Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

tiểu luận VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.69 KB, 82 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG
TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI

Chuyên ngành: Sư phạm giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204



Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiên:
Th.s. MAI PHÚ HỢP MAI THỊ CẨM NHUNG
MSSV: 6055381





CẦN THƠ – 4/2009


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU


Trang
1.Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5. Kết cấu của đề tài
NỘI DUNG
Chương 1: TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRUNG HOA
THỜI KỲ CỔ ĐẠI
1.1. Thời kỳ Ân Thương – Tây Chu
1.1.1. Triều Hạ
1.1.2. Triều Thương
1.1.3. Triều Tây Chu
1.2. Thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc
1.2.1. Thời kỳ Xuân Thu
1.2.2. Thời kỳ Chiến Quốc
Chương 2: NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CON NGƯỜI TRONG
TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI
2.1. Quan điểm về con người thời Ân Thương – Tây Chu
2.2. Quan điểm về con người thời Xuân Thu – Chiến Quốc
2.2.1. Quan điểm của Nho gia về vấn đề con người
2.2.2. Quan điểm của Đạo gia về vấn đề con người
2.2.3. Quan điểm của Pháp gia về vấn đề con người
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
TÀI LỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử của sự phát triển văn minh, văn hóa nhân loại, vấn đề con
người và tương lai của con người luôn giữ vị trí trung tâm và trở thành đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học – xã hội khác mà đặc biệt là khoa
học xã hội nhân văn nhưng chỉ có triết học mới nhận thức con người một cách
toàn diện trong tính chỉnh thể của nó.
Những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất về con người như: Bản chất con
người là gì? Vai trò của nó trong sự phát triển nhân loại thể hiện như thế nào?.
Đằng sau những câu hỏi này là cả một vấn đề mà nhân loại quan tâm nghiên
cứu. Có thể nói việc nghiên cứu con người không phải là một đề tài mới song
nó vẫn là một vấn đề luôn luôn mới. Là sản phẩm của quan hệ xã hội, con
người cũng đồng thời là chủ thể cải tạo xã hội và từ đó cải tạo chính bản thân
mình. C.Mác và Ăngghen khẳng định: “Bản thân xã hội sản xuất ra con người
với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”
[2, 169]. Như vậy trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì bản chất con
người cũng biểu hiện khác nhau.
Có thể nói cùng với Ấn Độ, Trung Hoa là cái nôi của nền văn minh
phương Đông nói riêng và nhân loại nói chung. Với những phát minh vĩ đại
trên lĩnh vực khoa học tự nhiên. Trung Hoa cũng là quê hương của hệ thống
triết học lớn. Trải qua gần 40 thế kỷ phát triển liên tục, lịch sử triết học Trung
Hoa bao hàm một nội dung cực kỳ phong phú với hệ thống triết học rộng lớn
và sâu sắc mà đặc biệt vấn đề con người trong triết học Trung Hoa cổ đại nói
riêng và cũng như con người trong lịch sử Trung Hoa nói chung là một vấn đề
trung tâm, nổi bật trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Nhưng con người được
nghiên cứu ở đây không được chú trọng trên tất cả các mặt mà chỉ chú ý đến
khía cạnh đạo đức, luân lý, hướng nội với mục đích nhằm xoa dịu mâu thuẫn,
ổn định xã hội, phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị.
Ở Đông Phương, ngay từ trước công nguyên rất lâu, đạo lý nhân bản đã
được hiền nhân đặt để và phổ biến dù rằng khi ấy hầu hết cuộc sống con người
vẫn còn ở tình trạng bộ lạc. Để sống con người Trung Hoa thời sơ khai phải

săn bắn kiếm ăn, chém giết tranh giành nhau miếng ăn chẳng khác gì động vật.
Tuy nhiên cho đến khi Thần Nông xuất hiện, dạy cho dân biêt cày cấy, chỉ
cách lấy lửa. Nữ Oa dạy cho dân biết kéo tơ dệt vải thì văn hóa đã tiến sang
một bước mới, thành lập cộng đồng xã hội. Xã hội ngày càng phát triển việc
xấu xen lẫn việc tốt, con người lúc đó còn chạy theo bản tính tự nhiên, tức là
có phần thiên về thú tính. Để ngăn cản và giúp con người đừng chạy theo thú
tính thấp hèn, giảm bớt những hoạt động trái với luân lý, cổ nhân đã đặt ra
những quy phạm về luân thường mà trong đó Ngũ thường được xem như
rường cột, khuyến khích mọi người học tập và noi theo. Điển hình nhất của
đạo lý Trung Quốc là những nguyên tắc phong hóa như Tam Cương, Ngũ
Thường…rồi sau đó được hoàn thiện bằng chữ viết như: Kinh Lễ, Gia Lễ…mà
đến nay ít nhiều vẫn còn giá trị.
Ở Trung Quốc vào thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN, những nhóm
chuyên chế lớn ban đầu hình thành và một cuộc chiến tranh giành chính quyền
giữa bọn quan lại phục vụ chế độ với các thương nhân đã tăng lên. Cuộc đấu
tranh của những người dân chống lại bọn áp bức bóc lột cũng tăng mạnh.
Trong những điều kiện của cuộc chiến tranh gay gắt, lòng người bắt đầu hoài
nghi về sức mạnh của Thiên giới. Nhiều người đã hoài nghi về sự tồn tại của
“trời” đã dần bác bỏ việc xem “trời” là nguồn gốc của đời sống đạo đức.
Sự khủng hoảng về đạo đức luân lý, thứ luân lý dựa trên cơ sở sùng bái
trời và tổ tiên, đã bắt buộc chế độ quan chế phải tìm tòi những con đường khác
để củng cố các quy tắc đạo đức nhằm phục vụ địa vị độc tôn, đặc quyền của
giai cấp chuyên chế cấp trên. Nhà triết học, nhà hoạt động chính trị đồng thời
cũng là những nhà đạo đức đã tích cực đề xướng việc tìm hiểu bản chất của
con người để tuyên truyền quần chúng quay trở lại đời sống thời cổ đại và
nhằm một mục đích khác là nhằm hướng con người sống hợp với đạo làm
người và phục vụ cho quan điểm trị nước của giai cấp thống trị. Xuất phát từ
vấn đề nêu trên mà tôi quyết định chọn đề tài: “ Vấn đề con người trong triết
học Trung Hoa cổ đại” để làm đề tài luận văn của mình nhằm tìm hiểu rõ hơn
về những quan điểm về con người của các triết gia tiểu biểu thời Trung Hoa cổ

đại để qua đây có thể có những hiểu biết cơ bản về cái nhìn của người Trung
Hoa về vấn đề con người thời cổ đại cũng như cho đến giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm:
- Làm rõ những tiền đề về kinh tế, chính trị - xã hội Trung Hoa thời cổ
đại có những đặc điểm gì tạo điều kiện cho sự ra đời của những quan điểm về
bản chất con người của các triết gia.
- Khai thác các tư tưởng triết học cơ bản về nhân sinh quan của các triết
gia tiêu biểu trong một số trường phái triết học tiêu biểu.
Đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ là phân tích, làm rõ các quan điểm của
các nhà triết học tiêu biểu về con người, bản chất con người, cũng như cách
nhìn nhận và đánh gia về con người và tìm hiểu những ảnh hưởng của các
quan niệm này đến xã hội lúc bấy giờ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đi sâu làm rõ một số nội dung của đề tài nghiên cứu:
- Tư tưởng triết học cơ bản của các triết gia, các trường phái triết học về
vấn đề con người như Nho giáo, Lão giáo, Pháp gia…trong triết học Trung
Hoa cổ đại.
- Những điểm được và hạn chế của các quan niệm về con người của các
triết gia.
Về phạm vi nghiên cứu thì đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu vấn đề con
người của các trường phái triết học thời Trung Hoa cổ đại chứ không đi sang
nghiên cứu con người ở các thời kỳ khác trong triết học Trung Hoa.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được tiếp cận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Những phương pháp được sử dụng chủ yếu trong nghiên cứu đề tài là
phương pháp logic và lịch sử. Ngoài ra tác giả còn sử dụng phối hợp một số
phương pháp như: phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa…


5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn chia làm 2 chương, 4 tiết.


























