liên thông” được triển khai rộng rãi và có hiệu quả ở hầu
hết các cấp hành chính trong cả nước. Đặc biệt, với việc thực hiện Đề án 30
(Đơn giản hoá TTHC trên các lĩnh vực QLNN giai đoạn 2007-2010) hệ
thống TTHC được rà soát và ngày càng đơn giản hoá, mẫu thức hoá thống
nhất trong phạm vi cả nước. Tháng 10/2009, Thủ tướng Chính phủ đã công
bố Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC tại 4 cấp chính quyền và công khai
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
10
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
trên mạng Internet. Người dân và doanh nghiệp có thể tra cứu. Bộ cơ sở dữ
liệu quốc gia về TTHC trên Website: www.thutuchanhchinh.vn.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ và CQHC các cấp được sắp
xếp, điều chỉnh, tinh giản hơn, hợp lý hơn và bộ máy hành chính từ TW
đến cơ sở vận hành ngày càng hiệu quả hơn.
- Việc quản lý, sử dụng CBCC được đổi mới theo các quy định của

Luật CBCC từ khâu tuyển chọn, đánh giá, thi nâng ngạch, khen thưởng,
kỷ luật đến đào tạo, bồi dưỡng. Chế độ, chính sách tiền lương bước đầu
được cải cách theo hướng tiền tệ hoá.
- Trong lĩnh vực tài chính công, Chính phủ cũng ban hành một loạt
các cơ chế tài chính từng bước xoá bỏ tình trạng “hành chính hoá” các hoạt
động sự nghiệp, tạo điều kiện để các đơn vị sự nghiệp tự hạch toán, không
bị áp lực về biên chế, tự tạo mức định biên hợp lý cho cơ quan mình.
Tuy nhiên, nền HCNN còn mang nặng dấu ấn của cơ chế quản lý
tập trung, quan liêu bao cấp, chưa đáp ứng được những yêu cầu của cơ chế
quản lý mới, cũng như yêu cầu phục vụ nhân dân trong điều kiện mới,
hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao. Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều
tầng nấc; Hệ thống thể chế hành chính chưa đồng bộ, còn chồng chéo và
thiếu thống nhất, TTHC trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự,
kỷ cương chưa nghiêm. Trong khi đó, một bộ phận CBCC còn nhiều yếu
kém về năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính, tác phong làm việc
chậm đổi mới, tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn
ra nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến uy tín của đội ngũ CBCC nói chung…
Năm 2007 được Chính phủ xác định là năm CCHC, lấy CCHC làm
khâu đột phá để tăng trưởng, phát triển kinh tế. Ðến nay, đã được triển khai
đồng bộ trên 4 lĩnh vực chủ yếu: thể chế; tổ chức bộ máy; xây dựng, phát
triển đội ngũ CBCC; và cải cách tài chính công, từng bước đổi mới tổ chức
và phương thức hoạt động của bộ máy hành chính, hỗ trợ tích cực và thúc
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
11
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
đẩy quá trình cải cách, đổi mới toàn diện của đất nước. Từ những thành tựu
đã đạt được cũng như những hạn chế cần phải khắc phục, CCHC ở nước ta
rất cần phải được quan tâm thực hiện một cách triệt để hơn nữa để CCHC
thực sự là khâu đột phá trong quá trình xây dựng và đổi mới đất nước.
1.4. Vai trò, mục tiêu và nội dung CCHC

 Vai trò của CCHC
CCHC luôn được Đảng và Nhà nước ta nhấn mạnh là nhiệm vụ
trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước. Vai trò và
tầm quan trọng của CCHC được thể hiện ở một số luận điểm sau:
CCHC giúp giải quyết công việc của công dân và tổ chức được diễn
ra thuận lợi hơn.
CCHC cũng là "đầu ra" của các cuộc cải cách khác, như cải cách
kinh tế, cải cách tư pháp, kể cả cải cách chính trị, trong cuộc đổi mới toàn
diện đang tiến triển.
Thông qua hệ thống cải cách về chính sách lương, các hoạt động
khen thưởng, kỷ luật, chính sách đào tạo, bồi dưỡng CBCC… góp phần
làm trong sạch đội ngũ CBCC và nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ
“công bộc” của dân.
CCHC còn góp phần tinh giảm và sắp xếp lại bộ máy nhà nước hợp
lý hơn và nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy HCNN.
Nhìn chung, CCHC có vai trò rất quan trọng trong ổn định và phát
triển đất nước. Có thể tóm lược vai trò đó như sau: CCHC góp phần nâng
cao hiệu quả, hiệu lực quản lý của nhà nước, giữ vững ổn định chính trị và
phát triển KT - XH, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội công
dân, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
 Mục tiêu và nội dung của công cuộc CCHC
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
12
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
Ngay từ những ngày đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước,
Đảng và Nhà nước ta đã xác định rất rõ mục tiêu của CCHC là “xây dựng
một nền hành chính trong sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực
và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc
của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ
đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật

trong xã hội” (Nghị quyết TW 8 - Khoá VII). Và cũng trong Đại hội VII,
các nội dung của CCHC lần đầu tiên được đề cập đến một cách hệ thống
bao gồm 3 nội dung chính là cải cách thể chế của nền hành chính, chấn
chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ CBCC.
Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX (tháng 4/2001)
bên cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước
“dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá”, Đảng đã đưa
ra một loạt chủ trương, giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong CCHC thời
gian tới như: điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của
Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân
cấp; tách QLNN với hoạt động sản xuất kinh doanh, tách CQHC công
quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách TTHC; xây
dựng đội ngũ CBCC trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương,
chống quan liêu, tham nhũng.
Để thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Thủ tướng Chính phủ
đã chỉ đạo phải nhanh chóng xây dựng một chương trình CCHC có tính
chiến lược, dài hạn của Chính phủ. Ngày 17/9/2001, Thủ tướng Chính phủ đã
ký Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể
CCHCNN giai đoạn 2001-2010. Chương trình tổng thể đã xác định mục tiêu
CCHC trong thời kỳ mới là: “Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng; xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
13
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống hành
chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền KTTT định
hướng XHCN”. Và nêu 4 nội dung cơ bản của CCHC ở Việt Nam, đó là cải
cách thể chế hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới, nâng

cao chất lượng đội ngũ CBCC và cải cách tài chính công.
1.5. Vai trò của báo chí và truyền thông trong CCHC
Báo chí - truyền thông xuất hiện trong quá trình phát triển của loài
người nhằm đáp ứng nhu cầu giao tiếp, truyền đạt thông tin của con người
trong xã hội. Càng về sau, vị trí, vai trò của báo chí đối với xã hội ngày
càng quan trọng trong việc tạo và định hướng dư luận xã hội dẫn đến sự
thay đổi về nhận thức, hành vi công chúng và trở thành một bộ phận
không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người.
Ở nước ta, vị trí và vai trò của báo chí đặc biệt quan trọng trong
công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Điều này đã được ghi nhận tại
Điều 1, Luật Báo chí năm 1999: “Báo chí nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội;
là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội, là diễn đàn của nhân dân”.
Nhìn chung, báo chí nước ta đã có bước phát triển nhanh chóng,
mạnh mẽ về nhiều mặt: tăng loại hình và số lượng cơ quan báo chí; tăng số
đầu báo, tạp chí, hệ phát thanh, kênh truyền hình, nhà in, ấn phẩm, chương
trình; tăng chất lượng nội dung, hình thức và hiện đại hóa công nghệ in ấn,
truyền tải thông tin; tăng số lượng, phạm vi phát hành, phạm vi phủ sóng;
tăng số lượng nhà báo và đội ngũ những người làm việc trong các cơ quan
báo chí; tăng số lượng công chúng báo chí cả ở trong nước và ngoài nước.
Tính đến tháng 12/2009, cả nước có 706 cơ quan báo chí, gồm: 178
báo in; 528 tạp chí; một hãng thông tấn quốc gia; hai đài phát thanh,
truyền hình quốc gia, một đài truyền hình của ngành, 64 đài phát thanh,
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
14
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
truyền hình tỉnh, thành phố, hơn 600 đài cấp huyện, hàng nghìn trạm
truyền thanh cấp xã; 37 báo điện tử, 160 trang điện tử của các cơ quan báo
chí, hàng nghìn trang thông tin điện tử

