Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Giải pháp phát triển bền vững đi đôi bảo vệ môi trường không khí tại uông bí quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.3 KB, 73 trang )

MỤC LỤC
Có rất nhiều hình thức ô nhiễm môi trường là: ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, ô nhiễm đất, ô
nhiễm phóng xạ, ô nhiễm sóng… Ô nhiễm không khí chính là một dạng của ô nhiễm môi trường, là một
hình thức ô nhiễm rất phổ biến và có tác hại nghiêm trọng đối với cuộc sống của con người. Trong số
các loại ô nhiễm môi trường thì ô nhiễm không khí là dễ lan truyền nhất, chỉ một lượng nhỏ khí thải
độc hại được thải vào bầu không khí thì sẽ được lan truyền đi rất nhanh, tác hại trở nên rất khó kiểm
soát. Ô nhiễm không khí đặc biệt do tác động xấu của con người trong khai thác tự nhiên cũng đã kéo
theo rất nhiều những tác động nghiêm trọng khác nữa đối với đời sống của chính con người 9
Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế thì các nước đang phát triển ngày
nay đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường diễn ra khá trầm trọng. Thực tế
cho thấy là nhiều nước đang phát triển đã thực sự bị dồn vào thế buộc phải chống lại nạn
ô nhiễm công nghiệp. Các nhà máy đang hoạt động sạch hơn so với 1 thập kỷ trước đây,
và tổng phát thải đang bắt đầu giảm kể cả ở những vùng mà công nghiệp đang tiếp tục
tăng trưởng rất nhanh. Đã bắt đầu có các hoạt động làm sạch môi trường do các nước
đang phát triển cho rằng lợi ích của việc kiểm soát ô nhiễm lớn hơn rất nhiều so với các
chi phí. Sự nhận thức này đã thúc đẩy nhiều nước thông qua các chiến lược đổi mới lôi
kéo sự tham gia của cộng đồng, các nhà đầu tư và các nhà cải cách chính sách kinh tế vào
trận chiến chống lại nạn ô nhiễm môi trường. Về phần mình, những cơ sở gây ô nhiễm
cũng khám phá ra rằng không có chỗ cho họ ẩn nấp nữa và cũng chứng tỏ rằng họ cũng
có thể giảm ô nhiễm một cách nhanh chóng mà vẫn đảm bảo sản xuất có lãi nếu những
người làm quản lý môi trường đưa ra những khích lệ đích đáng. Ô nhiễm công nghiệp vẫn
tiếp tục là một cái giá quá đắt đối với các nước đang phát triển nhưng không có lý do gì
để tiếp tục coi ô nhiễm công nghiệp như là cái giá phải trả cho sự phát triển. Phát triển
bền vững hơn lúc nào hết đã khẳng định trở thành sự lựa chọn chiến lược hết sức đúng
đắn.
Uông Bí là một thị xã nằm ở phía tây của vùng mỏ Quảng Ninh có trữ lượng than
đá rất lớn (690 triệu tấn, chiếm 46% lượng than toàn tỉnh Quảng Ninh). Cũng giống như
nhiều địa phương khác trong tỉnh, cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp năng
lượng than, nhiệt điện thì môi trường Uông Bí đang bị ô nhiễm trầm trọng. Trong đó, ô


nhiễm không khí là hình thức ô nhiễm nổi cộm và có tác động lớn nhất đối với cuộc sống
của người dân nơi đây. Là sinh viên kinh tế, trong thời gian thực tập cuối khoá học được
tiếp xúc với vấn đề rất đáng quan tâm này, em xin được đóng góp cái nhìn và một số ý
kiến của bản thân góp phần thực hiện mục tiêu chống ô nhiễm môi trường không khí để
Uông Bí có thể phát triển nhanh và bền vững tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của
thị xã.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng môi trường và công tác quản lý bảo vệ
môi trường, qua đó đưa ra đánh giá về những mặt đã làm được cũng như những vấn đề
còn hạn chế của công tác môi trường thị xã Uông Bí. Từ đó, đề tài đề xuất một số giải
pháp để chống ô nhiễm môi trường không khí nhằm hiện thực hoá mục tiêu phát triển bền
vững của Uông Bí, đô thị phía tây tỉnh Quảng Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là môi trường không khí thị xã _một bộ phận quan
trọng và còn nhiều yếu kém trong cực môi trường của quá trình phát triển bền vững Uông
Bí. Đối tượng nghiên cứu cụ thể bao gồm: thực trạng môi trường không khí và công tác
bảo vệ môi trường không khí Uông Bí thời gian qua.
Trong phạm vi của đề tài không nghiên cứu tất cả vấn đề môi trường mà chỉ tập
trung vào môi trường không khí, một bộ phận môi trường có tình trạng ô nhiễm nổi cộm
nhất hiện nay tại Uông Bí.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh và phương
pháp thống kê….trên cơ sở lý thuyết đã được học và đặc biệt là thu thập số liệu thống kê
tại cơ quan thực tập bao gồm các bản quy hoạch, báo cáo, Nghị quyết, Nghị định của
Chính Phủ, Bộ kế hoạch & đầu tư, Sở tài nguyên và môi trường Quảng Ninh …
5. Kết cấu của đề tài.
Bố cục đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết của vấn đề chống ô nhiễm môi trường không khí thị xã
Uông Bí.
Chương 2: Thực trạng môi trường không khí, quản lý và bảo vệ môi trường không

khí thị xã Uông Bí.
Chương 3: Một số giải pháp chống ô nhiễm môi trường nhằm mục tiêu phát triển
bền vững thị xã Uông Bí.
CHƯƠNG I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VẤN ĐỀ CHỐNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
KHÔNG KHÍ THỊ XÃ UÔNG BÍ
1.1. Ô nhiễm môi trường không khí với yêu cầu phát triển bền vững
1.1.1. Yêu cầu phát triển bền vững (PTBV)
Phát triển bền vững là một khái niệm được nảy sinh từ sau cuộc khủng hoảng môi
trường và ngày càng trở thành trung tâm của sự phát triển trong mọi lĩnh vực khi xã hội
bước vào thế kỉ 21. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một định nghĩa nào đầy đủ và thống
nhất về PTBV. Theo Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) thì: PTBV
là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn
hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
PTBV bao gồm 3 thành phần chính là: bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền
vững về môi trường.
Yếu tố kinh tế đóng một vai trò không thể thiếu và được nhắc tới đầu tiên trong
PTBV. Đó trước hết là sự phát triển về kinh tế để có thể đảm bảo cho những nhu cầu tối
thiểu của con người. Tuy nhiên cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thế
giới thì PTBV còn đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc
với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn
tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố
mới được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ
tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít trong giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng
như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.
Khía cạnh xã hội của PTBV yêu cầu chú trọng vào sự phát triển công bằng và xã
hội luôn cần tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản
thân. Như vậy, trên khía cạnh xã hội PTBV bao hàm việc cải thiện giáo dục, chăm lo sức
khoẻ cho phụ nữ và trẻ em, chăm lo sức khoẻ cho cộng đồng, tạo ra sự công bằng về
quyền sử dụng ruộng đất, đồng thời xóa dần sự cách biệt về thu nhập cho mọi thành viên
trong cộng đồng xã hội.