NỘI DUNG

Chương 1: TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
TRUNG HOA THỜI KỲ CỔ ĐẠI ( 2205 TCN – 222 TCN)

Trung Hoa cổ đại là một trong những trung tâm văn hóa, khoa học và
triết học cổ xưa, phong phú và rực rỡ nhất không chỉ của nền văn minh
phương Đông mà của cả nhân loại.
Trung Hoa cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III TCN
kéo dài đến thế kỷ III TCN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung
Hoa bằng uy quyền bạo lực, mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến. Trong
khoảng 2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được phân thành hai thời kỳ
lớn:
. Thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu)
. Thời Xuân Thu – Chiến Quốc
1.1. Thời kỳ Ân Thương – Tây Chu
1.1.1. Triều Hạ (khoảng thế kỉ XXI – XVI TCN)
Trung Quốc đã trãi qua xã hội nguyên thủy. Rất nhiều nơi trên lãnh thổ
Trung Quốc đã phát hiện được nhiều di chỉ thuộc các thời kì đồ đá cũ và đồ đá
mới. Tiêu biểu cho thời kỳ đồ đá mới ở Trung Quốc là văn hóa Ngưỡng Thiều.
Theo các ghi chép, các truyền thuyết, các thư tịch cho biết rằng người
nguyên thủy “sống chung với cầm thú” nhân dân ít mà cầm thú nhiều, nhưng
nhân dân không thắng nổi cầm thú, rắn rết” [13, 124] do đó họ Hữu Sào đã
dạy dân chặt cây làm tổ để tránh hại. Trong khi đó người nguyên thủy cũng
chưa biết dùng lửa, về sau họ Toại Nhân đã dạy dân đục gỗ lấy lửa, thức ăn
chính do đó tránh được bệnh tật. Sau đó, Phục Hi đã dạy dân kết thừng để làm
lưới bắt cá, Thần Nông phát minh ra cày dạy dân nghề trồng trọt.
Về quan hệ xã hội của người nguyên thủy ở Trung Quốc thì lúc đầu có
thể có quan hệ quần hôn nội tộc. Đến cuối xã hội nguyên thủy, theo truyền
thuyết ở lưu vực Hoàng Hà có nhiều thủ lĩnh bộ lạc nối tiếp nhau. Đó là
Hoàng Đế, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí, Đường Nghiêu, Ngu
Thuấn, Hạ Vũ.

Truyền thuyết cho biết thêm rằng, năm Nghiêu 72 tuổi, Nghiêu đề nghị
cử người khác làm thủ lĩnh liên minh bộ lạc vì Nghiêu đã già. Hội nghị liên
minh bộ lạc đã bầu ra Ngu Thuấn, một người có đạo đức và tinh thần trách
nhiệm lên thay. Đến khi Thuấn già hội nghị lại bầu Hạ Vũ là người có công
lớn trong việc trị thủy lên làm thủ lĩnh liên minh bộ lạc. Sau khi Vũ chết, con
của Vũ là Khải lên thay thế. Chế độ bầu cử liên minh bộ lạc đến đây là chấm
dứt.
Nối chức thủ lĩnh của cha, Khải nghiễm nhiên trở thành một ông vua có
quyền hành rất lớn. Từ đó về sau, việc cha truyền con nối ngôi vua được coi là
việc đương nhiên hợp với đạo lí. Thiên Lễ vận chép: “Nay đạo lớn đã mất,
thiên hạ thành riêng, người ta chỉ thân với người thân của mình, chỉ yêu con
của mình, của cải là của riêng mình, cha truyền con nối là hợp với lễ, lấy
thành quách hào ao làm kiên cố, lấy lễ nghĩa để làm kỷ cương, để xác định địa
vị của vua tôi…vì vậy mưu mô được sử dụng và việc binh đao do đó nổi
lên…” [13, 125].
Đúng như vậy sau khi trở thành ông vua đầu tiên ở Trung Quốc, Khải
phải đương đầu với nhiều cuộc chống đối như sự phản kháng của Bá Ích thuộc
bộ lạc Đông Di, một thành viên của liên minh bộ lạc trước kia, hoặc cuộc đấu
tranh của họ Hữu Hổ thuộc bộ lạc Hạ.
Đến thời con Khải là Thái Khang, Hậu Nghệ thuộc bộ tộc Đông Di lại
khởi binh công Hạ. Thái Khang chạy, Hậu Nghệ giành được chính quyền,
nhưng Hậu Nghệ chỉ ham săn bắn, không chú ý đến việc nước nên bị bộ hạ
của mình là Hàn Trạc giết để cướp ngôi. Chẳng bao lâu, một người thuộc dòng
họ Hạ là Thiếu Khang được sự ủng hộ của một số thị tộc thân cận đã diệt được
Hàn Trạc, nhà Hạ lại được khôi phục.
Tuy ở thời Hạ nhà nước đã ra đời, nhưng trình độ phát triển về mọi mặt
còn rất hạn chế. Nền văn hóa Long Sơn chính là di tích phản ảnh tình hình
kinh tế thời Hạ. Tại những di chỉ này, người ta đã phát hiện được đồ đá màu,
đồ gốm và những dụng cụ làm bằng xương, sừng, vỏ trai. Đồ đồng cũng đã
được phát hiện nhưng mới chỉ là đồng đỏ và số lượng còn rất ít. Đồ gốm ở đây

có nhiều màu như đen, xám, trắng, vàng, đỏ nhưng tiêu biểu nhất là loại đồ
gốm đen bóng. Vì vậy văn hóa Long Sơn còn gọi là văn hóa đồ gốm đen.
Bộ máy nhà nước cũng còn rất đơn giản, chỉ mới có một số chức vụ
quản lý ngành kinh tế gọi là Mục chính (quản lý việc chăn nuôi), Xa chính
(quản lý xe), Bào chính (phụ trách việc tiến dâng thức ăn cho vua)…
Đến cuối đời Hạ, vua Kiệt là một bạo chúa nổi tiếng, áp bức bóc lột
nhân dân thậm tệ, cả nước oán hờn. Nhân đó nước Thương mới thành lập đã
tấn công Hạ, nhà Hạ diệt vong.
1.1.2. Nhà Thương (khoảng thế kỷ XVI – khoảng năm 1066
TCN)
Tương truyền rằng thủy tổ của tộc Thương là Khế, người đồng thời với
Hạ Vũ, nhưng đến cháu thứ 14 của Khế là Thang, tộc Thương mới bắt đầu
bước sang xã hội có giai cấp.
Trong khi nước Thương ở vùng hạ lưu Hoàng Hà không ngừng lớn
mạnh thì nước Hạ ở trung lưu Hoàng Hà đang nhanh chóng suy yếu, nhân dân
đang căm ghét vua Kiệt, nhân đó, Thang đã đem quân đánh Hạ, Kiệt thua chạy
đến đất Nam Sào, nhà Hạ bị tiêu diệt nhà Thương được hình thành.
Khi mới thành lập, nhà Thương đóng đô ở Bạc ở phía nam Hoàng Hà,
nhưng từ đó trong nội bộ giai cấp thống trị thường xảy ra những cuộc đấu
tranh. Để làm yếu thế lực của tầng lớp quý tộc, đồng thời để tránh nước lụt,
vua Thương đã dời đô nhiều lần và đến cháu 10 đời của Thang là Bàn Canh thì
dời đô đến Ân ở phía Bắc Hoàng Hà. Cho đến khi nhà Thương diệt vong, chỉ
trừ vua cuối cùng là Trụ đóng đô ở Triều-ca, còn đều lấy Ân làm kinh đô, vì
vậy triều Thương còn gọi là triều Ân.
Về mọi mặt, đời Thương có một bước phát triển lớn so với triều Hạ.
Tình hình đó chủ yếu được phản ánh trong các di chỉ Trịnh Châu và Ân Khư.
Ở Trịnh Châu đã phát hiện được nền nhà, mộ, xưởng luyện đồng,
xưởng làm đồ gốm, đồ xương, xưởng cất rượu. Ân Khư chính là kinh đô của
triều Thương. Tại đây đã phát hiện khu lăng mộ của các vua Thương, phần mộ
của các quý tộc và bình dân.