Với sự phát triển mạnh mẽ và năng động đó, báo chí nước ta ngày
càng góp phần quan trọng hơn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất
nước. Chính vì thế, sự phát triển và chất lượng của báo chí luôn được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, đẩy mạnh phát triển. Trong
những năm qua, báo chí trực tiếp tham gia vào công tác tuyên truyền, cổ
động và tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, KT-XH, các
sự kiện lịch sử quan trọng, to lớn của đất nước.
Với tư cách là những phương tiện truyền thông đại chúng hoạt động
trên quy mô toàn xã hội, báo chí đã tham gia vào việc tìm tòi, phát hiện
những con đường, phương pháp hợp lý để giải quyết các nhiệm vụ của thực
tiễn; đảm bảo thông tin chính xác, trung thực và kịp thời cho nhân dân về
tất cả các vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội và thế giới xung quanh trên
một phạm vi rộng lớn; đồng thời báo chí cũng tham gia vào việc hình thành
và định hướng dư luận đúng đắn, xây dựng thái độ sống tích cực và nâng
cao ý thức trách nhiệm của các cá nhân trong cộng đồng, xã hội.
Trên thực tế, báo chí cách mạng Việt Nam đã gắn liền với cuộc cách
mạng đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước của nhân dân ta
trong suốt một thế kỷ qua. Ngày nay, báo chí không những giữ vai trò cung
cấp kiến thức thông tin cho công chúng và tạo lập, định hướng, hướng dẫn
dư luận mà còn tham gia vào công tác quản lý và giám sát xã hội, tuyên
truyền sâu rộng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ CNXH ở Việt Nam.
Như đã trình bày ở trên, báo chí - truyền thông đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước, ra đời và phát
triển do nhu cầu thông tin của xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng đó,
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
15
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
trong thời gian qua, báo chí nước ta đã phát huy thế mạnh của mình trong

việc phản ánh sự thay đổi kỳ diệu của Việt Nam sau thời kỳ đổi mới nói
chung và trong CCHC nói riêng.
Báo chí là công cụ để tuyên truyền, phổ biến đường lối của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước về công cuộc CCHC, thông tin đến
công chúng tin tức về hoạt động của các cơ quan nhà nước, thay đổi bộ
máy nhân sự hay chia tách, sáp nhập các đơn vị hành chính lãnh thổ; đăng
tải công báo, các văn bản luật và văn bản pháp quy mới…
Báo chí là cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp và nhà quản lý,
hoạch định chính sách để điều chỉnh những chủ trương, đường lối cho phù
hợp với thực tiễn. Thông qua báo chí, những thông tin quản lý của Nhà
nước sẽ được chuyển tải, định hướng cho các doanh nghiệp thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn hội nhập, các thông tin
QLNN về kinh tế, thông tin về cải cách thể chế hành chính, TTHC có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp, hạn chế tối đa việc vi
phạm pháp luật và tạo điều kiện để các doanh nghiệp giao lưu, hợp tác với
quốc tế. Đồng thời qua đó để phát hiện những bất cập trong quản lý để có
sự điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế hay thông lệ quốc tế.
Báo chí tham gia vào mặt trận đấu tranh chống tham nhũng, chống
tiêu cực trong quá trình QLHCNN, góp phần làm trong sạch đội ngũ
CBCC nhà nước. Chúng ta biết đến rất nhiều bài báo đã lên án, tố cáo
những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức công vụ của một số
CBCC. Tiêu biểu nhất có thể kể đến các bài báo lên án hàng loạt cán bộ,
công chức cấp cao trong vụ án PMU18 hay vụ án chia chác đất đai ở Đồ
Sơn (Hải Phòng) có dính líu đến cả bộ máy lãnh đạo cấp cao của tỉnh như
Phó chủ tịch Thành phố, Giám đốc sở, Chủ tịch quận… cũng được đăng
tải trên hầu hết các mặt báo và mới đây nữa là vụ án ông Nguyễn Trường
Tô – nguyên Chủ tịch tỉnh Hà Giang được báo chí đưa tin tường tận về
quá trình tha hoá đạo đức của một cán bộ lãnh đạo…
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
16

Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
Đặc biệt, báo chí còn là cầu nối giữa Đảng – Nhà nước với nhân dân,
góp phần mở rộng hơn nữa hoạt động giám sát của nhân dân đối với chính
các cơ quan nhà nước. Cũng thông qua báo chí, tình hình thực hiện các
chính sách của Đảng, Nhà nước về CCHC được phản ánh một cách chân
thực, rõ nét và ý kiến người dân được đưa tới các cấp quản lý, lãnh đạo để
có sự điều chỉnh, xây dựng hướng thực hiện một cách có hiệu quả nhất.
Tiểu kết chương 1.
Tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là xây dựng một
nền hành chính trong sạch, có hiệu lực, hiệu quả là một đòi hỏi mang tính
tất yếu khách quan để phát triển KT- XH của nước ta. Để thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ đó, đòi hỏi phải có sự chung sức của toàn xã hội, trong đó,
báo chí là một lực lượng quan trọng đóng vai trò không thể thiếu. Vai trò
tuyên truyền, phản ánh thông tin về công cuộc CCHC ở báo chí cũng cần
được phát huy hơn nữa để báo chí thực sự đúng như lời Chủ tịch Quốc
Hội Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu tại Đại hội Hội Nhà báo Việt Nam
ngày 12/8/2010 vừa qua: "Báo chí với những khả năng và thế mạnh của
mình, phải là một trong những lực lượng quan trọng đi đầu trong việc
thực hiện nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới".
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
17
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
Chương 2:
KHẢO SÁT VẤN ĐỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRÊN
BÁO TIỀN PHONG ONLINE VÀ TẠP CHÍ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Như đã trình bày ở Chương 1, báo chí có vai trò đặc biệt trong việc
tuyên truyền, phản ánh các thông tin về CCHC ở nước ta. Trong Chương 2
này, tác giả sẽ tiến hành khảo sát các nội dung, hình thức, thủ pháp báo chí
được sử dụng trong công tác tuyên truyền, phản ánh thông tin CCHC trên
báo chí, cụ thể là trên tờ TPO và Tạp chí QLNN.

2.1. Vài nét khái quát về TPO và tạp chí QLNN
2.1.1. Báo TPO
Báo TPO được thành lập trên cơ sở tờ Tiền phong báo in – cơ quan
ngôn luận của Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, là tờ
báo cách mạng lâu đời, ra đời và phát triển cùng với cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc cũng như sự nghiệp đổi mới và phát
triển của đất nước. Hiện nay báo Tiền Phong, TPO là một tờ báo rất có uy
tín đối với độc giả Việt Nam với sự phong phú về tin bài, chương mục và
chất lượng bài viết tốt, hấp dẫn độc giả.
Báo TPO được thành lập ngày 16/11/2004, với địa chỉ truy cập:
www.tienphongonline.com.vn. Năm 2006, TPO có thêm địa chỉ truy cập
mới là: www.baotienphong.vn. Từ ngày 01/8/2007, Tiền phong Online thay
đổi địa chỉ truy cập thành: www.Tienphong.vn và đây là địa chỉ truy cập
chính thức của TPO bây giờ. Tuy nhiên, hai địa chỉ truy cập cũ vẫn được
giữ nguyên để cho độc giả tiện theo dõi tin tức trên TPO. Nếu độc giả vào
website: www.baotienphong.vn hoặc www.tienphongonline.com.vn thì
đường link sẽ được dẫn vào trang www.tienphong.vn.
Trong quá trình phát triển, TPO từng bước củng cố và hoàn thiện hơn
về giao diện cũng như hệ thống tin bài tạo nên sức hấp dẫn riêng, cạnh
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
18
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
tranh được với các báo điện tử khác. Theo một thăm dò của công ty
ACNielsen Omnibus (Công ty nghiên cứu thị trường toàn cầu) cuối tháng
1/2007, TPO nằm trong top 10 báo điện tử được truy cập nhiều nhất ở Việt
Nam. Tháng 8/2009, theo khảo sát của Alexa, TPO nằm trong Top 100
website được truy cập nhiều nhất tại Việt Nam. Có 42,1 % người ở Việt
Nam truy cập TPO và bình quân mỗi người dành 6.2 phút mỗi ngày để truy
cập vào TPO.
Giao diện www.tienphong.vn