Khía cạnh môi trường trong PTBV ngày nay không còn được coi là một vấn đề thứ
yếu như trong một số thập niên của thế kỷ trước nữa. Bền vững môi trường đã trở thành
một đòi hỏi cấp bách và tất yếu khi loài người đã đạt đến một sự phát triển kinh tế và xã
hội nhất định. Cần duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác
những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ
điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất.
Hình1. Mô hình phát triển bền vững
Phát triển bền vững chính là trung tâm, là sự hài hoà của các giá trị kinh tế - xã hội
- môi trường… trong quá trình phát triển. Mỗi mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội hay môi
trường có vị trí riêng song nó được gắn liền với các mục tiêu còn lại. Sự hoà nhập hài hoà
hữu cơ này tạo nên sự phát triển tối ưu cho cả nhu cầu hiện tại và tương lai vì xã hội loài
người.
Trong những năm qua ở nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển khác nhiều
nguồn tài nguyên thiên nhiên đã bị khai thác cạn kiệt, sử dụng lãng phí và kém hiệu quả.
Các nước đang phát triển chiếm ½ diện tích lục địa nhưng lại là nơi sinh sống của ¾ dân
số thế giới, đây cũng là khu vực rất giàu tài nguyên thiên nhiên nhất là tài nguyên khoáng
sản – cơ sở nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng để phát triển công nghiệp. Việc khai thác
và chế biến khoáng sản có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế ở các nước đang
phát triển, đó là nguồn xuất khẩu chủ yếu để thu ngoại tệ. Việc khai thác các mỏ khoảng
sản mà không chú trọng đến các biện pháp bảo vệ môi trường ở hầu hết các nước này đã
làm cho nguồn nước, đất, không khí, sinh vật ở các khu vực có tài nguyên bị phá hoại
trầm trọng.
BỀN VỮNG
KINH TẾ
BỀN VỮNG
MÔI TRƯỜNG
BỀN VỮNG
XÃ HỘI
PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG

Một trong những lý do dẫn đến PTBV trở thành một viễn cảnh “xa vời” của các
nước đang phát triển như Việt Nam là do hệ thống chính sách và công cụ pháp luật chưa
đồng bộ để có thể kết hợp hiệu quả giữa 3 mặt của sự phát triển bền vững: kinh tế - xã hội
và bảo vệ môi trường. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng có thể nói sự
yếu kém về năng lực và hạn chế về kinh nghiệm của bộ máy lập pháp, hành pháp là một
nguyên nhân chủ quan quan trọng. Cần khắc phục nhanh chóng điểm yếu này trong giai
đoạn phát triển tiếp theo nếu các nước đang phát triển không muốn ngày càng gia tăng
khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển.
Phát triển bền vững là một nội dung rất rộng và có tác động toàn diện đến mọi mặt
của đời sống xã hội. Sự quan trọng và phức tạp của nó đòi hỏi tất cả các thành phần kinh
tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục
đích dung hòa ba lĩnh vực của PTBV: kinh tế, xã hội, môi trường. Không một quốc gia
nào có thể đảm bảo sự phát triển bền vững cho riêng mình trong thế cô lập với phần còn
lại của thế giới kể cả các nước phát triển.
Trong một thời kỳ cụ thể, người ta có thể ưu tiên phát triển một mặt nào đó của
PTBV, song mức độ và thời hạn của sự ưu tiên đó chỉ có giới hạn. Từ những bài học kinh
nghiệm thực tiễn con người đã cảnh giác và tìm chiến lược phát triển mới, đúng đắn cho
mình đó là: coi các vấn đề tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường là
ba yếu tố cấu thành của xã hội. PTBV trở thành nhu cầu cấp bách và xu thế phát triển tất
yếu của hầu hết các nước trên thế giới.
1.1.2. Bền vững về môi trường
Vấn để ô nhiễm môi trường đang từng ngày trở thành vấn đề đáng lưu tâm song
song với sự đi lên nhanh chóng của nền kinh tế. Thu nhập bình quân đầu người đang tăng
lên không ngừng cùng với việc môi trường cũng ngày càng đứng trước những thách thức
lớn hơn. Có thể khẳng định rằng tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần cho phát triển, chứ
không đồng nghĩa với phát triển, nhất là PTBV.
Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội quan hệ khăng khít, chặt chẽ, tác động lẫn
nhau trong thế cân đối thống nhất: môi trường tự nhiên cung cấp nguyên liệu và không
gian cho sản xuất xã hội. Sự giàu nghèo của mỗi nước phụ thuộc khá nhiều vào nguồn tài
nguyên, rất nhiều quốc gia phát triển chỉ trên cơ sở khai thác tài nguyên để xuất khẩu đổi

lấy ngoại tệ, thiết bị công nghệ hiện đại Môi trường và nhất là bền vững môi trường có
vai trò quyết định đối với sự PTBV về KT -XH ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa
phương vì:
Thứ nhất, môi trường không những chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn chứa đựng
“đầu ra” cho các quá trình sản xuất và đời sống.
Hoạt động sản xuất là một quá trình bắt đầu từ việc sử dụng nguyên, nhiên liệu, vật
tư, thiết bị máy móc, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật, sức lao động của con người để tạo ra
sản phẩm hàng hóa. Các hoạt động sống cũng vậy, con người cũng cần có không khí để
thở, cần có nhà để ở, cần có phương tiện để đi lại, cần có chỗ vui chơi giải trí, học tập
nâng cao hiểu biết… Những cái đó không gì khác là các yếu tố môi trường. Như vậy,
chính các yếu tố môi trường là “đầu vào” của quá trình sản xuất và các hoạt động sống
của con người. Hay nói cách khác môi trường là “đầu vào” của sản xuất và đời sống.
Ngược lại, môi trường tự nhiên cũng lại là nơi chứa đựng, đồng hóa “đầu ra” các
chất thải của các quá trình hoạt động sản xuất và đời sống. Quá trình sản xuất thải ra môi
trường rất nhiều chất thải (bụi, khí thải, nước thải, chất thải rắn). Trong các chất thải này
có thể có rất nhiều loại độc hại làm ô nhiễm, suy thoái, hoặc gây ra các sự cố về môi
trường. Quá trình sinh hoạt, tiêu dùng của xã hội loài người cũng thải ra môi trường rất
nhiều chất thải. Những chất thải này nếu không được xử lý tốt cũng sẽ gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Như vậy muốn môi trường bền vững thì phải làm thế nào để hạn
chế được nhiều nhất các chất thải, đặc biệt là chất thải gây ô nhiễm, tác động tiêu cực đối
với môi trường.
Thứ hai, môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự phát triển KT-
XH.
Phát triển KT-XH là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của
con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất
lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân cũng như của cả loài người
trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ: môi
trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các
biến đổi của môi trường.
Trong hệ thống KT-XH, hàng hóa được di chuyển từ sản xuất đến lưu thông, phân

phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm,
chất thải. Các thành phần đó luôn luôn tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội
của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó. Tác động của con người đến môi
trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần
thiết cho quá trình cải tạo đó, nhưng cũng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên.
Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển KT-XH
thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên _đối tượng của sự phát triển KT-XH hoặc
gây ra các thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động KT-XH trong khu vực. Ở các quốc
gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau có các xu hướng gây ô nhiễm môi truờng khác
nhau:
Ô nhiễm do dư thừa: 20% dân số thế giới ở các nước giàu hiện sử dụng 80% tài
nguyên và năng lượng của loài người. Sản xuất công nghiệp phát triển mạnh, hoạt động
của quá nhiều các phương tiện giao thông vận tải đã tạo ra một lượng lớn chất thải độc hại
vào môi trường (đặc biệt là khí thải). Hiện nay việc có được mua bán hay không quyền
phát thải khí thải giữa các nước đang là đề tài tranh luận chưa ngã ngũ trong các hội nghị
thượng đỉnh về môi trường, các nước giàu vẫn chưa thực sự chia sẻ tài lực với các nước
nghèo để giải quyết những vấn đề có liên quan tới môi trường.
Ô nhiễm do nghèo đói: Mặc dù chiếm tới 80% dân số thế giới, song chỉ sử dụng
20% tài nguyên và năng lượng của thế giới, nhưng những người nghèo khổ ở các nước
nghèo chỉ có con đường duy nhất là khai thác tài nguyên thiên nhiên: rừng, khoáng sản,
đất đai… mà đa số các loại tài nguyên này không có khả năng hoàn phục. Nghèo đói là
thách thức lớn nhất đối với công tác BVMT hiện nay. Do vậy, để giải quyết vấn đề môi
trường, trước hết các nước nghèo phải giải quyết triệt để nghèo đói.
Để phát triển, dù là giàu có hay nghèo đói đều tạo ra khả năng gây ô nhiễm môi
trường, vấn đề ở đây là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển và BVMT. Để
PTBV không được khai thác quá mức dẫn tới hủy hoại tài nguyên, môi trường; thực hiện
các giải pháp sản xuất sạch, phát triển sản xuất đi đôi với các giải pháp xử lý môi trường;
bảo tồn các nguồn gen động vật, thực vật; bảo tồn đa dạng sinh học; không ngừng nâng
cao nhận thức của nhân dân về BVMT
Thứ ba, môi trường có liên quan tới tương lai của đất nước, dân tộc.

Như trên đã nói, BVMT chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng như xã hội
được bền vững. KT-XH phát triển giúp chúng ta có đủ điều kiện để đảm bảo an ninh quốc
phòng, giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc. Điều đó lại tạo điều kiện ổn định chính
trị xã hội để KT-XH phát triển. BVMT là việc làm không chỉ có ý nghĩa hiện tại, mà quan
trọng hơn, cao cả hơn là nó có ý nghĩa cho tương lai. Nếu một sự phát triển mang lại
những lợi ích kinh tế trước mắt mà khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi
trường, làm cho các thế hệ sau không còn điều kiện để phát triển mọi mặt thì sự phát triển
đó không được gọi là bền vững. Thế hệ hôm nay không quan tâm tới, không làm tốt công
tác BVMT, làm cho môi trường bị hủy hoại thì các thế hệ trong tương lai chắc chắn sẽ
phải gánh chịu những hậu quả do môi trường mang lại.
1.1.3. Ô nhiễm môi trường không khí, yếu tố ảnh hưởng đến bền vững môi
trường.
1.1.3.1. Ô nhiễm môi trường
Con người luôn cần một khoảng không gian dành cho nhà ở, sản xuất lương thực
và tái tạo môi trường. Con người có thể gia tăng không gian sống cần thiết cho mình bằng
việc khai thác và chuyển đổi chức năng sử dụng của các loại không gian khác như khai
hoang, phá rừng, cải tạo các vùng đất và nước mới. Việc khai thác quá mức không gian và
các dạng tài nguyên thiên nhiên đã làm cho môi trường bị phá vỡ sự cân bằng và khả
năng tự phục hồi vốn có của nó. Ô nhiễm môi trường chính là tình trạng môi trường bị ô
nhiễm bởi các chất hóa học, sinh học Gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, các cơ
thể sống khác.
Có rất nhiều hình thức ô nhiễm môi trường là: ô nhiễm không khí, ô nhiễm
nước, ô nhiễm đất, ô nhiễm phóng xạ, ô nhiễm sóng… Ô nhiễm không khí chính là một
dạng của ô nhiễm môi trường, là một hình thức ô nhiễm rất phổ biến và có tác hại nghiêm
trọng đối với cuộc sống của con người. Trong số các loại ô nhiễm môi trường thì ô nhiễm
không khí là dễ lan truyền nhất, chỉ một lượng nhỏ khí thải độc hại được thải vào bầu
không khí thì sẽ được lan truyền đi rất nhanh, tác hại trở nên rất khó kiểm soát. Ô nhiễm
không khí đặc biệt do tác động xấu của con người trong khai thác tự nhiên cũng đã kéo
theo rất nhiều những tác động nghiêm trọng khác nữa đối với đời sống của chính con
người.

1.1.3.2. Ô nhiễm không khí và các yếu tố ảnh hưởng.
Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong
thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự toả mùi, có mùi khó
chịu, giảm tầm nhìn xa.
Các dấu hiệu và tiêu chí đánh giá ô nhiễm môi trường không khí.
Dấu hiệu: có thể phát hiện ra ô nhiễm không khí thông qua những dấu hiệu bất
thường của một trong các yếu tố sau: sức khoẻ con người, đời sống sinh vật, khí hậu, hiệu
ứng nhà kính, mưa axit, mỏng màn ozôn và ảnh hưởng lên vật liệu. Sự thay đổi của các
yếu tố trên có thể được nhận thấy một cách dễ dàng nhưng cũng có thể phải cần đến
những chuyên gia, các nhà khoa học với những thiết bị công nghệ đo lường hiện đại.
Tiêu chí đánh giá ô nhiễm môi trường không khí: thường căn cứ trên 5 tiêu chí, bao
gồm: Bụi có kích thước nhỏ hơn 10 micron (PM10), khí SO
2
, NO
2
, CO và O
3
. Trong đó
bụi là chất ô nhiễm rất nguy hiểm vẫn ít được biết đến. Các hạt bụi kích thước nhỏ có khả
năng đi sâu vào phổi và gây nên những bệnh về đường hô hấp rất nghiêm trọng có thể dẫn
tới tử vong. Theo 1 nghiên cứu của ngân hàng thế giới năm 2000 cho thấy tại 4 thành phố
lớn của Trung Quốc là Trùng Khánh, Bắc Kinh, Thượng Hải và Thẩm Dương mỗi thành
phố đã có khoảng 10.000 người chết trước khi trưởng thành do bị nhiễm bụi.
Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng môi trường nói chung và môi trường không khí nói
riêng đều do Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ban hành. Tiêu chuẩn đang được áp
dụng phổ biến hiện nay được ban hành vào ngày 25 tháng 6 năm 2002 (Quyết định
35/2002/QĐ-BKHCNMT về việc công bố danh mục Tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường
bắt buộc áp dụng). QĐ này gồm 12 tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng không khí.
Có 2 nguồn gốc chính gây ô nhiễm môi trường không khí là nguồn tự nhiên và
nguồn nhân tạo.