Tiến bộ nổi bật nhất trong nền kinh tế thời Thương là việc sử dụng phổ
biến đồ thau. Ngày nay đã phát hiện được hàng vạn đồ dùng bằng đồng thau
đời Thương như đồ tế lễ, đồ uống rượu, vũ khí, công cụ thủ công
nghiệp…Nghề làm đồ gốm thời Thương cũng có những tiến bộ mới. Ngoài
các loại gốm đỏ, đen, xám còn làm được đồ sành, đồ gốm trắng và gốm tráng
men.
Ngoài hai nghề quan trọng nói trên, các nghề khác như nghề làm đồ đá,
ngọc, xương, đồ gỗ, đồ da cũng tương đối phát triển. Việc trao đổi buôn bán
cũng khá phát triển. Tại các di chỉ đời Thương đã phát hiện được nhiều vỏ ốc
biển là thứ rất hiếm ở vùng đó mà người Thương dùng để làm tiền gọi là bối.
Ngoài bối bằng vỏ ốc người ta còn phát hiện bối bằng đồng.
Các di chỉ khảo cổ và các tài liệu giáp cốt cũng cho biết rằng đời
Thương sự phân hóa giai cấp hết sức rõ rệt. Các loại đồ đồng bằng đồng thau,
bằng ngà, bằng ngọc cũng như xe ngựa và những thứ quý báu và hàng chục,
hàng trăm người hầu được chôn theo các quý tộc sau khi chết.
Ở thời Thương tầng lớp nô lệ tồn tại khá đông, công việc chủ yếu của
họ là làm các việc hầu hạ trong nhà, đánh xe, giữ ngựa còn lực lượng lao
động đông đảo nhất và chủ yếu nhất trong sản xuất nông nghiệp đó chính là
nông dân.
Về văn hóa, đời Thương có bước phát triển rất lớn. Ở di chỉ vương
cung ở Ân Khư có rất nhiều mai rùa và mảnh xương trên đó khắc chữ giáp cốt.
Đó là những thứ người Thương dùng để bói. Một thành tựu quan trọng khác
trong nền văn hóa thời Thương là phương pháp làm lịch. Lịch thời Thương
chia một năm làm 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày. Để
cho khớp với vòng quay của trái đất xung quanh mặt trời, lịch thời Thương đã
biết thêm tháng nhuận.
Như vậy Thương là một nước trong đó về mọi mặt đã bước đầu phát
triển. Nhưng đến cuối thời Thương các vua thường dâm loạn, bạo ngược
“không biết nỗi cực khổ của việc cấy gặt, không hiểu sự vất vả của nhân dân,
chỉ thích vui chơi hưởng lạc” vì vậy thời gian ở ngôi của họ thường rất ngắn.

“Hoặc mười năm, hoặc bảy tám năm, hoặc năm sáu năm, hoặc ba bốn năm”.
Trong đó nổi tiếng tàn bạo nhất là vua Trụ, vua cuối cùng của nhà Thương.
Sách Sử kí của Tư Mã Thiên chép: “Trụ đánh thuế nặng để lấy tiền chất vào
kho Lộc Đài, lấy thóc chứa vào kho Cự Kiều, tăng thu chó ngựa của lạ để chất
vào trong thất, mở rộng bãi gò, vườn uyển, đình đài…lấy rượu làm hồ, treo
thịt làm rừng…” [13, 128].
Hơn nữa Trụ còn dùng hình phạt tàn khốc để trừng trị nhân dân, lại
luôn luôn gây chiến tranh với các bộ lạc xung quanh làm cho nhân dân thêm
cực khổ, do đó nhân dân vô cùng oán hận. Nhân tình hình đó nước Chu ở phía
tây vốn là một nước phụ thuộc của Thương đem quân tấn công Triều-ca. Nhà
Thương diệt vong.
1.1.3. Triều Tây Chu (khoảng năm 1066 – 771 TCN)
Chu là một bộ lạc cư trú ở thượng lưu Hoàng Hà. Tương truyền rằng
thủy tổ của tộc Chu là Khí, vì trồng lúa giỏi nên được gọi là Hậu Tắc và được
tôn làm thần nông nghiệp. Đến đời cháu 12 đời của Khí là Cổ Công Đản Phụ,
sự phân hóa giàu nghèo trong bộ lạc Chu đã biểu hiện rất rõ rệt. Vì bị người
Nhung lấn chiếm nên Cổ Công Đản Phụ đã phải dời bộ lạc từ đất Mân đến đất
Kỳ và định cư ở cánh đồng Chu. Tại đây bộ tộc Chu làm nhà cửa, xây thành
quách, đặt “quan lại”. Những cuộc chiến tranh với bộ tộc xung quanh đem lại
cho Chu nhiều chiến lợi phẩm và nô lệ càng đẩy nhanh quá trình phân hóa
trong bộ tộc Chu.
Đến đời cháu của Cổ Công Đản Phụ là Xương thì nước Chu chính thức
thành lập. Xương chính là Chu Văn Vương, còn Cổ Công Đản Phụ được truy
tôn làm Thái Vương.
Văn Vương không ngừng củng cố và phát triển thế lực của mình, phạm
vi thống trị đến vùng Trường Giang, trong khi đó nước Thương đang ngày
càng suy yếu. Văn Vương định tấn công nước Thương nhưng kế hoạch chưa
thành công thì mất. Bốn năm sau người nối ngôi là Vũ Vương đem quân tiến
đánh nước Thương. Lúc bấy giờ, quân chủ lực của Thương đang đi đánh các
tộc ở phái đông nam không thể về kịp, nên vua Trụ phải trang bị vũ khí cho tù

binh và nô lệ để đưa họ ra nghênh chiến. Nhưng khi ra đến mặt trận, đoàn
quân này đã quay giáo khởi nghĩa. Do đó quân Chu tiến vào Triều-ca rất thuận
lợi. Vua Trụ hết đường trốn chạy phải tự tử. Nhà Thương diệt vong.
Để mua chuộc quý tộc và cư dân vùng mới bị chinh phục, Vũ Vương
cho phong con Trụ là Vũ Canh một vùng đất cũ của nước Thương và phong
cho ba con mình là Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc vùng đất bên cạnh
để giám sát. Sau đó Vũ Vương rút về Cảo Kinh ở phía Tây, vì vậy thời kỳ Chu
đóng đô ở đây gọi là Tây Chu.
Hai năm sau, Vũ Vương chết. Người con nối ngôi là Thành Vương còn
nhỏ nên một người em của Vũ Vương là Chu Công nắm quyền nhíp chính.
Nhân tình hình đó nên Vũ Canh lôi kéo Quản Thúc, Thái Thúc và một số nước
nhỏ ở phía đông nổi dậy chống nhà Chu. Chu Công phải đem quân đi đánh,
sau ba năm mới dẹp được. Vũ Canh và Quản Thúc bị giết, Thái Thúc bị đày.
Về sau Thành Vương còn chinh phục nốt các bộ tộc Từ và Hoài ở phía đông
nam, từ đây bản đồ nhà Chu được mở rộng ra tận biển Đông. Trên cơ sở ấy,
nhà Chu thi hành chính sách phân phong đất đai cho những người cùng họ, do
đó lập nên hệ thống các nước chư hầu.
Nhưng đến thế kỷ IX TCN, do Lệ Vương thi hành chính sách giữ độc
quyền rừng núi ao hồ nên nhân dân rất oán hận. Lệ Vương còn thẳng tay trừng
trị những kẻ dám kiêu ca, vì vậy mọi người gặp nhau ngoài đường chỉ dám
đưa mắt ra hiệu chứ không dám nói chuyện với nhau. Căm phẫn đến tột độ,
năm 841 TCN, nhân dân vùng kinh kì nổi dậy khởi nghĩa. Lệ Vương hốt
hoảng bỏ kinh kỳ chạy đến đất Trệ rồi chết ở đó. Con của Lệ Vương là Thái tử
Tĩnh trốn vào nhà Thiệu Công. Bị quần chúng nhân dân truy bức, Thiệu Công
buộc lòng phải cho con trai của mình ra mạo xưng là Thái tử để quân khởi
nghĩa giết chết.
Sau khi Lệ Vương bị lật đổ thì đến năm 827 TCN, Thái tử Tĩnh được
lên làm vua, hiệu là Tuyên Vương nhà Tây Chu lại được khôi phục. Dưới thời
Tuyên Vương, tình hình nhà Chu cũng tương đối ổn định, nhưng sau khi ông
mất Tây Chu bị suy yếu rõ rệt. Người nối ngôi là U Vương, một kẻ chỉ thích