Là cơ quan ngôn luận của Trung ương Đoàn, ngoài những thông tin
phục vụ nhu cầu thông tin tầng lớp trẻ - những Đoàn viên Đoàn Thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh, TPO còn rất tích cực trong việc thông tin về
mọi mặt của đời sống xã hội đến với độc giả, làm tốt chức năng báo chí
của mình. CCHC cũng là một nội dung quan trọng được đề cập nhiều và
cập nhật nhanh chóng trên TPO giúp công chúng tiếp cận thông tin một
cách nhanh nhất và hiệu quả nhất.
2.1.2. Tạp chí Quản lý nhà nước
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
19
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
Tạp chí Quản lý nhà nước là một tạp chí chuyên ngành về QLNN,
được thành lập ngày 03/3/1993 theo Quyết định số 08/HCQG của Giám đốc
Học viện Hành chính Quốc gia (nay là Học viện Hành chính – Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh); là đơn vị sự nghiệp thuộc
Học viện (theo Quyết định 234/2003/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc
gia).
Là một tạp chí chuyên ngành nên nội dung chủ yếu tạp chí QLNN
đề cập đến là những vấn đề mang tính lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm
trong lĩnh vực QLNN, CCHC. Thông tin những kết quả nghiên cứu khoa
học hành chính, QLNN và phổ biến các kiến thức, công nghệ hành chính.
Về hình thức, tạp chí QLNN được thiết kế trên khuôn khổ nhỏ, gọn, kích
thước 19x27 cm với dung lượng từ 60 – 82 trang. Tạp chí được xuất bản
theo tháng (1 số/tháng), một năm có 12 số và số lượng xuất bản từ 1.600 –
2.000 bản/kỳ.
Thông tin được chuyển tải trong tạp chí chủ yếu là thông tin phục
vụ cho công tác quản lý nhà nước, đáp ứng được nhu cầu thông tin lý luận
và thực tiễn cho các nhà nghiên cứu về khoa học quản lý cũng như các nhà
quản lý, lãnh đạo nhà nước ở tầm vĩ mô.

2.2. Nội dung chuyển tải thông tin về CCHC trên báo TPO và
Tạp chí QLNN
2.2.1. Số lượng tin bài trên hai tờ báo, tạp chí
Nội dung công cuộc CCHC được thể hiện rất phong phú và đa dạng
trên báo chí, sau đây tôi xin tóm lược một số nội dung chủ yếu được đề
cập đến trên báo TPO và tạp chí QLNN trong thời gian từ 01/01/2009 –
5/2010. Đây là thời điểm Chương trình Tổng thể CCHC giai đoạn 2001 –
2010 đang đi vào giai đoạn tổng kết quá trình thực hiện.
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
20
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
Bằng phương pháp thống kê và phương pháp tổng hợp, trong thời
gian từ 01/01/2009 – 31/05/2010, có 17 số tạp chí QLNN (từ số 156 đến
số 173). Riêng TPO, website hoạt động thường xuyên ở tất cả các ngày
trong tuần, tin tức được cập nhật liên tục từng giờ trong ngày với hơn 500
ngày đưa tin. Sau đây là bảng khảo sát số lượng tin, bài CCHC được đăng
tải trên TPO và Tạp chí QLNN.
Bảng 2.1. Số lượng tin, bài về CCHC đăng trên báo TPO và tạp
chí QLNN, thời gian từ 1/2009 – 5/2010.
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
Báo,
Tạp chí
TPO
Tạp chí
QLNN TPO
Tạp chí
QLNN
Tháng 1 22 6 22 6
Tháng 2 24 5 12 2
Tháng 3 18 3 15 6

Tháng 4 20 5 22 6
Tháng 5 27 3 25 7
Tháng 6 25 2 0 0
Tháng 7 34 5 0 0
Tháng 8 37 6 0 0
Tháng 9 19 2 0 0
Tháng 10 25 4 0 0
Tháng 11 22 6 0 0
Tháng 12 32 2 0 0
Tổng 306 49 96 27
Tổng số: 478
21
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
Qua bảng thống kê cho thấy, số lượng tin, bài về CCHC của TPO
qua các tháng nhiều hơn so với Tạp chí QLNN. Điều này cũng dễ hiểu khi
TPO là một trang báo điện tử, tin tức cập nhật liên tục, hoạt động thường
xuyên 7 ngày/tuần, trong khi đó Tạp chí QLNN chỉ xuất bản định kỳ 1
số/tháng. Chính vì thế, dung lượng thông tin và mức độ thời sự của thông
tin trên TPO cũng đa dạng và cập nhật hơn so với Tạp chí QLNN.
Bảng 2.2. Số lượng tin, bài về CCHC theo nội dung phản ánh trên
báo TPO và Tạp chí QLNN, thời gian từ tháng 1/2009 – 5/2010.
Tin bài về CCHC trên báo TPO không nhiều, phổ biến là các thông
tin về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; phản ánh
những kết quả, những bất cập trong quá trình thực hiện CCHC mà tiêu
biểu là các bài viết về tiêu cực trong đội ngũ CBCC – một bộ phận quan
trọng cấu thành nên bộ máy HCNN. Đây là những thông tin chiếm số
lượng lớn trong các bài viết về CCHC và được thể hiện phong phú, đa
dạng với nhiều hình thức như tin, bài phản ánh, bài điều tra, bài bình
luận… Những tin, bài này từng bước đáp ứng được nhu cầu thông tin để
người dân biết được các hoạt động CCHC mà chúng ta đã và đang tiến

Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
Báo, Tạp
chí
Tổng Thông tin
tuyên
truyền
đường lối
Điển
hình
trong
CCHC
Thực
trạng
CBCC
Bài học
kinh
nghiệm
Thông
tin
CCHC
khác
TPO 412 123 76 130 65 18
Tỷ lệ
(%)
100 29,9 18,4 31,5 15,8 4,4
QLNN 76 13 10 12 23 18
Tỷ lệ
(%)
100 17,1 13,2 15,8 30,2 23,7
22

Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
hành. Đồng thời qua việc phanh phui các sai phạm của một bộ phận
CBCC nhà nước góp phần giúp các cơ quan pháp luật kịp thời xử lý, làm
rõ sự việc; giải toả những bất bình của người dân và dùng dư luận xã hội
làm trong sạch bộ máy QLHCNN.
Thông tin CCHC trên Tạp chí QLNN được thể hiện ở các bài phân
tích mà tác giả đa phần các nhà quản lý cấp cao. Những bài viết thường
mang tính nghiên cứu, trao đổi, lý luận mà đối tượng hướng đến là các nhà
quản lý cấp cao, các nhà hoạch định chính sách. Nội dung các bài viết tập
trung làm rõ những vấn đề lý luận về CCHC, dạng này chiếm khoảng gần
24% tổng số bài viết về CCHC; Tiếp đến là phân tích các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và thực tiễn thực hiện CCHC ở
nước ta; Giới thiệu những mô hình thực hiện CCHC hiệu quả hay những
kết quả thực hiện CCHC nổi bật ở các địa phương… để từ đó đưa ra hệ
thống các giải pháp chỉ đạo, hướng thực hiện mang tính vĩ mô, bao quát.
2.2.2. Thông tin tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về CCHC
Với vai trò là “cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, Nhà nước”,
báo chí có chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ
biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
về CCHC đến với người dân. TPO và Tạp chí QLNN cũng là một trong
những loại hình báo chí tham gia một cách tích cực vào công tác tuyên
truyền, phổ biến kiến thức về pháp luật hành chính, về các chủ trương,
đường lối, chính sách mới của Đảng, Nhà nước về CCHC.
Thông tin về đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về CCHC
được thể hiện qua việc ban hành và tổ chức thực thi các văn bản pháp luật
mới có liên quan đến những nội dung CCHC như Luật, Nghị định, Thông
tư hướng dẫn thi hành… Với TPO và Tạp chí QLNN, những bài viết này
luôn có số lượng khá lớn, chiếm gần 1/3 tổng số bài viết về CCHC trên mỗi
loại báo và tạp chí. Trên thực tế, là một trang báo điện tử, thông tin đường

Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
23
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước luôn được TPO khai thác
kịp thời, cập nhật một cách nhanh chóng nhất đến với công chúng. Vì thế,
trong thời gian từ tháng 1/2009 – 5/2010, số lượng tin, bài về vấn đề này
được đăng tải trên TPO với số lượng lớn hơn, nội dung phong phú hơn và
nhiều hình thức thể hiện hơn so với Tạp chí QLNN.
Tuyên truyền, phổ biến quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước về CCHC được thể hiện dưới các hình thức như:
- Giới thiệu các chính sách, văn bản pháp luật và các quy định
mới liên quan đến CCHC: Đây là hình thức được sử dụng khá phổ biến
trên cả TPO và Tạp chí QLNN nhằm giới thiệu đến công chúng những nội
dung mới, những vấn đề cơ bản nhất đã được quy định.
Ví dụ: “Nhiều chính sách mới từ hôm nay” (01/01/2009), TPO đã
giới thiệu một số chính sách quan trọng bắt đầu có hiệu lực từ ngày
01/01/2010 như Luật thuế thu nhập cá nhân, người thất nghiệp được trợ
cấp 60% lương, nông dân được miễn thủy lợi phí để người dân kịp thời
nắm bắt thông tin quản lý mới của Nhà nước;
Hoặc: Các bài viết giới thiệu về lộ trình cải cách tiền lương của nước
ta như: “Từ ngày 1/5: Lương tối thiểu là 650.000 đồng/tháng”(TPO, ngày
07/4/2009) giới thiệu về Nghị định 33/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định
mức lương tối thiểu chung, thực hiện từ ngày 1/5/2009 là 650.000
đồng/tháng, các nội dung cơ bản về đối tượng hưởng, mức lương được
hưởng được nêu rõ theo quy định mới để người dân quan tâm có thể tìm
hiểu. Để có cái nhìn đúng về chính sách mới của Chính phủ, cũng trong ngày
hôm đó, TPO đăng bài phỏng vấn PGS.TS Ngô Trí Long, nguyên Viện phó
Viện NCKH Thị trường – giá cả về vấn đề này. Ông Ngô Trí Long đã đưa ra
nhận định: “Việc tăng lương tối thiểu, xét cho cùng chính là tăng cầu, là kích
cầu tiêu dùng, thông qua đó để kích thích sản xuất. Trong bối cảnh kinh tế

và diễn biến giá từ đầu năm đến nay ổn định: tháng 1 tăng 0,13%, tháng 2
tăng hơn 1%, nhưng tháng 3 lại giảm 0,17%, thì tôi cho rằng, việc Chính
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
24
Khoá luận tốt nghiệp - Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXHX&NV
phủ tăng lương thời điểm này là hợp lý”… (Xem thêm: “Tăng lương thời
điểm này là hợp lý”, TPO, ngày 07/4/2009).
Giới thiệu các quy định mới trong văn bản pháp luật và làm rõ những
nội dung cơ bản của quy định đó, phản ánh quan điểm mới của Nhà nước
về vấn đề tổ chức và hoạt động của nền HCNN.
Ví dụ: Bài viết: “Công chức không được làm lãnh đạo tại ngân
hàng thương mại” của tác giả Hà Nhân (TPO, ngày 20/7/2009) giới thiệu
một quy định mới trong Nghị định tổ chức và hoạt động của các ngân
hàng thương mại mới được ban hành. Theo đó, “cán bộ, công chức, cán
bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ theo quy định về pháp luật cán bộ, công
chức; sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp không được nắm các chức vụ kế
toán trưởng, giám đốc sở giao dịch, giám đốc chi nhánh, giám đốc công
ty trực thuộc của ngân hàng”. Hay với bài: “Viên chức được phép làm
kinh doanh” (TPO, ngày 14/4/2009) nêu lên những thông tin mới được
Quốc hội thông qua trong dự thảo Luật Viên chức, trong đó chỉ rõ: “viên
chức được quyền góp vốn, tham gia thành lập (nhưng không được trực
tiếp tham gia điều hành) các loại hình doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp
tư. Viên chức được làm thêm giờ, được ký hợp đồng vụ, việc với các cơ
quan, tổ chức khác”…
- Lồng ghép các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về CCHC trong các bài phản ánh, bài phân tích thực trạng
CCHC đang diễn ra. Cách truyền tải thông tin này rất phổ biến trên TPO,
thể hiện được nội dung chi tiết, cụ thể hơn và hấp dẫn hơn so với một bài
viết chỉ đơn thuần là giới thiệu văn bản mới, chính sách mới. Thông qua
các vụ việc đã xảy ra, đã được phản ánh đề xuất quan điểm xử lý đối với

những vấn đề tương tự xảy ra.
Ví dụ: Nhân sự kiện bà Nguyễn Thị Kim Vân (trú tại 207 Phố Huế,
Hà Nội) phản ánh việc bà bị chủ tịch UBND phường Phố Huế dùng báo
đập vào mặt ngay tại trụ sở UBND phường trước sự chứng kiến của rất
Vũ Minh Nguyệt Lớp BCK50HN
25

×