Nguồn tự nhiên: do các hoạt động như núi lửa, cháy rừng, bão bụi, và các quá trình
phân huỷ, thối rữa xác động, thực vật tự nhiên gây nên.
Nguồn nhân tạo: nguồn gây ô nhiễm nhân tạo rất đa dạng, nhưng chủ yếu là do
hoạt động công nghiệp, đốt cháy nhiên liệu hoá thạch và hoạt động của các phương tiện
giao thông. Nguồn ô nhiễm công nghiệp do hai quá trình sản xuất gây ra:
Quá trình đốt nhiên liệu thải ra rất nhiều khí độc đi qua các ống khói của các nhà
máy vào không khí.
Do bốc hơi, rò rỉ, thất thoát trên dây chuyền sản xuất sản phẩm và trên các đường
ống dẫn tải. Nguồn thải của quá trình sản xuất này cũng có thể được hút và thổi ra ngoài
bằng hệ thống thông gió.
Các ngành công nghiệp chủ yếu gây ô nhiễm không khí bao gồm: khai thác khoáng
sản, nhiệt điện; vật liệu xây dựng; hoá chất và phân bón; dệt và giấy; luyện kim; thực
phẩm; các xí nghiệp cơ khí; các nhà máy thuộc ngành công nghiệp nhẹ; giao thông vận
tải; bên cạnh đó phải kể đến sinh hoạt của con người.
1.2. Sự cần thiết chống ô nhiễm môi trường không khí ở thị xã Uông Bí.
1.2.1. Giới thiệu chung về thị xã Uông Bí.
Uông Bí là thị xã nằm ở phía tây nam của tỉnh Quảng Ninh trên trục đường quốc lộ
18A, cách Hà Nội 120km, Hải Phòng 29km và cách thành phố Hạ Long 40km về phía
tây. Thị xã Uông Bí nằm trên trục đường tam giác tăng trưởng kinh tế trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Bắc: Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh; là đầu mối giao lưu giữa 3
tuyến đường giao thông chính:
Đường 18A nối Hà Nội (trung tâm hành chính, văn hoá, giáo dục, trung tâm công
nghiệp, thương mại, dịch vụ, giao lưu quốc tế của cả nước) với Hạ Long (trung tâm du
lịch, cảng biển, công nghiệp than điện, giao lưu quốc tế).
Đường 10 qua Hải Phòng (trung tâm du lịch, cảng biển, công nghiệp), Ninh Bình,
Nam Định, Thái Bình với Quảng Ninh (Uông Bí).
Đường 18B đang trong giai đoạn xây dựng (có đoạn qua Uông Bí) sẽ là tuyển
đường giao thông huyết mạch nối Hà Nội với Hạ Long góp phần rất lớn vào phát triển
kinh tế trong toàn vùng kinh tế trọng điểm phía bắc.
Uông Bí nằm trong chuỗi đô thị phát triển năng động của tỉnh Quảng Ninh thuộc

hành lang quốc lộ 18: Đông Triều - Mạo Khê - Uông Bí - Hạ Long - Cẩm Phả tạo thành
mạng lưới đô thị quan trọng của tỉnh Quảng Ninh. Do đó thị xã có nhiều thuận lợi trong
giao lưu kinh tế - văn hoá - xã hội, thu hút vốn đầu tư trong nước và quốc tế, được đánh
giá là một trong những địa bàn chiến lược quan trọng trong phát triển KT-XH của tỉnh
Quảng Ninh.
Uông Bí nói riêng và Quảng Ninh nói chung vẫn được biết đến là một địa danh rất
giàu tài nguyên thiên nhiên, trong đó đáng kể nhất phải kể đến là tài nguyên khoáng sản
và tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch: Uông Bí là một mắt xích quan trọng trong hệ thống cảnh quan
du lịch và di tích lịch sử của cả vùng từ Côn Sơn - Kiếp Bạc đến Bãi Cháy, Bái Tử Long;
là một trong 4 trung tâm du lịch lớn của Quảng Ninh. Khu du lịch, danh thắng, văn hoá
Yên Tử ở sườn nam dãy Yên Tử có sự kết hợp hài hoà giữa chiều sâu lịch sử với vẻ đẹp
của thiên nhiên, là một trong những trung tâm phật giáo của cả nước. Quần thể này trải
dài trên 25km tính từ điểm xuất phát là hồ Yên Trung đến điểm nút chùa Đồng ở đỉnh cao
1068m. Yên Tử là một tài sản vô giá về văn hoá và lịch sử, một thắng cảnh thiên nhiên
đặc sắc thiên phú cho thị xã Uông Bí.
Tài nguyên khoáng sản: Khoáng sản là thế mạnh của thị xã Uông Bí. Qua điều tra
khảo sát, khoáng sản lớn nhất của Uông Bí là than với trữ lượng rất lớn. Mỏ than Vàng
Danh trên địa bàn thị xã thuộc vùng than Đông Triều - Mạo Khê - Uông Bí có trữ lượng
690 triệu tấn (trữ lượng cả vùng là 1,5 tỷ tấn). Đây là mỏ than có điều kiện khai thác hầm
lò và một phần lộ thiên, chất lượng than tốt với nhiệt lượng là 7943 – 8217 kcal/kg.
Ngoài than, Uông Bí còn có các khoáng sản để sản xuất vật liệu xây dựng như: đá,
cát, sỏi, đá vôi, đá sét… phục vụ yêu cầu phát triển không chỉ trên địa bàn mà cho cả các
khu vực lân cận, tạo nên cơ cấu công nghiệp khá đa dạng cho thị xã.
Bảng1: Danh mục các khoáng sản của thị xã Uông Bí
Stt Tên khoáng sản Trữ lượng Địa danh
1 Than đá 690 triệu tấn Uông Bí
2 Đá vôi 28 – 30 triệu tấn Xã Phương Nam
3 Đá sét 595.000 tấn Bãi Sỏi
(Nguồn: Thuyết minh điều chỉnh QH chung thị xã Uông Bí tỉnh QN đến2020)

Chính vì vậy cơ cấu kinh tế của thị xã được hình thành tập trung vào các ngành
công nghiệp (khai thác chế biến than và sản xuất điện, vật liệu xây dựng), du lịch. Công
nghiệp là ngành sản xuất chính trên địa bàn thị xã và đã có sự phát triển khá mạnh. Tuy
nhiên sự phát triển công nghiệp như hiện nay vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của thị
xã. Cơ cấu công nghiệp thiên về công nghiệp khai khoáng, năng suất lao động còn khá
thấp đây lại là những ngành gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng của
Uông Bí. Các sản phẩm công nghiệp đóng góp vào thu nhập của Uông Bí bao gồm than,
điện và một số sản phẩm chế biến, trong đó công nghiệp khai thác chiếm 52,9% tổng giá
trị sản xuất ngành công nghiệp, công nghiệp chế biến chiếm17,4%. Điều này đã đặt Uông
Bí trước thách thức rất lớn trong việc vừa phải duy trì phát triển kinh tế, xã hội vừa phải
bảo đảm về vần đề môi trường trong việc theo đuổi mục tiêu PTBV.
Thị xã Uông Bí còn là trung tâm giáo dục, đào tạo nghề của tỉnh. Hiện nay trên địa
bàn có 3 trường cao đẳng, 3 trường trung học chuyên nghiệp, 1 trường kỹ thuật quân sự.
Hàng năm đào tạo hơn 14.000 người có trình độ đại học, cao đẳng, trung học.
Do đặc thù về vì trí địa lý Uông Bí hầu như có đủ các loại hình giao thông bao
gồm: đường bộ, đường sắt, đường thuỷ với một số cảng sông quan trọng. Hệ thống đường
sắt và đường bộ có nhiều điểm giao cắt với đô thị gây ách tắc không an toàn nhất là
những khi có xe, tàu than chạy qua. Ngoại trừ quốc lộ 18A có chất lượng khá tốt và một
số đường nhánh được bê tông hoá, phần lớn đường giao thông còn ở tình trạng chất lượng
kém. Đường đô thị còn ít, chất lượng xấu cần được đầu tư lớn để nâng cấp.
Uông Bí vẫn được biết đến là một điểm đen về ô nhiễm môi trường của tỉnh Quảng
Ninh. Những vấn đề môi trường thị xã còn tồn tại rất nghiêm trọng và đang tiếp tục diễn
ra với tốc độ nhanh hơn, phạm vi rộng hơn, tầm ảnh hưởng ngày càng lớn hơn. Tình trạng
ô nhiễm môi trường đáng báo động diễn ra trên tất cả các phương diện: ô nhiễm không
khí bởi bụi than, khói nhà máy điện; ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất…
1.2.2. Mục tiêu PTBV thị xã Uông Bí và yêu cầu chống ô nhiễm môi trường nói
chung và môi trường khí bụi nói riêng.
1.2.2.1. Mục tiêu PTBV thị xã Uông Bí
Sự phát triển lâu dài và ổn định của một quốc gia hay địa phương chỉ có thể đạt
được dựa trên một sự cân bằng nhất định của ba mặt: Kinh tế - Xã hội - Môi trường. Càng