ăn chơi xa xỉ, say đắm tửu sắc. Vì quá yêu nàng Bao Tự nên đã phế truất
hoàng hậu họ Thân và Thái tử Nghi Cữu rồi lập Bao Tự làm hoàng hậu và con
trai của nàng là Bá Phục làm thái tử. Do vậy năm 771 TCN, cha của hoàng hậu
họ Thân là Thân hầu liên kết với người Khuyển Nhung đem quân đánh U
Vương. U Vương thua chạy bị người Khuyển Nhung giết chết.
Ngay sau đó Thái tử Nghi Cữu lên làm vua, hiệu là Bình Vương.
Nhưng Cao Kinh bị người Khuyển Nhung tàn phá nặng nề nên dời đô sang
Lạc Ấp ở phía đông. Thời kỳ Tây Chu đến đây chấm dứt.
Ở thời Tây Chu nhìn chung về tình hình kinh tế chưa có bước phát đáng
kể so với xã hội trước. Về công cụ sản xuất chưa có tiến bộ vượt bậc so với
thời Thương tức là chưa vượt qua được thời đại đồng thau. Tuy vậy nhờ sự
tích lũy kinh nghiệm lâu đời, nhờ việc quy hoạch đồng ruộng gắn liền với hệ
thống tưới nước, sản xuất nông nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Trên cơ
sở ấy, giai cấp thống trị đã thu được nhiều lương thực chất đầy các kho. Thời
Tây Chu các ngành thủ công nghiệp, các nghề đúc đồng thau và các nghề làm
đồ gốm, đồ ngọc, đồ đá, xương da, gỗ, nghề dệt…đều đạt đến trình độ khá
cao.
Tuy nhiên nền kinh tế Trung Hoa lúc bấy giờ mang nặng tính chất tự
nhiên, những nhu cầu trong đời sống hàng ngày của nhân dân đều dựa vào
kinh tế tự túc tự cấp, nhưng để phục vụ cho đời sống của giai cấp quý tộc, việc
trao đổi buôn bán cũng diễn ra trong phạm vi cả nước. Tuy tiền tệ đã được sử
dụng nhưng hiện tượng lấy vật đổi vật vẫn còn rất phổ biến.
Về chế độ ruộng đất: Đến thời Tây Chu, việc phân phong đất cho quý
tộc và việc chia ruộng đất cho nông dân đã trở thành chế độ rất hoàn chỉnh.
Sau khi chinh phục được nước Thương và các bộ tộc nhỏ khác tất cả đất đai
trong nước đều thuộc quyền sở hữu của nhà vua. Do quyền sở hữu thuộc về
nhà nước nên ruộng đất không được mua bán. Ngoài vùng xung quanh kinh đô
mà vua Chu giữ lại cho mình, gọi là vương kì, đất đai trong cả nước đươc
phân phong cho anh em và các công thần của nhà vua. Tùy theo bà con thân
hay sơ, công lao lớn nhỏ mà được phân phong ruộng đất rộng hay hẹp, gần

hay xa và tước cao hay tước thấp, tốt hay xấu. Những người được phong tước
và đất trở thành các vua chư hầu của nhà Chu. Vua chư hầu tuy không có
quyền sở hữu hoàn toàn về đất được phong nhưng được truyền lại cho con
cháu. Đối với vua Chu, vua chư hầu có nhiệm vụ hàng năm phải đến chầu, nộp
cống, ngoài ra con phải đem quân đội đến giúp mỗi khi có chiến sự xảy ra.
Nếu không thi hành đúng những nghĩa vụ đó tùy theo mức độ mà bị giáng
chức tước, bị thu hồi đất phân phong hoặc bị đem quân đến tiêu diệt.
Ruộng đất trong vương kì và trong nước chư hầu đem phong cho các
quý tộc quan lại triều đình nhà Chu và triều đình các nước chư hầu gọi là
khanh, đại phu. Khanh, đại phu lại chia thái ấp cho những người giúp việc của
mình gọi là sĩ.
Cuối cùng trong các làng xã, ruộng đất được chia cho nông dân để cày.
Mỗi hộ nông dân được chia một mảnh ruộng rộng 100 mẫu gọi là một điền.
Để chia ruộng đất thành từng phần như vậy và để dẫn nước vào ruộng, người
ta đắp bờ vùng bờ thửa và đào những con mương ngang dọc do đó tạo thành
những hình như chữ “tỉnh” ở trên cánh đồng nên gọi là “tỉnh điền”.
Như vậy, tỉnh điền là chế độ phân phối ruộng công ở Trung Quốc cổ
đại. Chế độ ấy tồn tại đến thời Chiến Quốc khi ruộng tư xuất hiện thì dần dần
tan rã.
Về quan hệ xã hội: Cũng như thời Thương, thời Tây Chu trong xã hội
có ba giai cấp là quý tộc, nông dân và nô lệ.
Đứng đầu giai cấp quý tộc là vua bắt đầu từ đời Chu gọi là Vương, là
Thiên tử. Vua Chu có quyền rất lớn về hành chính và tư pháp. Ý chí của vua là
pháp lệnh. Hơn nữa với danh hiệu Thiên tử, vua Chu còn mượn cả uy trời để
cai trị nhân dân, Vua Chu cũng là người có quyền sở hữu cao nhất về ruộng
đất trong cả nước và do đó có quyền phân phong ruộng đất cho con em và
công thần.
Dưới thiên tử là các vua chư hầu. Đó là những ông vua ở các địa
phương với các danh hiệu Công, Hầu, Bá…các vua chư hầu có quyền cai trị
vương quốc của mình nhưng có nghĩa vụ phục tùng và triều cống Thiên tử.

Dưới vua, chư hầu là các quan lại lớn, nhỏ gọi là khanh, đại phu, sĩ. Họ
giữ các chức vụ trong triều đình nhà Chu và ở các nước chư hầu.
Nông dân là giai cấp đông đảo nhất và là lực lượng giữ vai trò quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp và là những người cày cấy ruộng “tỉnh điền”.
Họ sống trong các làng xã mà từ xưa đã lập thành những công xã nông thôn.
Những người có chức trách trong công xã định kỳ phải tiến hành chia ruộng
đất cho những hộ nông dân, trong các dịp thời vụ, các chức dịch của công xã
có nhiệm vụ đôn đốc việc sản xuất.
Ngoài việc sản xuất nông nghiệp, nông dân còn làm một số nghề phụ
khác như chăn tằm, dệt lụa, kéo sợi, dệt vải…mặc dù nông dân được coi là
“dân của vua” tức là dân tự do nhưng bị áp bức bóc lột nặng nề. Nhận 100
mẫu ruộng công nằm trong lãnh địa của quý tộc, nông dân phải nộp thuế bằng
khoảng 1/10 thu hoạch. Ngoài ra họ còn nộp các khoản thuế phụ khác như lụa,
da, thú săn…và phải làm tạp dịch như xây dựng dinh thự, thành quách, cầu
cống…Đời sống của họ rất cực khổ.
Giai cấp có địa vị thấp kém là nô lệ. Cũng như đời Thương, nguồn nô
lệ chính là tù binh, ngoài ra còn có một số người đồng tộc bị biến thành nô lệ
vì phá sản hoặc vì phạm tội. Công việc chủ yếu của nô lệ là hầu hạ và làm các
công việc trong gia đình. Có một số được làm trong các xưởng thủ công và tổ
chức buôn bán của nhà nước. Nô lệ thường bị thích chữ vào mặt và bị coi như
hàng hóa để buôn bán, trao đổi, ban tặng. Thời Tây Chu, 5 nô lệ mới đổi được
một con ngựa và một cuộn tơ. Lúc bấy giờ tục dùng người tuẫn táng vẫn thịnh
hành. Trong số những người được chôn theo ấy, chắc chắn phần lớn là nô lệ.
1.2. Thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc
1.2.1. Thời Xuân Thu
Thời Xuân Thu là giai đoạn đầu của thời Đông Chu bắt đầu từ năm 770
TCN cho đến thế kỷ V TCN trước sau gồm khoảng 3 thế kỷ. Sở dĩ thời kỳ này
gọi là Xuân Thu vì nó tương đương với giai đoạn lịch sử được chép trong sách
Xuân Thu của Khổng Tử. Sách Xuân Thu là quyển sử nước Lỗ trong đó ghi
chép những sự kiện xảy ra từ 722 TCN đến năm 481 TCN. Thời Xuân Thu là

thời kỳ xã hội Trung Quốc có nhiều chuyển biến quan trọng về kinh tế, chính
trị và xã hội.
Năm 770 TCN, Chu Bình Vương dời đô sang Lạc Ấp, ở phía Đông,
giai đoạn Đông Chu bắt đầu. Đến năm 256 TCN, Chu bị nước Tần thôn tính,
nhà Chu diệt vong.
Sau khi Bình Vương dời đô sang Lạc Ấp không lâu, trong cung đình
xảy ra việc cha con tranh nhau ngôi vua làm cho thế lực của nhà Chu ngày
càng suy yếu. Đã thế vương kì của Đông Chu vốn là một vùng nhỏ hẹp, nhưng
phần thì phải phân phong cho các công thần, phần thì bị một số nước chư hầu
lấn chiếm, nên đất đai còn lại càng hẹp. Mặt khác do uy thế chính trị của nhà
Chu ngày càng bị giảm sút, nhiều nước chư hầu không chịu triều cống cho nhà
Chu nữa. Bị suy yếu về chính trị và gặp nhiều khó khăn về kinh tế như vậy
nên về danh nghĩa tuy vẫn là vua chung của cả nước nhưng thực tế là không
đủ sức điều khiển các nước chư hầu.
Trong khi đó trên lãnh thổ Trung Quốc có rất nhiều nước nhỏ, phần lớn
là những quốc gia được hình thành do chính sách phân phong thời Tây Chu.
Trước kia, một trong những mục đích phân phong chư hầu là để các nước này
làm phên dậu bảo vệ nhà Chu. Nhưng nay, nhân thế lực nhà Chu suy yếu, một
số nước không tuân theo mệnh lệnh của thiên tử mà còn xâm phạm lãnh địa
của nhà Chu. Hơn nữa, họ còn muốn “khống chế Thiên tử để chỉ huy các nước
chư hầu”. Nước đầu tiên thực hiện mưu đồ đó là nước Trịnh, vì vậy Chu Hoàn
Vương đã huy động quân đội các nước Trần, Thái, Vệ đi đánh nước Trịnh,
nhưng kết quả bị thua, bản thân Hoàn Vương cũng bị thương.
Cũng trong quá trình ấy, nhà Chu và một số nước chư hầu lại bị các bộ
tộc “Man”, “Di” đe dọa từ phía Nam và phía Đông. Trước tình hình đó các
nước chư hầu nêu chiêu bài cứu vãn tình hình, nhưng thực chất là muốn các
nước chư hầu khác phục tùng mình. Do vậy từ đầu thế kỷ thứ VII đến đầu thế
kỷ V TCN, trên vũ đài chính trị Trung Quốc đã diễn ra tấn tuồng các nước
đánh nhau để tranh quyền bá chủ.
Nước đầu tiên giành được quyền bá chủ là nước Tề. Với khẩu hiện

“Tôn vua trừ Di”, vua Tề là Tề Hoàn Công đã ngăn chặn được sự xâm lấn và
quấy nhiễu của người Nhung Địch. Năm 656 TCN, Tề cùng một số nước khác
đem quân hỏi tội nước Sở vì sao không nộp cống cho nhà Chu. Nước Sở phải
đề nghị giảng hòa. Sau đó Tề Hoàn Công họp hội nghị chư hầu mấy lần, được
chư hầu công nhận làm bá chủ ở miền hạ lưu Hoàng Hà.
Nước Tấn ở vùng Sơn Tây ngày nay cũng là một nước lớn. Năm 636
TCN, công tử Trùng Nhĩ sau khi lưu lạc ở nước ngoài 19 năm được về làm
vua, hiệu là Tấn Văn Công. Từ đó sự tranh chấp trong nội bộ chấm dứt, thế
nước trở nên hùng mạnh. Năm 632 TCN, Văn Công chỉ huy liên quân Tấn,
Tề, Tần, Tống đánh bại liên quân Sở, Trần, Thái ở Thành Bốc. Sau đó Tấn
Văn Công họp hội nghị chư hầu, nước Tấn được công nhận làm bá chủ.
Nước Sở ở lưu vực Trường Giang vốn là một nước nhỏ thành lập từ đời
Thương. Nhờ khuất phục được nhiều bộ lạc xung quanh và thôn tính được một
số nước chư hầu nhỏ của nhà Chu, nước Sở đã trở nên lớn mạnh. Đến thời
Xuân thu, vua Sở chính thức xưng vương, không thừa nhận địa vị Thiên tử của
nhà Chu. Đến thời Sở Trang Vương (691 – 613 TCN) thế nước của Sở càng
mạnh. Năm 597 TCN, Sở đánh Trịnh, Tấn đem quân đến cứu cũng bị đánh
bại, do dó nước Sở cũng trở thành bá chủ.
Nước Tần ở vùng Tây Bắc thành lập tương đối muộn. Khi Bình Vương
dời đô sang Lạc Ấp, nhờ có công hộ tống vua Tần mới được nhà Chu phong
làm chư hầu. Đến thời Tần Mục Công (659 – 621 TCN), Tần nhiều lần đánh
nhau với Tấn, tiếp đó lại bành trướng sang phía Tây, tiêu diệt được nhiều nước
chư hầu nhỏ của nhà Chu, thôn tính được đất đai của nhiều bộ lạc Nhung
Địch, do đó cũng trở thành một nước lớn.
Trong các nước tranh quyền bá chủ lúc bấy giờ, nước Tề chỉ làm bá chủ
được một thời gian ngắn, nước Tần chỉ khống chế được vùng Tây Bắc, chỉ còn
hai nước Tấn và Sở kình địch với nhau lâu dài nhất để giành ngôi bá chủ ở
vùng Hoàng Hà. Năm 546 TCN, hai nước giảng hòa và đều được công nhận là
bá chủ. Các nước chư hầu khác đều phải nộp cống cho hai nước.
Khi những cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ ở miền Bắc vừa lắng

xuống thì nước Ngô ở vùng Giang Tô và nước Việt ở vùng Triết Giang đang
trên đà phát triển. Trong thời gian nước Tấn và nước Sở đánh nhau, Ngô là
đồng minh của Tấn, Việt là đồng minh của Sở. Vì vậy chiến tranh giữa Sở và
Ngô diễn ra nhiều lần. Năm 506 TCN, Ngô đem quân đánh Sở, chiếm được
kinh đô. Sở phải nhờ viện binh của Tần mới đánh đuổi được quân Ngô.
Nhân khi quân Ngô đang kéo quân đi đánh nước Sở, Việt đã tấn công
Ngô. Năm 496 TCN, Ngô Việt lại đánh nhau. Vua Ngô là Hạp Lư bị thương
rồi chết. Con Hạp Lư là Phù Sai quyết tâm báo thù. Năm 494 TCN, Phù Sai
đánh bại quân Việt, vua nước Việt là Câu Tiễn với thái độ hết sức nhún
nhường xin nước Ngô đừng tiêu diệt mà cho Việt được làm nước phụ thuộc
của Ngô. Sau đó Câu Tiễn nằm gai nếm mật, tích cực chuẩn bị lực lượng để
chờ thời cơ phản công nước Ngô.
Còn Phù Sai khi đánh bại nước Việt đã đem toàn bộ lực lượng lên phía
Bắc để tranh quyền bá chủ. Sau hai lần đánh bại quân Tề, năm 482 TCN, Phù
Sai hợp các nước chư hầu để giành quyền bá chủ của nước Tấn. Nhân cơ hội
đó Câu Tiễn tấn công kinh đô của nước Ngô. Phù Sai vội vàng kéo quân về
xin hòa và đến năm 473 TCN thì bị nước Việt tiêu diệt. Sau đó Câu Tiễn cũng
kéo quân lên miền Bắc, triệu tập hội nghị chư hầu và cũng làm bá chủ một thời
gian.
Về tình hình kinh tế ở thời Xuân Thu thì tiến bộ mới quan trọng nhất
trong lĩnh vực kinh tế thời kỳ này là sự ra đời của đồ sắt. Giữa thời Xuân Thu,
trên một chiếc chuông của nước Tề có khắc một đoạn chữ trong đó có câu:
“Người luyện sắt bốn nghìn”. Ở nước Tấn, năm 513 TCN, nhà nước đã dùng
sắt để đúc đỉnh, trên đó khắc những điều luật của Phạm Tuyên Tử.
Đồng thời với việc sử dụng đồ sắt, đến thời Xuân Thu, người Trung
Quốc đã biết dùng súc vật làm sức kéo. Vấn đề thủy lợi đến thời kỳ này cũng
được coi trọng. Nước Ngô, thời kỳ Phù Sai đã đào một hệ thống kênh nối
Trường Giang với Sông Hoài và nối Sông Hoài với mấy con sông ở gần lưu
vực Hoàng Hà. Ngành thủ công nghiệp, đến thời Xuân Thu cũng phát triển
hơn trước. Trong các nghề thủ công truyền thống, nghề đúc đồng thau có