ngày sự lựa chọn con đường phát triển theo hướng bền vững lại càng khẳng định là một
sự lựa chọn mang tính chiến lược đúng đắn. Cũng theo sự lựa chọn này, Uông Bí đã xây
dựng cho mình mục tiêu phát triển bền vững như sau:
- Xây dựng thị xã Uông Bí là một trung tâm công nghiệp, khai thác than, cơ khí,
điện; công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; trung tâm đào tạo dạy nghề tiểu vùng phía tây
của tỉnh Quảng Ninh.
- Xây dựng thị xã trở thành một trung tâm du lịch – văn hoá lịch sử tâm linh phía
tây lớn nhất của tỉnh.
- Đổi mới trong phát triển kinh tế, tập trung xây dựng thị xã phát triển nhanh theo
hướng bền vững với cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, chú trọng nâng cao chất lượng sự nghiệp
văn hoá – giáo dục – y tế… thực hiện tốt chính sách xã hội, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
- Môi trường được đảm bảo, giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc, các “điểm
nóng” về môi trường:
Cải thiện chất lượng môi trường không khí do hoạt động công nghiệp, xây dựng,
giao thông, đặc biệt là ô nhiễm do bụi ở các khu vực nội thị, ven đô.
QH tuyến thu gom, bãi chôn lấp và xử lý chất thải rắn; quản lý chất thải rắn và chất
thải nguy hại thông qua triển khai, phổ biến các mô hình phân loại rác thải tại nguồn,
giảm thiểu, tái chế và sử dụng chất thải và thực hiện quản lý, lưu giữ, chôn lấp chất thải
đúng quy định.
Cải tạo và xây dựng mới hệ thống thoát nước thải, tập trung chỉ đạo xử lý ô nhiễm
nguồn nước, cải thiện môi trường nước ở các lưu vực sông.
Sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên thiên nhiên, giữ cân bằng sinh
thái; bảo vệ và phát huy đa dạng sinh học, các di sản văn hoá được bảo tồn và tôn tạo.
1.2.2.2. Yêu cầu bảo về môi trường không khí trong chiến lược PTBV thị xã.
Mục tiêu chống ô nhiễm môi trường là một trong 3 mục tiêu lớn, luôn được đặt
ngang hàng với các mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội của thị xã trong những năm qua.
Đối với môi trường không khí thì vấn đề lại càng trở nên quan trọng bởi lẽ không
khí chính là yếu tố quan trong hàng đầu đối với sức khoẻ của con người. Tất cả các mục

tiêu, chiến lược hay kế hoạch phát triển đều nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng là phát
triển toàn diện con người. Con người chính là chủ thể động thời cũng là đối tượng tác
động của các quá trình phát triển. Vì vậy, đảm bảo sức khoẻ cho con người cũng chính là
yêu cầu đầu tiên để tiến hành các hoạt động kinh tế xã hội, thúc đẩy sự phát triển không
ngừng của loài người. Con người có khoẻ mạnh, trí tuệ sáng suốt, tâm lý thoải mái thì lao
động mới đạt được hiệu quả cao.
Môi trường không khí không được trong lành không những tác động đến mục tiêu
về môi trường mà nó còn gián tiếp tác động đến mục tiêu kinh tế và xã hội. Môi trường
sống và làm việc của con người mà tối thiểu là môi trường không khí không trong lành sẽ
ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động, gián tiếp làm giảm năng suất lao động ảnh
hưởng tới mục tiêu các phát triển kinh tế. Du lịch cũng được xác định là một ngành kinh
tế mũi nhọn của thị xã, nếu cảnh quan môi trường và bầu không khí bị ô nhiễm thì thế
mạnh này sẽ cũng không thể phát triển được. Không những thế, môi trường không khí bị
ô nhiễm còn là nguyên nhân làm cho vùng mỏ nói chung và Uông Bí nói riêng có tình
trạng nhiễm các bệnh liên quan đến phổi cao nhất cả nước (bụi phổi silic, viêm phổi, ung
thu phổi). Các vấn đề về y tế, an sinh xã hội lại trở thành một gánh nặng đối với nền kinh
tế. Các mục tiêu về sự phát triển của xã hội sẽ không đạt được.
Tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, dân số và nhu cầu của con người lại
không ngừng tăng lên vì vậy khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản một cách hợp lý
với hiệu quả cao nhất sẽ đảm bảo cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững của thị xã trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.2.3. Các yếu tố tiềm ẩn bùng phát ô nhiễm môi trường không khí thị xã Uông
Bí.
1.2.3.1. Hoạt động vận chuyển than.
Đất mỏ Quảng Ninh được thiên nhiên ban tặng cho một kho báu “vàng đen”, than
đã và đang mang lại nguồn thu chính cho tỉnh. Tuy nhiên, sự phát triển đó chưa chắc đã
mang lại cho Quảng Ninh sự phát triển bền vững nếu không xử lý tốt bài toán về môi
trường và phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông vận tải. Hiện nay than
được khai thác trong các hầm lò rồi được vận chuyển tới nhà máy sàng tuyển rồi chuyển
ra cảng bằng 2 con đường là đường bộ và đường sắt. Cả hai tuyến đường vận chuyển than

là đường bộ và đường sắt đều có rất nhiều đoạn chạy qua nội thị là nơi tập trung rất nhiều
dân cư. Đường sắt chuyên dùng vận chuyển than Vàng Danh - Uông Bí toàn tuyến dài
17,5 km có tới 10 điểm giao cắt với đường đô thị. Các hộ dân sống dọc hai bên đường có
xe hay tàu than chạy qua hàng ngày vẫn đang phải ăn, uống, ngủ cùng với bụi than và các
chất độc hại phát ra từ động cơ xăng dầu của phương tiện chuyên chở than.
Dự kiến trong tương lai sản lượng than của Uông Bí liên tục tăng qua các năm:
2010: 5 triệu tấn, 2015: 6,5 triệu tấn, 2020: 8,6 triệu tấn, đó là chưa kể ngành than luôn
đưa ra những chiến lược, những biện pháp để tăng sản lượng khai thác than hàng năm.
Khối lượng than vận chuyển theo đó tăng không ngừng, các chuyến xe, tàu chở than vì
thế cũng ngày càng được tăng cường, đi theo sau những chuyến xe và tàu đó là khói và
bụi than nồng nặc.
Trong QH tổng thể đến 2020, thị xã sẽ xây dựng thêm 1cảng than mới, 2 nhà máy
nhiệt điện, và hàng loạt các nhà máy có sử dụng than làm nguyên liệu đốt vì vậy khối
lượng vận chuyển và bốc dỡ than ngày càng nhiều. Đồng nghĩa với nó là sự gia tăng
lượng khí thải vào bầu không khí của thị xã.
1.2.3.2. Hoạt động của các nhà máy nhiệt điện
Uông Bí hiện có 2 nhà máy nhiệt điện do được xây dựng từ lâu nên các nhà máy
này đều nằm trong khu vực nội thị, rất đông dân cư. Hàng ngày khi hoạt động các nhà
máy đều thải ra một lượng khói bụi làm đen cả một vùng trời. Đặc biệt khi nhà máy tiến
hành xả thải thì sẽ có một trận “mưa bụi” vung vãi khắp nơi. Theo ước tính nếu đã xử lý
bụi 95% thì hàng năm hai nhà máy trên cũng thải ra đến 1.200 tấn bụi/năm.
Trong tương lai khi có thêm 2 nhà máy nhiệt điện được tiếp tục xây dựng trên địa
bàn thì đây sẽ là một nguồn thải khói bụi lớn đối với bầu không khí vốn đã không trong
lành của thị xã. Uông Bí cũng dự kiến hoàn thành dự án nâng cấp và mở rộng nhà máy
nhiệt điện Uông Bí GĐ 2 thêm 300MW, đạt 710MW. Sau năm 2020 xây dựng thêm nhà
máy nhiệt điện Uông Bí III với công suất 600MW nhu cầu sử dụng than gia tăng kéo theo
nhiều tác động xấu đối với bầu không khí. Đó là chưa kể tới tác động của các hoạt động
vận chuyển nguyên liệu cho sản xuất điện của các nhà máy này.
1.2.3.3. Hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng.
Hiện tại trên địa bàn có 2 nhà máy hoạt động trong lĩnh vực này là nhà máy xi