nhiều cải tiến rõ rệt. Sản phẩm bằng đồng thau thời kỳ này nói chung có hình
dáng thanh thoát, trang trí đẹp mắt. Ngoài các thứ như chuông, đỉnh, đồ uống
rượu, qua, dao…còn có một số sản phẩm mới như kiếm ngắn, gương đồng…
Nhờ có công cụ bằng sắt, nghề mộc cũng tiến bộ rất nhiều. Đến thời kỳ
này còn xuất hiện một số nghề mới như nghề luyện sắt, nghề sơn. Nghề làm
muối cũng rất được coi trọng. Vì vậy, có nước chư hầu đã đặt chức quan
chuyên trách về sắt và muối.
Cũng như trước kia, nhà nước vẫn nắm một bộ phận quan trọng trong
việc sản xuất thủ công nghiệp. Tùy theo ngành nghề nhà nước tổ chức thành
các xưởng khác nhau như xưởng đồng, xưởng sắt, xưởng dệt, xưởng gốm,
xưởng mộc…
Hoạt động thương nghiệp đến thời Xuân Thu cũng khá sôi nổi. Trong
số các nước chư hầu, Tề là nước có nền thương nghiệp phát triển sớm nhất.
Đến thế kỉ VII TCN, việc buôn bán ở nước Tề khá thịnh vượng. Quản Trọng
nói: “…Nay những người buôn bán ở khắp các nơi, xem xét bốn mùa, chủ ý
các thổ sản của các địa phương mình để biết giá chợ, đánh bò xe ngựa đi khắp
bốn phương, đem cái có đổi lấy cái không có, mua rẻ bán đắt” [13, 141].
Đến giữa thời Xuân Thu, trung tâm của việc buôn bán ở Trung Quốc là
nước Trịnh vì nước này có vị trí thuận lợi về mặt giao thông. Nhờ vậy, lái
buôn nước Trịnh đã đi buôn bán khắp đó đây: Nam thì xuống Sở, Bắc thì lên
Tấn, Đông thì sang Tề. Nhờ hoạt động của họ, thổ sản các nơi được trao đổi
với nhau.
Cùng với sự phát triển của công thương nghiệp, nhiều thành phố vốn là
những đô thị trung tâm chính trị đã trở nên phồn hoa đông đúc như Lâm Tri
của Tề, Hàm Đan của Triệu, Đại Lương của Ngụy, Lạc Dương của
Chu…Trong số đó, theo Chiến Quốc sách, thành phố Lâm Tri có đến 7 vạn
hộ. Qua đó có thể thấy số dân trong các thành thị Trung Quốc lúc bấy giờ
không phải là ít.
Về quan hệ ruộng đất thì đến thờ Xuân Thu đã có sự thay đổi về quyền
sở hữu ruộng đất.

Trong giai đoạn trước, toàn bộ ruộng đất ở Trung Quốc đều thuộc
quyền sở hữu của nhà nước, nhưng bắt đầu từ thời Xuân Thu, chế độ ruộng đất
của nhà nước dần dần tan rã, ruộng tư xuất hiện ngày càng một nhiều.
Thời Tây Chu, trên cơ sở “Khắp dưới gầm trời, đâu cũng đất vua”,
Thiên tử nhà Chu đã phong đất cho các chư hầu. Khi mới phân phong, sự ràng
buộc của nhà Chu đối với chư hầu, một mặt dựa vào quan hệ họ hàng, mặt
khác dựa vào quan hệ giữa tôn chủ (người phong đất) với bồi thần (người
được phong). Nhưng đến thời Xuân Thu, cái quan hệ họ hàng đó đã trở nên xa
xôi và quan trọng hơn, nhà Chu với tư cách là tôn chủ không còn đủ thế lực để
bắt những người được kế thừa đất phong phải thực hiện nghĩa vụ của họ. Vì
vậy, trên thực tế, các nước chư hầu đều coi lãnh địa được phong là quyền sở
hữu của họ. Ngoài lãnh địa được phong, các nước lớn còn thôn tính nhiều
nước nhỏ và xâm chiếm đất đai của các nước khác. Bộ phận đất đai này lại
càng là sở hữu của họ.
Trong các nước chư hầu, do sự suy yếu của nhà vua, do tranh giành đất
đai của nhau, thái ấp của Khanh đại phu cũng biến dần thành ruộng đất tư của
họ.
Trong quá trình ấy, chế độ tỉnh điền cũng dần dần tan rã. Do công cụ
sản xuất tiến bộ và số dân lao động tăng lên, người ta có khả năng khai khẩn
thêm nhiều đất hoang. Vì vậy, một số nông dân đã khai phá thêm một ít ruộng
đất ngoài phần đất được chia, do đó sự chênh lệch về tài sản trong hàng ngũ
nông dân cũng ngày càng rõ rệt. Hơn nữa, do kỹ thuật sản xuất tiến bộ, việc
đầu tư công sức vào ruộng đất cũng khác nhau, vì vậy, nhiều nông dân không
muốn thực hiện việc định kỳ chia lại ruộng đất như trước nữa. Cho nên đến
thời kỳ này một số nông dân cũng có ruộng đất riêng.
Trước kia, ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước nên không được
mua bán, nhưng đến thời Xuân Thu, hiện tượng mua bán ruộng đất đã xuất
hiện. Sách Tả truyện chép: “Người Nhung Địch đến ở, dùng vật quý để đổi lấy
đất, đất có thể mua bán” [13, 142]. Sự ra đời của hiện tượng mua bán ruộng
đất là kết quả tất yếu của chế độ ruộng đất thuộc quyền sở hữu tư nhân, đồng