măng Lam Thạch và nhà máy gạch Dốc Đỏ. Các công đoạn sản xuất xi măng, gạch ngói
như: khai thác đá, nghiền đá vôi, nung lò đều đang là nguồn chính gây ô nhiễm không
khí khu vực nam Uông Bí.
Nhu cầu tiêu thụ vật liệu xây dựng trên địa bàn và khu vực lân cận trong những
năm sắp tới còn rất nhiều, nguồn nguyên liệu tại chỗ cho phát triển vật liệu xây dựng còn
rất phong phú, vì vậy có thể nói đây cũng là một ngành công nghiệp thế mạnh cần được
phát triển trong tương lai của thị xã. Theo dự kiến hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng
những năm tới đều tăng (dự tính tốc độ tăng trưởng sản lượng các ngành thời kỳ 2011 –
2020 là 9%/năm), đây cũng là một nguồn phát thải gây ô nhiễm không khí đáng kể của thị
xã trong những năm tới.
1.2.3.4. Hoạt động giao thông vận tải.
Năm 2008, Uông Bí đã được công nhận là đô thị loại 3 cùng với quá trình đô thị
hoá ngày càng nhanh thì lưu lượng xe lưu thông trên đường cũng tăng lên rõ rệt. Lượng
khí thải từ động cơ cũng theo đó gia tăng lượng thải vào bầu không khí. Đây là tình trạng
chung đáng báo động của rất nhiều các đô thị. Theo một báo cáo của ngân hàng thế giới ô
nhiễm không khí ở các thành phố đang phát triển nhanh tại châu á là nguyên nhân khiến
500.000 người chết hàng năm và tuổi làm việc của nhiều người bị rút ngắn vì các vấn đề
về sức khoẻ do hít phải không khí bẩn. Nhất là đối với một đô thị bầu không khí vốn đã bị
ô nhiễm khá nặng bởi các hoạt động công nghiệp như Uông Bí. Nguồn khí thải từ các
hoạt động giao thông cộng với các nguồn thải từ các hoạt động công nghiệp sẽ là một sự
cộng hưởng tai hại đối với sức khoẻ của con người.
Hệ thống giao thông Uông Bí sẽ ngày càng được mở rộng cùng với nhu cầu phát
triển KT-XH. Quảng Ninh đang tiến hành xây dựng mới đường cao tốc Hà Nội - Hạ Long
- Mông Dương - Tiên Yên - Móng Cái với 4 - 6 làn xe; cải tạo nâng cấp mở rộng đường
18B (mở rộng so với hiện trạng 10m); hoàn thiện mở rộng hệ thống đường xá phục vụ du
lịch thị xã nói riêng và cả tỉnh nói chung. Có thể khẳng định chắc chắn rằng hoạt động
giao thông vận tải sẽ ngày càng gia tăng với tốc độ lớn, kéo theo nó là những nguy cơ
bùng phát về tình trạng ô nhiễm không khí.
Tất cả các yếu tố trên nếu chỉ tồn tại riêng lẻ cũng đã là một sự uy hiếp đối với môi
trường không khí. Trong lộ trình phát triển của mình, Uông Bí lại tồn tại tất cả các yếu tố

đó và có xu hướng gia tăng cường độ trong tương lai, vì vậy nguy cơ bùng phát ô nhiễm
không khí là rất gần. Cần phải có giải pháp đối phó toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh
tế - xã hội - môi trường, chỉ có như vậy phát triển bền vững mới trở thành mục tiêu thực
hiện được trong một thời gian không xa.
1.2.4. Dự báo biến đổi chất lượng môi trường không khí thị xã đến năm 2020
Trong những năm tới cùng với sự phát triển của cả tỉnh Uông Bí sẽ ngày càng phát
triển, mở rộng vì vậy việc đánh giá, dự báo tải lượng và xu hướng diễn biến môi trường
nói chung và môi trường không khí nói riêng là việc làm cần thiết. Dựa trên tính toán
lượng bụi trong không khí đo được từ các hoạt động, có thể dự báo lượng bụi trong không
khí do các hoạt động và nhà máy tạo ra như sau:
Bảng2: Dự tính lượng bụi thải ra của một số hoạt động chính
Đơn vị: tấn bụi/năm
Cơ sở sản xuất Năm 2010 Năm 2020
Sản xuất than 10.301 – 10.988 > 10.000
Nhiệt điện Uông Bí (xử lý 95%) 3.600 – 4.200 > 4.200
Cụm sản xuất xi măng Lam Thạch 1.500 – 2.000 2.000
Gạch Dốc Đỏ < 11 11 - 20
Giao thông (không tính đến vận chuyển than) 5,8 – 7,8 11- 15
(Nguồn: khoa địa lý trường ĐH KHTN, ĐH QGHN, 2005)
Ngoài lượng bụi thải ra không khí các hoạt động trên còn thải ra một lượng khá lớn
các chất độc hại vào không khí trong quá trình hoạt động như: CH
4
, CO
2
, SO
2
, NO
x
, CO,
VOC, Pb. Trong đó khai thác than hầm lò, giao thông và nhiệt điện là nhưng hoạt động

đáng kể nhất. Có thể dự báo lượng khí thải này trong giai đoạn tới như sau:
Bảng3: Dự báo lượng khí thải của một số hoạt động trên địa bàn thị xã Uông Bí
Đơn vị: tấn/năm
Nă 2004 2010
m
CH
4
C
O
2
SO
2
No
x
CO VOC PB C
H
4
C
O
2
SO
2
No
x
CO VO
C
Pb
Kha
i
thác

than
hầm

23-
28,
75
23 287
,5
287
,5
316,
25
212,
75
0,5
2
69
-
85
69 800 800 1.0
00
600 1,5
Gia
o
thô
ng
0,8-
1
30-
35

200-
250
80-
85
3-
3,5
1,4-
1,8
54-
63
360
-
450
144
-
153
5,4
-
6,3
Nhi
ệt
điện
Uôn
g Bí
1.2
00
1.0
00
170 3.6
00