thời việc mua bán ruộng đất lại thúc đẩy chế độ ruộng tư phát triển nhanh
chóng.
Trước chiều hướng phát triển không thể ngăn chặn được của chế độ
ruộng tư dẫn đến sự xáo trộn về ruộng đất, việc thu thuế đồng loạt như trước
rõ ràng là không thích hợp nữa, vì vậy nhiều nước đã cải cách chế độ thuế
khóa. Giữa thế kỷ VII TCN, áp dụng chính sách cải cách của Quản Trọng,
nước Tề đã căn cứ theo ruộng đất tốt xấu để đánh thuế. Năm 594 TCN, nước
Lỗ bắt đầu đánh thuế theo diện tích ruộng đất. Việc đó, chứng tỏ nước Lỗ
chính thức thừa nhận sự chênh lệch về ruộng đất trong hàng ngũ nông dân và
thừa nhận quyền tư hữu ruộng đất của nông dân là hợp pháp.
Về quan hệ giai cấp: Trước hết, sự xuất hiện chế độ ruộng tư đã dẫn
đến sự phân hóa trong giai cấp thống trị. Do có ruộng đất riêng, một số Khanh,
đại phu, sĩ đã biến thành những địa chủ mới.
Sự tan rã của chế độ tỉnh điền đã làm cho giai cấp nông dân bị phân
hóa. Một bộ phận nông dân vẫn giữ được 100 mẫu ruộng được chia trước kia,
có khi còn khai khẩn thêm được một ít nữa, đã trở thành nông dân tự canh.
Một bộ phận hoàn toàn “không có tấc đất cắm dùi” thì phải làm tá điền hoặc
cày thuê cho địa chủ. Một bộ phận có một ít ruộng đất nhưng chưa đủ nuôi
sống gia đình thì phải lĩnh canh thêm ruộng đất của địa chủ. Do sự phân hóa
trong giai cấp nông dân như vậy nên nghĩa vụ nộp tô thuế của họ cũng có phân
biệt. Những nông dân cày cấy ruộng đất của mình phải nộp thuế 1/10 cho nhà
nước bằng sản phẩm, ngoài ra còn phải nộp vải lụa và phải đi làm lao dịch.
Những nông dân lĩnh canh thì phải nộp tô 5/10 cho địa chủ.
Những người làm nghề công thương trước kia bị lệ thuộc vào nhà nước
do đó chưa hình thành những tầng lớp độc lập. Bắt đầu từ thời Xuân Thu,
trong xã hội mới xuất hiện một số thợ thủ công và người buôn bán tự do.
Tầng lớp buôn bán cũng ngày càng đông đảo. Thời Xuân Thu, nước
Trịnh có nền thương nghiệp phát triển nhất nên ở đây có nhiều lái buôn giàu
có. Ở các nước khác cũng có những nhà buôn lớn nổi tiếng như Lữ Cống,
Phạm Lãi, Bạch Khuê. Tử Cống là một học trò của Khổng Tử, chuyên buôn

bán ở nước Tào, nước Lỗ. Phạm Lãi là một công thần của Việt Câu Tiễn,
nhưng sau khi giúp Câu Tiễn đánh Ngô thắng lợi đã bỏ sang nước Tề buôn
bán và đổi tên thành Đào Chu Công. Còn Bạch Khuê cũng vốn là một đại thần
của Ngụy Huệ Vương.
Do có thế lực lớn về kinh tế, các nhà buôn lớn cũng có ảnh hưởng đáng
kể về chính trị. Ví dụ, thời Xuân Thu, nước Tần có một người tên là Tuân
Oanh bị nước Sở bắt, nước Tấn phải nhờ lái buôn, nước Trịnh cứu về.
Giai cấp nô lệ cũng có ít nhiều thay đổi. Nguồn nô lệ vẫn là tù binh,
những người phạm tội và những người phá sản phải bán vợ con hoặc bản thân
mình làm nô lệ. Nói chung nô lệ vẫn bị áp bức bóc lột tàn nhẫn như trước,
nhưng hiện tượng chôn nô lệ theo chủ đã bị xã hội cho là phi lý nên bị giảm
bớt rất nhiều. Giá nô lệ cũng đắt hơn thời Tây Chu. một. Đồng thời, do nhu
cầu của sản xuất hoặc chiến tranh, hiện tượng giải phóng nô lệ cũng đã xuất
hiện. Ví dụ: Triệu Ưởng trước lúc xuất quân đã tuyên bố: “Nếu thắng được
địch…nô lệ sẽ được giải phóng” [13, 144]. Nhiệm vụ của nô lệ thời kỳ này
vẫn là làm các công việc hầu hạ trong cung đình hoặc cho gia đình của chủ
như giữ ngựa, đánh xe, giã gạo, nấu cơm, hầu tiệc, ca múa…Ngoài ra, có một
bộ phận nô lệ làm việc trong các ngành công thương nghiệp.
1.2.2. Thời Chiến Quốc
Nổi bật của thời kỳ này là những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau
của các nước và kết thúc quá trình này là việc Tần Thủy Hoàng tiến tới thống
nhất Trung Quốc bằng vũ lực.
Trải qua cuộc chiến tranh lâu dài giữa các nước và trong nội bộ các
nước, đến thời Chiến Quốc, ở Trung Quốc có bảy nước lớn là Yên, Tề, Triệu,
Ngụy, Hàn, Tần và Sở…Đến thế kỷ IV TCN, những cuộc chiến tranh thôn
tính lẫn nhau giữa các nước ở Trung Quốc lại bùng lên với mức độ ngày càng
ác liệt. Chính vì thế, thời kỳ này gọi là thời kỳ Chiến Quốc.
Trong số 7 nước lớn, Ngụy là nước hùng mạnh sớm nhất. Với ý đồ
thống nhất lại nước Tấn cũ, năm 354 TCN, Ngụy tấn công nước Triệu ở phía
Bắc, năm 342 TCN, lại tấn công nước Hàn ở phía Nam nhưng cả hai cuộc tấn

công đó đều bị viện binh của nước Tề đánh bại. Ít lâu sau, Ngụy bị Tần và Sở
lần lượt tấn công ở phía Tây và phía Nam, bị hai nước chiếm mất nhiều đất đai
nên Ngụy suy yếu.
Ở phía Đông, cuộc xung đột diễn ra chủ yếu giữa Tề và Yên. Tiếp đó,
Tề liên minh với Ngụy, Hàn để đánh Tần, Sở. Trước sự lớn mạnh của Tề, năm
248 TCN, nước Yên liên minh với các Tần, Ngụy, Triệu, Hàn để đánh Tề.
Phần lớn đất đai của Tề bị Yên chiếm làm quận, huyện. Năm năm sau, tuy Tề
lấy lại được đất đai đã mất nhưng thế lực của Tề ngày càng yếu.
Nước Tần ở phía Tây đến đầu thời Chiến Quốc vẫn còn tương đối lạc
hậu. Để đất nước trở nên giàu mạnh, vua Tần là Hiếu Công muốn tìm người có
tài năng giúp mình cải cách. Vừa dịp ấy có Thương Ưởng, một nhà chính trị
theo đường lối Pháp gia đến nước Tần, được Hiếu Công trọng dụng. Năm 359
TCN, Hiếu Công bắt đầu ban hành các luật cải cách của Thương Ưởng với
những nội dung chủ yếu:
Tăng cường trật tự trị an: Nhân dân cứ 5 nhà, 10 nhà được tổ chức
thành một nhóm để kiểm soát lẫn nhau và cùng chịu trách nhiệm chung. Nếu
một người phạm pháp thì những người kia phải tố giác. Nếu tố giác thì được
thưởng ngang với công chém được một đầu giặc ở ngoài mặt trận. Nếu không
tố giác thì bị chém ngang lưng, nếu che giấu cho người phạm tội thì bị xử
ngang với tội đầu hàng địch ở ngoài mặt trận.
Khuyến khích sản xuất nông nghiệp: Nếu ai sản xuất được nhiều lúa,
dệt được nhiều lụa thì được miễn lao dịch. Còn nếu ai bỏ nông nghiệp để đi
buôn hoặc vì lười biếng mà trở nên nghèo đói thì cả nhà bị biến thành nô lệ.
Khuyến khích lập quân công: Bất cứ ai chém được một đầu giặc thì
được thưởng tước một cấp, nếu muốn làm quan thì được cấp lương mỗi năm
50 thạch lúa. Ruộng vườn, nô lệ được chiếm hữu nhiều hay ít, quần áo ăn mặc
đẹp như thế nào đều căn cứ theo chức tước cao hay thấp. Dù là con quý tộc,
nhưng nếu không có chiến công thì cũng không được phong tước.
Sau khi ban hành những chủ trương cải cách trên, ở kinh đô có hàng
nghìn người phản đối, trong đó có cả Thái tử. Thương Ưởng cho rằng “Muốn

thì hành pháp luật thì trước hết phải bắt đầu từ Thái tử” [13, 138]. Nhưng
không thể trị ông vua tương lai nên Thương Ưởng đã thích chữ vào mặt hai
thầy giáo của Thái Tử. Từ đó pháp lệnh được thi hành một cách nghiêm chỉnh.
Năm 350 TCN, Thương Ưởng lại tiếp tục đề ra một số chủ trương mới:
. Nhập các thôn ấp lại thành huyện, nhà nước cử quan lệnh và thừa đến
cai.
. Bỏ chế độ tỉnh điền, ruộng đất được tự do mua bán.
. Thống nhất đo lường về độ dài, dung tích và trọng lượng.
Mục đích của những chính sách cải cách của Thương Ưởng là nhằm
phá vỡ cơ sở kinh tế và đặc quyền chính trị của tầng lớp quý tộc cũ, tạo điều
kiện cho tầng lớp địa chủ mới chiếm ưu thế về kinh tế và chính trị, đồng thời
làm cho nước Tần ngày càng giàu mạnh.
Kết quả “nhà đủ người no, dân dũng cảm trong lúc chiến đấu vì công,
khiếp sợ không dám đánh nhau vì việc riêng, làng xóm đều được trị an…người
Tần giàu mạnh” [13, 139].
Sự hùng mạnh của Tần làm cho 6 nước phía Đông đều lo sợ. Vì vậy
năm 333 TCN, theo sáng kiến của Tô Tần, Tướng quốc của nước Yên, sáu
nước Yên, Tề, Triệu, Ngụy, Hàn, Sở đã thành lập một liên minh gọi là Hợp
tung để chống Tần. Nhưng giữa các nước này vốn có nhiều mâu thuẫn nên
đồng minh quân sự đó chỉ tồn tại được 3 năm thì bị phá vỡ. Sau đó sáu nước
còn lại tổ chức hợp tung mấy lần nữa nhưng cũng không bền chặt.
Để phá vỡ hợp tung của các nước phía Đông, năm 328 TCN, Tướng
quốc của Tần là Trương Nghi dùng mánh khéo ngoại giao để chia rẽ các nước
phía Đông, lôi kéo các nước này liên minh với Tần gọi là “Liên hoành” nhưng
thực chất là bắt các nước này phải Thần phục Tần. Sau đó, Tần liên tiếp tấn
công các nước láng giềng Triệu, Ngụy, Hàn, Sở và nhiều lần thu được thắng
lợi.
Trong quá trình ấy, các nước nhỏ như Trịnh, Trung Sơn Tống, Lỗ,
Vệ… đều bị các nước lớn thôn tính. Còn nước Chu nhỏ bé thì năm 367 TCN,
do việc tranh giành ngôi vua cũng chia thành hai nước là Tây Chu và Đông

Chu. Đến năm 256 TCN và năm 249 TCN, hai nước này lần lượt bị Tần tiêu
diệt. Đến đây ở Trung Quốc chỉ còn 7 nước lớn và Tần đã trở thành một lực
lượng vô địch. Năm 230 TCN, Tần diệt Hàn, và sau đó đã liên tiếp diệt Triệu
(228 TCN), Ngụy (225 TCN), Sở (223 TCN), Yên (222 TCN), Tề (221 TCN).
Thời Chiến Quốc đến đây chấm dứt, Trung Quốc thống nhất.
Về tình hình kinh tế xã hội: Cũng giống như thời Xuân Thu thì tiến bộ
mới quan trọng nhất trong lĩnh vực kinh tế thời kỳ này là sự ra đời của đồ sắt.
Đến thời Chiến Quốc, đồ sắt càng được sử dụng một cách phổ biến. Nhiều loại
công cụ bằng sắt như lưỡi cày, lưỡi cuốc, xẻng, liềm, búa và một số khuôn đúc
sắt thuộc thời kỳ này đã được phát hiện.
Trong lĩnh vực nông nghiệp đã biết sử dụng gia súc làm sức kéo, đặc
biệt là vấn đề thủy lợi. Ở thời Chiến Quốc, các công trình thủy lợi được xây
dựng nhiều hơn. Các nước Ngụy, Tần đều có những kênh đào khá dài.
Các nghề thủ công thời Chiến Quốc lại càng có những bước tiến mới.
Riêng nghề luyện sắt có sự tiến bộ về mặt kỹ thuật. Ngoài việc làm rèn sắt,
người ta còn biết kỹ thuật đúc, do đó đã luyện được cả gang và thép.
Nền thủ công nghiệp tư doanh đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc cũng
phát triển. Những nghề đòi hỏi phải có nhiều vốn như nghề luyện sắt, nghề
làm muối thường do các nhà giàu kinh doanh. Họ phải nộp thuế bằng 3/10 thu
nhập cho nhà nước. Những nghề thủ công vốn là nghề phụ gia đình giờ đây
cũng không ngừng tách rời khỏi nông nghiệp để trở thành những nghề độc lập.
Chính bộ phận thủ công nghiệp này đã cung cấp các loại đồ dùng hàng ngày
cho nhân dân.
Thời Xuân Thu thì hoạt động thương nghiệp đã phát triển nhưng đến
thời Chiến Quốc cũng khá sôi nổi nhưng sang thời Chiến Quốc, nền thương
nghiệp của Trung Quốc càng phát triển hơn trước. Do đó, trong xã hội đã xuất
hiện một số lái buôn lớn có số vốn lên đến hàng vạn lạng vàng, chuyên đầu cơ
tích trữ và lũng đoạn thị trường.
Đến thời Chiến Quốc tiền tệ được dùng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực:
trao đổi hàng hóa, trả tiền thuê nhân công, cho vay lấy lãi, nộp thuế. Tuy vậy,

do tình trạng chia cắt đất nước nên mỗi nước có một loại tiền riêng: các nước
Ngụy, Triệu, Hàn dùng tiền hình lưỡi xẻng gọi là bố, các nước Yên, Tề dùng
tiền hình con dao gọi là đao, các nước Tần, Đông Chu, Tây Chu dùng tiền
hình tròn, nước Sở thì vẫn dùng bối bằng đồng.
Về quyền sở hữu ruộng đất: Do chế độ tỉnh điền bị phá vỡ vào thời
Xuân Thu và việc mua bán ruộng đất cũng tương đối phổ biến. Ở thời kỳ này
chế độ ruộng tư càng phát triển mạnh mẽ, chế độ tỉnh điền đang đi đến chỗ tan
rã hoàn toàn. Trong hoàn cảnh ấy, ruộng đất ngày càng tập trung vào tay các
địa chủ lớn, nông dân nhiều người bị mất ruộng đất, do đó lúc bấy giờ có câu:
“Nhà giàu ruộng liền bờ bát ngát, người nghèo không có tấc đất cắm dùi” [13,
143]. Năm 350 TCN, nước Tần thông qua luật cải cách của Thương Ưởng,
tuyên bố bỏ chế độ tỉnh điền, cho dân được mua bán ruộng đất. Những chính
sách ấy của Nhà nước càng tạo điều kiện cho chế độ ruộng tư phát triển.
Về quan hệ giai cấp: Sự phát triển của các ngành kinh tế và sự thay đổi
về quyền sở hữu ruộng đất làm cho cơ cấu giai cấp trong xã hội cũng thay đổi,
sự xuất hiện chế độ ruộng tư đã dẫn đến sự phân hóa trong giai cấp thống trị.
Ở thời Chiến Quốc, không những quan lại nhà nước mà một số nhà buôn giàu
cũng mua được nhiều ruộng đất trở thành những thương nhân kiêm địa chủ.
Đầu thời Chiến quốc trong xã hội xuất hiện một số thợ thủ công và
người buôn bán tự do, tương truyền ở nước Lỗ có một người thợ mộc lành
nghề nổi tiếng là Công Thâu Ban (thường gọi là Lỗ Ban) về sau được tôn làm
ông tổ của nghề mộc Trung Quốc. Ở nước Tống, có một số thợ có nơi làm
việc cố định và truyền nghề nghiệp từ đời này sang đời khác. Càng về sau,
tầng lớp thợ thủ công cá thể xuất hiện càng nhiều. Họ chuyên làm nghề nghiệp
của mình rồi đem sản phẩm đổi lấy các loại tư liệu sinh hoạt. Mạnh Tử nói:
“Thợ gốm, thợ rèn đem sản phẩm đổi lấy thóc”, Hàn Phi cũng nói: “Người thợ
đóng xe muốn người ta giàu sang, người ta đóng áo quan thì muốn người ta
chết non” [13, 144]. Cuối thời Chiến quốc, nhà buôn kiêm địa chủ nổi tiếng
nhất là Lã Bất Vi ở nước Triệu, một người đã bỏ ra một nghìn cân vàng để

×