3.0
00
510
Kết quả trên chỉ mang tính chất tham khảo do rất khó xác định biến động trong các
ngành sản xuât ảnh hưởng đến môi trường không khí. Tuy nhiên kết quả này cũng cho
thấy cái nhìn toàn diện về các vấn đề môi trường không khí trong tương lai khu vực thị xã
Uông Bí để từ đó có các giải pháp, QH và quản lý hiệu quả nhằm làm giảm các tác động
tiêu cực của các hoạt động phát triển lên môi trường, trong đó có môi trường không khí.
1.2.5. Kết luận về sự cần thiết chống ô nhiễm môi trường không khí thị xã Uông
Bí.
Thực tế đã cho thấy rằng nếu muốn phát triển bền vững thì không thể không chú ý
đến vấn đề bảo vệ môi trường, môi trường chính là một cực quan trọng mà nếu thiếu thì
hai cực kinh tế, xã hội còn lại cũng không thể bền vững được. Có nhiều ý kiến của các
nhà kinh tế môi trường cho rằng các chỉ số đo lường sự phát triển kinh tế hiện nay như
GDP hay GNP đã không phản ánh đúng trạng thái thực của một nền kinh tế bền vững.
Nghĩa là chỉ hô hào sự tăng trưởng GDP hằng năm bao nhiêu phần trăm, nhưng không
cho biết được rằng với sự tăng trưởng đó, nguồn vốn tự nhiên bị hao mòn đến mức nào;
chất lượng môi trường và cuộc sống bị tụt giảm tới đâu. Cần tính toán đầy đủ sự tái tạo
của tài nguyên, khắc phục ô nhiễm mới thấy được giá trị thực của GDP. Lấy ví dụ của
Mexico, chi phí cho môi trường làm giảm đến 12% GDP. Còn ở Trung Quốc, tính toán
thử 1 năm thì thấy rằng tổn thất do suy thoái tài nguyên làm GDP giảm đi xấp xỉ 10%.
Điều đó có tính định hướng để cảnh báo rằng nếu phát triển kinh tế mà không chú ý đến
các vấn đề môi trường thì sẽ có sự tăng trưởng giả tạo, mà cái nợ này sẽ gán cho tương
lai.
Uông Bí là một đô thị trẻ (được thành lập từ ngày 28/20/1961), nền kinh tế lại
được phát triển chủ yếu trên nguồn tài nguyên sẵn có, trong đó công nghiệp khai thác
than, nhiệt điện và sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng gạch ngói có đóng góp lớn cho
nền kinh tế (chiếm trên 80% tổng giá trị sản xuất trên địa bàn). Tuy nhiên sự phát triển
của các ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiệp khai khoáng, nhiệt điện đã vượt quá
khả năng hoá giải của môi trường tự nhiên và khả năng đáp ứng của hệ thống cơ sở hạ

tầng. Điều đó đã dẫn đến một loạt những vấn đề môi trường đáng báo động đặc biệt là ô
nhiễm môi trường không khí đã ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân. Các vấn đề ô nhiễm
môi trường phát sinh do khai thác và sử dụng khoáng sản đều đang tồn tại ở thị xã đó là:
 Khai thác khoáng sản làm mất đất, mất rừng, ô nhiễm nước, ô nhiễm bụi,
khí độc, lãng phí tài nguyên.
 Vận chuyển, chế biến khoáng sản gây ô nhiễm bụi, khí, nước và chất thải
rắn.
 Sử dụng khoáng sản gây ra ô nhiễm không khí (SO
2
, bụi, khí độc ), ô
nhiễm nước, chất thải rắn.
Theo ước tính, để có GDP tăng trưởng 1% thì ô nhiễm môi trường sẽ tăng gấp đôi,
rõ ràng đây là một tương quan hết sức thiếu tình bền vững. Để theo đuổi mục tiêu phát
triển bền vững thì vấn đề đặt ra cho Uông Bí trước mắt và lâu dài là phải có các giải pháp,
kế hoạch hành động thật cụ thể để vừa phát triển mạnh về kinh tế vừa đảm bảo ổn định
môi trường và xã hội. Cũng đã có khá nhiều các tác giả, những nhà khoa học chọn đề tài
về môi trường thị xã làm vấn đề để nghiên cứu, tuy nhiên vấn đề ô nhiễm môi trường
không khí vẫn chưa được quan tâm đứng mức. Sinh ra và lớn lên tại Uông Bí, lại là một
sinh viên thuộc chuyên ngành kế hoạch phát triển em mong muốn thông qua chuyên đề
thực tập của mình đóng góp một phần kiến thức để chống ô nhiễm môi trường không khí
giúp thị xã thực hiện thành công mục tiêu phát triển bền vững.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ, QUẢN LÝ VÀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ THỊ XÃ UÔNG BÍ.
2.1. Công tác chống ô nhiễm môi trường không khí ở thị xã Uông Bí thời gian
qua.
Trong thời gian vừa qua, các hoạt động của công tác bảo vệ môi trường trên địa
bàn Uông Bí đã diền ra với sự tham gia của cả hệ thống chính quyền, các doanh nghiệp và
người dân địa phương. QH bảo vệ môi trường thị xã đến năm 2010 định hướng đến năm
2020 đã được xây dựng làm cơ sở cho công tác bảo vệ môi trường cho thấy được tầm
quan trọng của công tác này. Tuy nhiên cung với sự phát triển quá nhanh của các ngành

công nghiệp thì môi trường và hệ thống cơ sở hạ tầng đã không thể đáp ứng kịp yêu cầu
cho sự phát triển đó. Chính vì vậy môi trường của Uông Bí vẫn ngày càng bị ô nhiễm
nặng nề hơn. Công tác bảo vệ môi trường vẫn chỉ là sự hô hào của các cơ quan chuyên
trách và sự cam kết còn mang nặng tính hình thức của các doanh nghiệp. Các hoạt động
bảo vệ môi trường chỉ mang tính chất chung chung mà chưa có sự can thiệp chuyên sâu
của các nhà khoa học, sự chung tay của cả xã hội trong việc giải quyết từng vấn đề của
từng môi trường cụ thể. Trong cùng tình trạng đó, vấn đề ô nhiễm môi trường không khí
cũng mới chỉ được đề cập đến trong công tác bảo vệ môi trường nói chung, chưa có các
giải pháp chuyên biệt nên chưa thực sự giải quyết được vấn đề một cách hiệu quả và triệt
để nhất. Để góp phần phát huy tiềm năng sẵn có của thị xã, khắc phục tình trạng sử dụng
chưa hợp lý tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm, suy thoái môi trường hiện nay công tác
quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường là một trong những khâu quan trọng
cần được tiếp tục quan tâm, củng cố và đẩy mạnh.
2.1.1. Các chủ trương chính sách.
- Hệ thống các chính sách của nhà nước.
Vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam được thực sự quan tâm bắt đầu từ cuối
những năm 80, đầu những năm 90 và đặc biệt là năm 1993, Luật bảo vệ môi trường đã
được ban hành, đặt nền móng cho việc hình thành hệ thống pháp luật về môi trường ở
nước ta. Có thể nói đây là văn bản quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực
hiện công tác bảo vệ môi trường. Đây là lần đầu tiên các khái niệm cơ bản có liên quan
đến bảo vệ môi trường đã được định nghĩa, xác định làm cơ sở cho việc vận dụng vào
hoạt động quản lý môi trường. Đồng thời, đây cũng là lần đầu tiên quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ môi trường được pháp
luật quy định. Qua hơn 10 năm thực hiện Luật, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta đã
có những chuyển biến tích cực. Hệ thống chính sách, thể chế từng bước được xây dựng và
hoàn thiện. Tuy nhiên, trước những áp lực của tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, sự diễn biến sôi động và toàn diện của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế, Luật Bảo vệ môi trường đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần được sửa đổi.
Chính vì vậy Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005. Luật có

15 chương, 136 điều. So với Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 tăng 8 chương, 79 điều.
Tất cả các chương, điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 đều sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp với điều kiện mới.
Bên cạnh Luật bảo vệ môi trường, còn có nhiều bộ luật khác liên quan hỗ trợ cho
việc bảo vệ môi trường như: Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật khoáng sản, Luật đất
đai, Luật tài nguyên nước, Luật khoa học và công nghệ, Luật dân sự, Luật hình sự… Theo
thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến nay các cơ quan có thẩm quyền ở
nước ta đã ban hành gần 600 văn bản có liên quan đến bảo vệ môi trường. …Chính phủ
và các bộ ngành, địa phương hàng năm đều có kế hoạch bảo vệ môi trường như: đầu tư
ngân sách, nhân lực cho các hoạt động bảo vệ môi trường, thường xuyên quan trắc và
kiểm soát ô nhiễm môi trường, tiến hành thanh tra nhà nước về môi trường, mở rộng hợp
tác quốc tế về bảo vệ môi trường, không ngừng giáo dục và nâng cao nhận thức cho toàn
dân về bảo vệ môi trường, phát động, các phong trào, các chương trình quốc gia về bảo vệ
môi trường…Mặc dầu vậy, khách quan mà nói chức năng quản lý Nhà nước về bảo vệ
môi trường vẫn chưa được phát huy đầy đủ.
- Hệ thống văn bản chính sách của tỉnh và thị xã.
Quảng Ninh vẫn được biết đến là một tỉnh có công tác BVMT khá tốt, một trong
những yếu tố làm nên điều đó chính là do hệ thống các văn bản, chính sách BVMT của
tỉnh. Tỉnh đã ban hành và đưa vào thực hiện tới từng cơ sở hệ thống quy định về BVMT,
gắn kết các hoạt động BVMT với các hoạt động phát triển KT-XH.
Tuy là một đô thị trẻ nhưng trong quá trình phát triển vấn đề môi trường vẫn luôn
được quan tâm đúng hướng. QH bảo vệ môi trường Uông Bí đến năm 2010 có định
hướng đến năm 2020 đã được xây dựng từ năm 2006 và triển khai thực hiện từng bước.
Tuy nhiên, cũng giống như một số QH khác của thị xã, QH BVMT được triển khai hết
sức chậm chạp và thiếu tính đồng bộ. Bên cạnh đó thị xã cũng xây dựng chiến lược, QH,
cơ chế, mô hình quản lý, bảo vệ môi trường của địa phương; hướng dẫn các thủ tục hồ sơ
và kiểm tra về công tác bảo vệ môi trường của các cơ sở có hoạt động sản xuất kinh
doanh gây ô nhiễm môi trường ở địa bàn thị xã.
2.1.2. Thực trạng công tác quản lý ô nhiễm môi trường không khí thời gian qua
2.1.2.1. Bộ máy quản lý

Cấp thị xã: Có 3 cán bộ chuyên trách đảm nhiệm công tác quản lý về môi trường,
tuy nhiên năng lực của những cán bộ này còn yếu kém. Phòng tài nguyên và môi trường
thị xã vẫn được biết đến là cơ quan quản lý môi trường, tài nguyên chung cho toàn thị xã
nhưng ngay trong cơ quan này cũng chưa hẳn có một cái nhìn đầy đủ về hiện trạng không
khí thị xã. Môi trường đất, nước hay không khí chưa được phân biệt một cách rạch ròi để
có những biện pháp xử lý riêng thích hợp, hiệu quả.
Cấp phường, xã: Chưa có cán bộ chuyên trách đảm nhiệm về công tác bảo vệ môi
trường. Các xã, phường hầu như không có một hoạt động đáng kể nào trong công tác
quản lý bảo vệ môi trường nói chung cũng như môi trường không khí nói riêng. Công tác
quản lý môi trường vẫn được coi là công việc của các cấp cao hơn, có chăng cũng chỉ là
các hoạt động hưởng ứng sự phát động các hoạt động bảo vệ môi trường mang tính chất
thường niên vốn đã không lấy gì làm phong phú và hiệu quả của tỉnh và thị xã.
Các doanh nghiệp có hoạt động gây ô nhiễm môi trường: Một số doanh nghiệp
khai thác khoáng sản, sản xuất điện, xi măng có phòng kỹ thuật công nghệ - môi trường
đã bố trí 01 cán bộ chuyên trách phụ trách các vấn đề về môi trường phát sinh. Trong các
doanh nghiệp này công tác môi trường cũng chưa được quan tâm đúng mức chứ chưa nói
tới các doanh nghiệp không có cán bộ chuyên môn phụ trách lĩnh vực không thể thiếu
này.
Như vậy, có thể thấy được rằng so với tình trạng ô nhiễm môi trường như hiện nay
thì đội ngũ quản lý môi trường của thị xã còn rất thiếu và yếu. Với một địa bàn rộng và có
rất nhiều các hoạt động gây ô nhiễm nghiêm trọng như Uông Bí thì đội ngũ quản lý môi
trường như trên là rất “mỏng”, không thể nắm bắt đầy đủ và kịp thời các tác động của các
hoạt động kinh tế, xã hội với môi trường. Bên cạnh đó, đặc biệt là sự yếu kém trong năng
lực chuyên môn, quản lý của đội ngũ cán bộ môi trường và cả một số ban ngành liên quan
đã làm mất đi uy tín cần có của cơ quan môi trường Uông Bí. Chính điều này đã làm cho
thái độ cũng như động thái từ phía các cơ sở gây ô nhiễm còn hết sức hình thức và chậm
chạp. Các cơ quan môi trường của nhà nước chưa thể hiện được vai trò đầu tầu, dẫn
đường của mình trong công tác bảo vệ môi trường_một công việc khó khăn, đòi hỏi rất
nhiều thời gian và nguồn lực.
2.1.2.2. Các hoạt động chống ô nhiễm

- Hoạt động chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường không khí của các cơ sở sản xuất
Trong thời gian gần đây khi tình trạng ô nhiễm không khí, đặc biệt là bụi than đã
trở thành nỗi kinh hoàng của người dân thị xã thì đã có những động thái từ phía các công
ty của ngành than. Các tàu và xe trở than đã được che bạt kín lại nhằm hạn chế việc phát
tán bụi. Các tuyến đường vận chuyển than cũng được thường xuyên phun nước, xe chở
than tăng cường chạy vào ban đêm khi ít có nguời đi lại hơn. Tuy nhiên đây chỉ là những
biện pháp tình thế, không giải quyết được triệt để vần đề. Sau một thời gian áp dụng các
biện pháp này đã bộc lộ những hạn chế như: các tấm bạt sau một thời gian sử dụng không
được thay mới, sữa chữa đã bị rách nát hư hỏng, che cũng như không che; phun nước hạn
chế bụi thì lại mất cảnh quan đô thị, gây cản trở giao thông do bụi than gặp nước kết
thành một thứ đất màu đen đặc quánh 2 bên đường. Đây lại là một nguồn gây bụi trong
những ngày nắng, gió mạnh.
Các nhà máy nhiệt điện đều đã lắp đặt hệ thống xử lý khói bụi mà hình như vấn đề
vẫn không hề được cải thiện, lượng khói bụi thải vào môi trường vẫn không có dấu hiệu
giảm bớt. Điều này đã gây nên tranh cãi là liệu những hệ thống xử lý dù không tiến tiến
và hiện đại đó có được thường xuyên vận hành. Cũng dễ hiểu tại sao là câu hỏi đó được
đặt ra bởi lẽ nễu vận hành những hệ thống này thì phải tốn đến hàng chục tỷ đồng, mà nếu
có bị phát hiện xử phạt thì số tiền bị xử phạt lại qua nhỏ so với số tiền phải bỏ ra để vận
hành các hệ thống đó. Bài toán chí phí và lợi ích dễ dàng tìm ra lời giải trong trường hợp

×